Tổng kết sự kiện bằng một bài tùy bút – Nét riêng độc đáo của VHNT Trường Sơn
TỔNG KẾT SỰ KIỆN BẰNG MỘT BÀI TÙY BÚT –
NÉT RIÊNG ĐỘC ĐÁO CỦA VHNT TRƯỜNG SƠN
Từ ngày 01 đến 07 tháng 8 năm 2025, tại Trung tâm Bảo trợ xã hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (xã Yên Xuân, thành phố Hà Nội) Hội VHNT Trường Sơn đã tổ chức thành công Trại viết văn Trường Sơn lần thứ 3. Tham dự Trại viết này với tư cách những người làm công tác Biên tập của Trang Thông tin Điện tử và Bản tin của Hội Truyền thống Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh Việt Nam chúng tôi có nhiệm vụ thu nạp và chuyển tải tổng nguồn thông tin về hoạt động trong suốt quá trình từ ngày khai mạc đến ngày bế mạc của Trại viết… Ở Trại viết này bên cạnh việc tác nghiệp thông thường, chúng tôi được quan sát và chứng kiến rất nhiều điều thú vị ý nghĩa và kỳ lạ - Điều đầu tiên thấy một đội ngũ những người cầm bút, họ từng là những người một thời trận mạc, nay phần đông số họ đều trên độ “thất thập” và trong số họ có tới 1/3 trên độ “bát thập”… Nhưng họ vẫn miệt mài cầm bút, miệt mài “ chắt nặn” trong ký ức của mình để tái tạo bức tranh của một thời khói lửa chiến tranh họ đã cùng nhau làm nên một con đường huyền thoại – Trường Sơn. Và ngày nay họ lại miệt mài cầm bút vì Truyền thống và nghĩa tình Trường Sơn; vì muôm mặt đời thường của cuộc sống xã hội…
Bên cạnh cái thú vị đến kỳ lạ ấy có một tình tiết rất đặc biệt và kỳ lạ mà có lẽ không riêng gì chúng tôi mà tất cả những người làm công tác Báo chí tuyên truyền hiếm gặp – Đó là trong chương trình bế mạc Trại viết - Thay vì một bài báo cáo tổng kết đầy khuân mẫu. Người đảm trách nhiệm vụ báo cáo tổng kết của chương trình bế mạc Trại viết đã “bung ra” một cách làm sáng tạo và độc đáo - chế tác nội dung báo cáo tổng kết sự kiện này bằng một bài tùy bút rất đầy đủ thông tin và đặc biệt “rất văn học, rất hấp dẫn, rất nhân văn và cũng rất... lọt tai”…
Ban Biên tập Trường Sơn xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc toàn văn bài tùy bút - báo cáo tổng kết Trại viết văn Trường Sơn 3 do Đại tá, Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý, Phó Chủ tịch Hội VHNT Trường Sơn, Phó Chủ nhiệm Trại viết văn Trường Sơn 3 thực hiện.
