------------
LÃO CHỒNG HÂM
Truyện ngắn
Năm nào cũng vậy, cứ vào dịp các bác Cựu chiến binh ở quê tổ chức gặp mặt nhân Ngày Thương binh, liệt sỹ (27/7) là lão chồng tôi lại về quê. Rõ là hâm. Lão chưa một lần khoác lên mình bộ quân phục màu xanh, cũng chưa một lần đội trên đầu chiếc mũ có gắn ngôi sao vàng lấp lánh, nói chi đến Cựu chiến binh. Đã thế, lần nào về lão ấy cũng mua sẵn hàng trăm tờ vé số, bảo rằng “để làm quà cho mấy bác”. Giời ạ! Trên đời đã có ai dùng vé số làm quà chưa? Hâm đến thế là cùng. Thà lão cứ mua vài hộp bia, vài túi bánh ngon hoặc ủng hộ các bác ít tiền nghe còn có lý, đỡ mất mặt vợ con. Đằng này cứ vé số, vé số. Lần này cũng vậy, trời tháng Bảy nắng như đổ lửa, mặt đường cứ loang loáng, hoa hết cả mắt, vậy mà lão ấy vẫn háo hức. Ngồi sau xe lão nghĩ mà tức lộn ruột. Nếu không kết hợp về thăm quê và thắp cho các cụ đôi bên nén hương thì ngu gì mà về theo. Mặc xác lão, làm gì thì làm. Người đâu mà dở dở, ương ương.
* * *
Đêm vùng quê yên tĩnh, Gió xào xạc reo trên tán cây. Lão ngồi uống trà, chuyện trò cùng ông anh rể. Mắt lão dán vào hai bức di ảnh, một già, một trẻ. Đấy là di ảnh của bố và mẹ lão. Nhấm hớp trà nóng, anh rể nói:
- Còn ít ngày nữa là giỗ bố. Sao cậu không để đến ngày đó rồi đưa mợ và các cháu về luôn. Cậu quên ư?
- Em làm sao quên được ngày giỗ bố. Đến ngày ấy vợ chồng em và các cháu lại về.
- Ấy là… tôi thấy trời nắng nóng, đường xá xa xôi, đi lại nhiều lần khổ cậu mợ và tụi nhỏ. Hôm ấy thì cậu phải về rồi, còn hôm nay cậu về hay không cũng có sao đâu?
Một khoảng im lặng kéo dài. Lão bỏ ngang chén nước xuống bàn, mắt nhìn ra khoảng sân trống vắng. Rồi lão chầm chậm kể về “thời xa vắng” như để thanh minh cho lần về này. Đôi mắt lão chùng xuống. Dường như có giọt nước ứa ra. Ôi chao! Chẳng nhẽ lão ấy khóc? Bao năm chung sống với lão, có bao giờ thấy lão ấy khóc đâu. Lại lên cơn hâm nặng? Mặc. Tôi cứ nằm lặng im chắp vá câu chuyện của lão.
* * *
Ngày xưa làng lão nghèo lắm. Những mái tranh buồn bạc phếch dưới nắng mưa. Đường làng bầm nát những vết chân trâu. Màn đêm vửa thả xuống, mọi nhà đã đóng cửa, chỉ thấy leo lét những ánh đèn dầu. Đường làng vắng tanh, chỉ có những đốm lập lòe của bầy đom đóm trong tiếng xào xạc của bờ tre. Nhà lão chỉ như một túp lều, thông thốc gió lùa. Bố mẹ suốt ngày nắng mưa trên đồng nhưng đến tháng Ba, ngày Tám là đứt bữa. Mẹ mang bầu đứa thứ ba mà đói rời, đói rạc. Nhiều hôm cả nhà ngồi quanh rổ rau má dài ngoằng, ngai ngái, chỉ nhìn thôi đã thấy cồn cào. Ngày mẹ trở dạ, bố chạy quanh làng vay đâu được nhúm gạo đùm trong vạt áo mang về nấu cháo. Bố múc cho mẹ và cho chị em lão tô đầy, còn bố chỉ vét nồi. Bố bảo: “Ngày xưa ở Trường Sơn, có khi cả tháng không biết hạt gạo tròn hay méo mà chẳng sao, giờ bố ăn thế này là đủ rồi”. Đêm ấy mẹ vượt cạn không thành, bố ôm cả mẹ và đứa con đỏ hỏn mà khóc: “Anh có lỗi với mẹ con em. Là thằng đàn ông mà không lo nổi miếng ăn cho vợ, cho con”. Đôi vai ông rung lên từng đợt, nước mắt nhạt nhòa. Nhưng nước mắt chỉ xoa dịu phần nào chứ không thể hòa tan hoàn toàn những mất mát lớn lao trong ông.