PS Ban Biên tập Trường Sơn

Đại tá, Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý, Phó Chủ nhiệm Trại viết văn Trường Sơn 3 trao quà tặng Trại viên cao tuổi nhất của Trại và tặng phu nhân của một Trại viên đi cùng để phục vụ người chồng đang mang căn bệnh hiểm nghèo nhưng anh vẫn ôm giấy bút về dự Trại
TÙY BÚT CHO MỘT TRẠI VIẾT
Trại viết văn lần thứ 3 của Hội Văn học Nghệ thuật Trường Sơn được tổ chức tại Trung tâm bảo trợ xã hội – Hội Nạn nhân chất độc da cam/ dioxin Việt Nam đóng ở xã Yên Xuân, Hà Nội. Một địa chỉ dễ gợi nhắc đến các dấu vết của một cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài hai mươi mốt năm ở Việt Nam (1954 – 1975) mà không ít tác giả đăng ký tham gia trại viết này là người trong cuộc. Họ từng là bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến có mặt trên con đường Trường Sơn những năm chống Mỹ. Những năm tháng bom đạn tơi bời và chất độc da cam/ dioxin giăng tràn Trường Sơn. Hơn hai mươi nghìn đồng đội thân yêu của họ, phần đông đang ở độ tuổi thanh xuân đã ngã xuống nơi ấy. Ngã xuống để cho chiến tranh được kết thúc, hòa bình được trở lại và non sông đất nước nối liền một dải. Chiến tranh, vâng, cuộc chiến tranh bi tráng ấy vẫn còn là nỗi ám ảnh trong lòng người lính. Và, trong mấy ngày ở trại viết những người viết văn đã gặp những nạn nhân của cuộc chiến tàn khốc đã kết thúc cách đây nửa thế kỷ, với hình thể không bình thường dù những làn mù sương tàn độc được rải xuống từ máy bay Mỹ khi họ chưa sinh ra. Hậu quả chiến tranh hình như vẫn chưa chịu buông tha những sinh linh hiền lành, nó còn gieo rắc tai họa cho con cháu của những người lính ra trận thời đó. Và, ngay chính trong cơ thể của 1/5 trại viên vẫn còn mang trong mình những mảnh bom, mảnh đạn, những dấu tích rất khó gột sạch của chất diệt cỏ cây được mang đến từ một nước giàu có ở bên kia Thái Bình Dương bao la. Các anh chị em đến Trại viết Trường Sơn 3 để làm cái công việc mà có thể ai đó cho rằng không hợp thời nữa là chống lại sự lãng quên quá khứ; một quá khứ vừa hào hùng vừa đau thương, kiêu hãnh bao nhiêu thì xót xa bấy nhiêu, như sự thật vẫn là sự thật, không thay đổi, đánh tráo được.
Một trại viết văn không giống với hầu hết các trại viết văn khác mà tôi và các anh chị em từng biết hoặc từng tham gia. Một trại viết văn mà hầu hết là cựu binh cao tuổi. Người lớn tuổi nhất đã gần 90, sàn sàn là tuổi 70, 80; tác giả trẻ cũng đã U60, có nghĩa rất ít người chưa có cháu nội ngoại. Một trại viết văn có nhiều người cao tuổi nhất, nhiều thương binh bệnh binh nhất, nhiều người ăn ngủ khó khăn nhất khi trái gió trở trời. Đi trại viết văn là phải cõng theo túi thuốc trị bệnh kinh niên nào là huyết áp cao, huyết áp thấp, phì đại tiền liệt tuyến, tiểu đường, tim mạch, trào ngược dạ dày… Lại có người vợ theo chồng đến trại viết, nói chính xác là chăm chồng khi anh vừa từ bệnh viện để xạ trị về. Một trại viết gồm các tác giả phần đông có tuổi nghề sáng tác văn chương rất ít, lại hầu như chưa hề qua một lớp đào tạo bồi dưỡng viết văn nào. Yêu văn chương, nhớ đồng đội, trân trọng từng kỷ niệm, thao thức về nhân tình thế thái thì hăm hở và cặm cụi cầm bút, thì liều mình gõ phím với hy vọng được chạm vào mảnh đất sáng tạo văn chương. Được đi trại viết là vui rồi, được gặp bạn bè đồng đội là quên đi cái khó ở của tuổi già, là để được chuyện trò rổn rảng, cười ha hả như thời lính tráng “Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi” (Thơ Tố Hữu). Tình đồng đội bất ngờ thăng hoa; trại viết trở nên rộn ràng, khi thấy ai cũng được vui hơn, trẻ hơn, hoạt bát hơn, chúng tôi thực sự hân hoan và trước khi khai mạc (ngày 1/8/2025), Ban Chủ nhiệm đã đánh giá rằng Trại viết Trường Sơn 3 đã hoàn thành 49% nhiệm vụ.
Còn lại 51% nhiệm vụ được gói lại trong 4 âm tiết “Chất lượng tác phẩm”. Vâng, Ban Chủ nhiệm Trại viết không quá nhấn mạnh về số lượng tác phẩm. Bởi vì thời gian không nhiều và chúng tôi chẳng muốn đặt gánh nặng lên vai các đồng đội, đồng nghiệp đáng kính của mình. Thậm chí chúng tôi đã nói rằng nếu ai đó chưa có tác phẩm cũng bình thường vì sáng tác văn học luôn là một quá trình bền bĩ , thăng trầm, sắc sắc không không, cũng như người đi câu vậy, may mắn vớ được cá to, còn thường thường là mấy chú lóc nhóc mỏng lép hoặc rủi ro thì giỏ trống u u gió chiều. Thế mà không phải thế đâu ạ. Sáu mươi tác giả đều có tác phẩm, hay dở chúng ta sẽ bàn sau, bây giờ cho phép tôi được vui mừng thông báo mấy con số ý nghĩa này: Trại Viết Trường Sơn 3 đã thu hoạch được 12 truyện ngắn; 17 bút ký và tản văn; 37 bài thơ.
Đó là các truyện ngắn Ánh mắt Trường Sơn của Mai Tiến Nghị; Bến đậu của Nguyễn Huy Bách; Đợi mưa và Linh của Trương Ngọc Hùng; Nụ hôn chiến tranh của Hồ Bá Thược; Đường về với mẹ của Nguyễn Bổng; Trăng cuối mùa vẫn sáng của Đỗ Ngọc Thứ; Người đàn bà tuổi Thân của Phan Văn Điển; Đèn nhà bên vẫn sáng của Nguyễn Vĩnh Nguyên; Tình đồng đội của Nguyễn Thị Kim Thoa; Đêm trăng suông và Hương bưởi của Đỗ Thu Yên…Theo đánh giá của Ban Chủ nhiệm, trong Trại viết lần này thể loại truyện ngắn thực sự nổi trội. Ám ảnh chiến tranh và khát vọng hòa bình. Tình yêu thương và thân phận con người. Nỗi đau và hạnh phúc. Tất cả được thể hiện trong một số truyện ngắn hay vừa giàu chất hiện thực vừa trữ tình lãng mạn, có cả yếu tố huyền ảo tâm linh nữa của các nhà văn Mai Tiến Nghị, Trương Ngọc Hùng, Hồ Bá Thược, Nguyễn Bổng, Đỗ Ngọc Thứ, Phan Văn Điển…Nhà văn Mai Tiến Nghị thực sự giỏi trong nghệ thuật đối thoại của nhân vật, đây là những ví dụ: “Ni cô (nhân vật trong truyện ngắn Ánh mắt Trường Sơn) không trả lời. “Bà lặng lẽ nhìn ra vườn. Một chiếc lá vàng rơi ngang qua khung cửa. Hình như bà đang nuốt nước mắt. Rồi bà quay lại, ánh mắt không còn lạnh lùng mà đượm buồn, thoáng ướt.
-Ngày ấy…chúng tôi cũng là con gái. Cũng có tuổi trẻ, cũng muốn sống, muốn yêu. Nhưng chiến tranh không cho phép điều đó. Nụ hôn hôm ấy…chỉ là một giây phút bồng bột, cũng là một cách để nhắc mình rằng…chúng tôi vẫn còn là phụ nữ.
Bà dừng lại. Giọng nghèn nghẹn:
-Sau hôm ấy…chúng tôi bị kiểm điểm. Vì chúng tôi đã hét lên câu làm ảnh hưởng tới người ra trận. Tôi không hối hận vì đã hôn anh…chỉ tiếc là ánh mắt anh lúc đó …như thể tôi là một người đáng khinh”. Đây nữa, lời thoại đã neo lại trong người đọc những cảm xúc mạnh mẽ và một thông điệp về cuộc sống vô cùng ám ảnh: “-Tôi di tu…không phải vì không ai lấy. Mà vì…tôi cần quên. Chiến tranh đã qua lâu rồi. Nhưng nó để lại vết sẹo trong tâm.
Tôi gật đầu. Có lẽ mắt tôi đã ươn ướt. Rất lâu sau, bà khẽ nói:
-Nhưng hôm nay gặp anh, tôi thấy nhẹ lòng.Ký ức có thể không quên. Nhưng có thể buông.”
Mỗi truyện ngắn được coi như một lát cắt cuộc sống, mang những câu chuyện đời với bao cung bậc khác nhau. Nếu như Mai Tiến Nghị, Nguyễn Bổng, Hồ Bá Thược hay Đỗ Thu Yên nghiêng hẳn về bút pháp hiện thực thì Trương Ngọc Hùng lại muốn thể nghiệm cách viết hiện thực huyền ảo, có yếu tố tâm linh trong “Đợi mưa” và “Linh”; “Mỗi đêm mưa gió, chàng lại về. Tôi ngủ ngon lành trong vòng tay, chìm trong mùi đàn ông của chàng. Tiếng thì thầm, tiếng cọt kẹt của giát giường ghép bằng tre nhiều lên. Chàng trai của tôi vững vàng hơn, chủ động hơn, luôn báo cho tôi những gì sẽ xảy ra…”. Dù các anh chị viết theo bút pháp nào thì chúng ta vẫn nhận ra được tình yêu cao cả và bình dị của những người lính, họ muốn trao gửi cái đó cho cuộc đời này, trước hết là với những người phụ nữ có những số phận khác nhau nhưng đều “giống nhau về nỗi đau mất mát” (Hồ Bá Thược-Nụ hôn chiến tranh).
Tôi ghim vào lòng mình mấy dòng viết về mẹ từ tản văn “Nỗi đau của mẹ” của tác giả Hoàng Thụy Vân. Nói thật, đấy chưa phải là tản văn xuất sắc nhưng nó đã làm tôi xúc động bởi những giải bày chân thật đầy xa xót như thế này: “ Nỗi đau của mẹ, một nỗi đau không có điểm tựa, không có nơi để gửi gắm, cứa vào lòng tôi như một lưỡi dao vô hình. Mẹ tôi, người phụ nữ mạnh mẽ đã tiễn hai người con ra trận, nay chỉ còn lại một người trở về, mang theo nỗi đau khôn nguôi về người con đã mãi mãi ra đi”. Còn nữa, trong bút ký “Thăm bạn nơi chiến trường xưa” Lê Thuần đã viết rất xúc động Mẹ châm lửa lên chiếc đèn dầu, lặng lẽ rút nén nhang: “Con ơi, mẹ không mong gì hơn, chỉ mong người ta nhớ đến con”. Trời ơi, chỉ mong người ta nhớ đến con! Cầu mong của một người mẹ có con là liệt sĩ chỉ gói gọn lại trong một câu nói mỏng manh như tiếng thở dài mà nặng nghìn cân. Cuộc sống đã và đang có rất nhiều sự lãng quên. Quá khứ đầm đìa mồ hôi, máu và nước mắt đâu phải lúc nào cũng được ghi nhận xứng đáng. Nếu ai đó thực lòng nhớ tới những người đã ngã xuống vì Tổ quốc thì chắc chắn tay họ chẳng bao giờ nhúng chàm, họ không bị ra tòa vì tội tham nhũng, nhận hối lộ, không bước vào lối sống sa đọa, không lừa dối phản bội nhân dân, đồng chí của mình. Tôi tin những câu văn như thế sẽ góp phần cảnh báo và thức tỉnh một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên chúng ta, hãy sống và cống hiến cho xứng đáng với cha anh mình.
Bút ký ở Trại viết Trường Sơn 3 khá phong phú, đa dạng về nội dung phản ánh. Hồi ức Trường Sơn thời “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” (Thơ Phạm Tiến Duật) nói riêng hay hồi ức về chiến tranh nói chung vẫn chưa bị mờ phai trong lòng nhiều người. Có thể kể đến những bút ký khá sinh động như “Thăm bạn nơi chiến trường xa” của Lê Thuần; “Ở giữa linh hồn sống – chết” của Nguyễn Kim Chúc; “Người anh hùng ở tuổi hai mươi” và “Bữa sáng khó quên trên trận địa”; “Trinh sát địch ở Nam Lào năm 1972” của Lê Lợi; “Chuyến đi lịch sử có một không hai” của Nguyễn Viết Lợi; “Chuyện bây giờ mới kể” của Lê Trung Khiên; “Niềm vui của một cựu chiến binh” của Vương Văn Kiểm; “Người cựu chiến binh từng trải qua ba cuộc chiến tranh” của Vũ Ngọc Hòa; “Lặng lẽ niềm đau” của Nguyễn Thị Kim Thoa; “Có một mối tình như thế”; “Những ngày sống bên chị” của Tạ Thị Hoán; “Những ngôi mộ gió” của Thúy Hậu; “Người ở lại” của Hoàng Văn Kính; “Ngầm Tôm Du, một miền ký ức” của Nguyễn Quốc Thiện; “Cô giao liên không mang súng” của Nguyễn Kim Chúc; “Ký ức vẹn nguyên” của Khuất Duy Ất. Trường Sơn với Tổ quốc mãi mãi là mốc son chói sáng trong dòng chảy lịch sử của đất nước, là một kỳ tích ghi đậm dấu ấn trong trang sử vàng của dân tộc Việt Nam, thật đúng như tác giả hoàng Văn Kính đã viết trong bút ký của mình.
Đời sống hôm nay cũng được một số trại viên quan tâm thể hiện thật nhanh nhạy. Đấy chính là minh chứng về sự nhạy cảm đầy tính nhân hậu của những người cầm bút. Tôi đã lặng người đi khi đọc bút ký “Chuyện về “Bà đại sứ” của Đỗ Ngọc Thứ viết về cháu Vương Thị Quyên sinh năm 1989 quê ở Quảng Bình là con gái của ông Vương Quốc Thuấn sinh năm 1953 là một người lính từng ở chiến trường Trường Sơn và Đông Nam bộ. Di chứng chất độc da cam/ dioxin từ ông bố đã truyền sang con gái từ khi cháu mới sinh ra. Tuy nhiên, cái đáng nói nhất về cháu Vương Thị Quyên không phải là sự không hoàn hảo cơ thể mà ý chí, nghị lực vươn lên để được sống làm người đàng hoàng, tự trọng, tự tin, lạc quan. Không chỉ yêu thương chia sẻ mà chúng ta khâm phục Con Người viết hoa như thế. Tốt nghiệp THPT, Quyên vào học Trung cấp Tin học của Trường Đại học Quảng Bình rồi nhận được học bổng du học ngành Báo chí – Truyền thông tại Trường Đại học NIILM, bang Haryana (Ấn Độ) theo Chương trình Tìm kiếm tài năng nữ sinh trẻ của Trung ương Hội Nạn nhân chất độc da cam/ dioxin Việt Nam… Và thật xúc động các anh chị ạ, Trong thời gian học ở Ấn Độ, cháu cũng có tình cảm với một bạn trai Ấn. Có lẽ đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trái tim cháu được đập những nhịp đập khác thường; lần đầu tiên trái tim cháu được sưởi ấm bởi tình yêu lứa đôi. Cho đến bây giờ cháu vẫn luôn tôn trọng tình yêu đó, dù nó không trọn vẹn…(Chuyện về “Bà đại sứ - Đỗ Ngọc Thứ). Văn học đâu phải là gì xa xôi lắm đâu, chuyện quanh ta, chuyện thường ngày, những con người gần gũi có thể trở thành nhân vật của các nhà văn như trường hợp cháu Vương Thị Quyên đang làm việc tại Trung tâm Bảo trợ xã hội nạn nhân chất độc da cam/ dioxin đóng tại xã Yên Xuân, Hà Nội này là một ví dụ. Bên cạnh đó còn có những bút ký, ghi chép khác như “Cần lắm những chuyến đi” của Nguyễn Bổng; “Xuân về lên thăm các anh hùng liệt sĩ nơi biên cương Tổ quốc” của Phạm Huy Chương; “Ngọn lửa nhỏ” của Nguyễn Xuân Hùng; “Người đồng đội của tôi” ; “Người lính CCB lái xe Trường Sơn lỡ hẹn một ước mơ” của Xuân Bách. Tuy nhiên, điều rất đáng tiếc là nhiều bút ký viết còn sơ lược, đơn giản và rất thiếu chất văn học.
Thơ, tiếng nói tâm hồn như cách nói quen thuộc của nhiều người vẫn chiếm phần lớn số lượng tác phẩm trong Trại viết Trường Sơn 3. Ngoài những tác giả quen thuộc như Lê Thúy Bắc, Đỗ Thu Yên, Trịnh Oanh Lan, Vương Văn Kiểm, Trần Đình Nam, Phạm Cao Phong, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Minh Phú, Lê Lợi, Ngọc Phát, Phương Nga, Bùi Thanh Bình, Hoàng Văn Kính, Nguyễn Viết Lợi…lần này có thêm những tác giả mới lần đầu tham gia trại viết của Hội VHNT Trường Sơn như Hà Kim Quy, Tạ Thị Hoán, Nguyễn Huy Bách, Trần Thị Kim Quy, Nguyễn Đình Hợp, Ngô Chí Cao, Nguyễn Xuân Hùng, Nguyễn Thị Huệ…Thơ chưa có những khởi sắc mới mẻ, nhìn chung là chân chất mộc mạc và đó đây còn thể hiện sự dễ dãi mòn sáo.
Tuy nhiên, vẫn có những câu, những đoạn trong một số thi phẩm vẫn ít nhiều tạo được ấn tượng cho người đọc. Ký ức của những năm tháng không quên trở thành những thi ảnh gần gũi và yêu thương.
Đây là Hoàng Văn Kính đang hồi niệm về Trường Sơn: Trường Sơn vào mùa mưa nước đổ/ Mây dăng dăng xám xịt cả bầu trời/ Sốt rét rừng, trùm chăn bỏ bữa/ Em vẫn cười quên cả nỗi đau (Nụ cười em). Yêu thương nhiều lắm, nhớ nhung nhiều lắm mới giữ được trong trái tim mình cái nụ cười quên cả nỗi đau của một nữ đồng đội như thế. Đây nữa, Nguyễn Thị Huệ rung rung nhớ lại Bao buồn vui cùng đồng đội thân thương/ Đã nhuộm tím cả một thời con gái/ Gửi lại anh hương hoa rừng tháng bảy/ Gió Cổng Trời mây trắng nhở nhơ bay (Viết về anh); Và đây nữa, chàng lính sinh viên Trần Đình Nam còn bồi hồi: Giữa cuộc hành quân nhớ ghế đá Bờ Hồ/ Nhớ trà chén kẹo dồi gốc đa đền Bà Kiệu/ Câu thơ viết bên Nhà bia Văn Miếu/ Gửi cô bạn quen hôm vừa mới nhập trường…(Nghe em hát Bài ca Hà Nội). Có một Trường Sơn anh hùng và lãng mạn trong tâm hồn người lính, cái hôm qua còn hiển hiện giữa hôm nay trong sự ồn ào, xô bồ, sáng tối thái quá của cuộc sống: Trường Sơn Đông tháng bảy/ Sáng nắng, chiều mưa giông/ Ngày đêm bom đạn nổ/ Tuyến đường em vẫn thông// Yêu nhau qua ánh mắt/ Lời ngỏ chưa kịp trao/ Hẹn thầm ngày toàn thắng/ Tay nắm tay nghẹn ngào (Trường Sơn ngày ấy – Ngô Chí Cao). Sự nuối tiếc tháng năm trong veo giữa mịt mùng bom đạn làm chúng ta nao lòng và tiếc nuối như giải bày của Minh Phú: Anh công binh hòa mình trong bóng tối/ Lấp hố bom, tiếng súng gọi thông đường/ Ánh đèn rùa mờ tịt dưới làn sương/ Vượt trọng điểm thương ai cũng vội…(Những ngày đáng nhớ). Nỗi nhớ Trường Sơn là có thật, nó như một phần cuộc sống của những người lính Trường Sơn bây giờ: Con đường xưa còn nhớ/ Những người con đất này/ Trên đồi thiêng hoa trắng/ Trầm hương gió nhẹ bay (Hoa trắng Trường Sơn- Ngọc Phát). Trịnh Oanh Lan dù đang còn trẻ vẫn đắm lòng vào “Cung đường sau chiến tranh”: Các anh các chị nằm đây/ Xa quê mấy trăm cây số/ Những nấm mộ lặng im/ Không đòi ai thắp hương/ Không đòi ai xây tượng đài Tổ quốc ghi công// Không nói được lời nào/ Lau mộ cho các anh chị/ Những nén hương chúng tôi khấn lạy/ Có những cung đường sau chiến tranh như thế…Nhà thơ Lê Thúy Bắc mang tới những cảm nhận khắc khoải và khát khao của thời hậu chiến: Con qua vùng cỏ cháy/ Mùi napan xông đêm/ Lác đác cánh cò thất thanh mây trắng/ Những nốt chân tròn chờ cơn mưa đến/ Xoa đi mọi vết nao lòng/ Đêm sẽ rời đi / Trên đoạn đường trải qua bão tố/ Muôn trùng ở lại sau lưng/ Những vết sẹo, ru nồng đá thắm/ Gánh nắng về rừng/ rải nắng ra sông…Và, Những hồi sinh nhòa trong tiếng trúc/ Đất trở mình từ phía bạc sương…Trong bài thơ “Con đi tìm cha”của Hà Kim Quy chúng ta sẽ cảm thấu được những đau thương và yêu thương mang nghĩa tri ân sâu thẳm của lớp người sinh sau chiến tranh: Mỗi dòng tên kể về một quê hương/ Mỗi dòng tên bấy nhiêu nhà mong gặp/ Mỏi mắt chờ cha, lệ mẹ khô thành đá/ Nhói buốt một đời tim quặn thắt, héo hon… Và, đây là cái nhìn rất nhân văn Đồng đội cha tuổi xuân còn nguyên đó/ Tóc bạc rồi, chưa tìm được mộ cha//…Bao nỗi tủi hờn, bao nỗi xót xa/ Con bật khóc thương phận đời chinh chiến/ Giữa rừng cây lặng im, một nhánh cây lao xao vẫy gọi/ Linh cảm mách rằng: cha đã nhận ra con…Thế đấy, chiến tranh không phải trò đùa, chia ly, mất mát, đợi chờ. Viết như Hữu Thỉnh thì Một đời người mà chiến chinh nhiều quá/ Em níu giường níu chiếu đợi anh (Nghe tiếng cuốc kêu). Nên chưa ngừng rơi những giọt nước mắt nghẹn ngào cho năm tháng đã qua: Xót xa tiếng nấc nghẹn ngào/ Chia tay thuở ấy nay trào lệ rơi/ Đón anh, một gói xương vơi/ Bạn bè gom lại từ nơi bìa rừng…(Đắng lòng-Nguyễn Thị Thanh Xuân). Có thể còn nhiều câu thơ, bài thơ xúc động nữa mà tôi chưa kip trích dẫn ở đây. Vì thời gian không cho phép dông dài và quá tản mạn.
Giờ giã bạn sắp đến. Hơn một tuần bên nhau để cùng nhau sống lại thời quân ngũ, để cùng nhau viết ra những dòng văn câu thơ gan ruột của mình. Có thể đã có bài hay và còn có những tác phẩm chưa đến đích. Cũng là lẽ bình thường của văn chương. Đại thi hào Nguyễn Du từng viết Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Tôi tin, chắc chắn tin rằng những gì các anh chị viết ra đều bằng cái tâm của mình. Viết như mình đã yêu thương, đang yêu thương và mãi mãi yêu thương. Về đồng đội. Về Trường Sơn. Về Tổ quốc. Viết như là sự biết ơn những năm tháng bi tráng đã đi qua. Viết như là hy vọng tốt đẹp cho tương lai đất nước. Viết cho khát vọng hòa bình, cho non sông đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ kính yêu mong muốn.
Và, chúng ta không thể quên những ngày hôm qua, Trại viết Trường Sơn 3 đã nhận được tình cảm, sự quan tâm của các lãnh đạo Hội Trường Sơn Việt Nam cùng nhiều đồng chí ở các cơ quan, bộ phận của Hội, các nhà văn trong Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội như Trần Đăng Khoa, Hữu Việt, Võ Thị Xuân Hà, Đỗ Doãn Hoàng, Trần Gia Thái, Nguyễn Thị Mai, Trần Nhương và nhiều người khác. Chúng ta biết ơn sự yêu thương và giúp đỡ của các nhà tài trợ gần xa. Chúng ta không thể quên Trung tâm Bảo trợ xã hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam từ Giám đốc Thăng Long đến các anh chị em, các cháu đã chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ, từng giờ lên lớp, sinh hoạt cho các trại viên. Muốn nói thật nhiều mà chỉ biết rung rung cất lên một câu này: “Thương lắm, nhớ lắm Trung tâm nhân ái này các anh chị em, các cháu ạ.” Nhớ lời Phật: Hãy sống trong thế giới biết ơn, chúng tôi xin được gửi lời biết ơn tới các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, các nhà tài trợ và tất cả mọi người trong Trung tâm bảo trợ nạn nhân chất độc da cam/ dioxin. Cuối cùng chúng tôi xin được nói lời cảm ơn các anh chị em đã từ các tỉnh thành Ninh Bình (15 tác giả); Hà Nội (14 tác giả); Thanh Hóa (6 tác giả); Bắc Ninh (6 tác giả); Lào Cai (3 tác giả); Nghệ An (3 tác giả); Hải Phòng (2 tác giả); Phú Thọ (1 tác giả); Tp Hồ Chí Minh (1 tác giả); Đà Nẵng (1 tác giả); Thái Nguyên (1 tác giả) đã vượt nhiều khó khăn đến tham gia và góp phần quan trọng nhất làm nên thành công tốt đẹp cho Trại viết Trường Sơn lần thứ 3.
Trại viết Trường Sơn 3
Phần đông cây bút già
Đùa nhau cười ha hả
Lại mơ màng Trường Sơn
Về đây ta trẻ hơn
Giữa bạn bè, đồng đội
Dẫu thuốc men sớm, tối
Vẫn đều đều văn thơ
Nụ hôn thời gian khổ
Ánh mắt giữa đạn bom
Tình yêu như nắng sớm
Bâng khuâng đợi mưa chiều…
Hóa ra điều kỳ diệu
Đã nằm trong trái tim
Trập trùng muôn dặm lính
Bồi hồi từng bước văn…
Hẹn gặp lại ở Trại viết Trường Sơn lần thứ 4 với nhiều yêu thương nhất.
Ngày 7 tháng 8 năm 2025
Đại tá Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý
.