Kể từ ngày ấy, lão không còn được gọi hai tiếng mẹ ơi. Gian nhà nhỏ vắng đi đôi bàn tay vun vén của người đàn bà tần tảo. Chị cả và lão còn quá nhỏ, mọi việc trong nhà đều một tay bố lo. Thời gian cứ lặng lẽ trôi. Nỗi đau rồi cũng dần nguôi ngoai. Bao người khuyên bố đi bước nữa nhưng bố chỉ cười trừ và yên lặng, chấp nhận ở vậy nuôi hai chị em lão. Anh Thương binh chân đi cà nhắc, ngày ngày lăn lộn trên những sào ruộng khoán. Giáp hạt, bố con lại sắn khoai, rau cháo qua ngày. May sao, nhà lão có mấy bụi tre. Mưa xuống, những mầm măng vùi trong lòng đất lại cựa quậy vươn lên. Hết gạo, bố vác cuốc ra vườn, miệng lẩm nhẩm: “Hết rau rồi em có lấy măng không”. Món măng luộc chấm muối vừng của bố đến giờ lão vẫn thấy ngọt bùi nơi cổ. Thương bố vất vả, mới học lớp sáu, chị cả phải bỏ bút sách, cầm cuốc, cầm liềm đỡ đần cho bố nuôi lão ăn học. Lão gầy còm cõi nhưng thông minh, lanh lợi. Năm nào cũng đạt học sinh giỏi, lại còn nằm trong đội tuyển của trường đi thi huyện, thi tỉnh. Bố lão lấy đó làm vui:
- Con học được thì cố mà thi Đại học. Việc nhà đã có bố và chị lo.
- Thôi bố. Nhà mình nghèo, có đỗ Đại học cũng chẳng có tiền mà theo.
Bố lão nghẹn ngào: “Bố hèn mọn, không lo cho các con có được cuộc sống đầy đủ như người ta. Nhưng bố vui khi thấy con học hành nên người. Con cứ chịu khó học, chi tiêu tằn tiện chắc bố cũng lo được”.
Trời chẳng lấy đi của ai tất cả. Lão đỗ Đại học trong niềm vui, niềm tự hào vô hạn của bố và chị. Cuộc sống gia đình đầy ắp tiếng cười nhưng khó khăn cũng thêm chồng chất. Đồng lương Thương binh của bố giành hết cho lão ăn học mà cũng không đủ. Vậy là, những lúc nông nhàn, bố đi bán vé số. Đôi chân cà nhắc của bố đi khắp thôn trên, làng dưới, đi khắp xó chợ, quán hàng… Có ngày, trời nắng cháy da, bố đi bộ ra tận phố huyện, lang thang cả ngày, tối mịt mới về, mồ hôi muối nhuộm trắng lưng áo. Bố không khéo mời nên ngày bán cũng chẳng được bao nhiêu. Các bác Cựu chiến binh trong xã thương bố, thường mua ủng hộ, động viên. Chẳng bao giờ thấy bố ngưng tay. Những ngày mưa to, gió lớn, không thể đi bán vé số được, bố lại ra mảnh vườn nhỏ sau nhà nâng niu từng cọng lá, mầm cây. Bố trồng mà không đợi ngày ăn trái.
Đại học năm ba, lão đạt một giải gì đó của trường. Sẵn tiền bố vừa gửi, lão cao hứng mời bạn bè ra quán uống bia hơi. Những tiếng cười, những lời chúc làm lão phấn khích, chẳng nghĩ gì tới khoản tiền học, tiền thuê nhà. Một hồi chuông điện thoại reo lên. Lão hoảng hốt, ngụm bia nghẹn lại nơi cổ, cảm thấy chát mặn như những giọt mồ hôi của bố. Lão vội đứng dậy thanh toán rồi lẳng lặng ra về. Bạn bè chẳng hiểu chuyện gì. “Đang vui bỗng đứt dây đàn”. Hâm.
* * *
Nghe chị gái nói gì đó qua điện thoại, lão vội bắt xe về ngay trong đêm. Bố nằm lặng im trên chiếc giường ọp ẹp, đôi mắt nhắm nghiền. Thân hình bố gầy gò như que củi, lọt thỏm trong chiếc chăn chiên cũ rích. Lão nghẹn ngào: “Bố ơi, bố ơi”. Đôi mắt bố khẽ khàng mở ra, miệng mấp máy như muốn nói điều gì. Lão đưa hai tay ôm ngang tấm chăn đang đắp trên người bố. Chị cả ngồi bên mé giường, nước mắt dàn dụa: “Từ chiều đến giờ bố cứ nhắc em mãi. Em về chắc bố vui lắm”. Nước mắt lão lăn dài: “Bố ơi! Con về với bố rồi đây”.
Bố cố mở đôi mắt đờ đẫn nhìn chị cả rồi nhìn lão. Dường như bố muốn nói điều gì. Lão ghé sát tai nghe bố thì thào, đứt quãng: “Gắng học thành người con nhé. Có mấy triệu của các bác trong Hội Cựu chiến binh mới tới thăm, bố để dưới gối, con cầm lấy mà trang trải học hành. Thiếu thì nhờ chị cả vay mượn phụ thêm. Ra trường, đi làm lo trả cho chị”. Nói rồi bố nhìn chị cả như muốn gửi gắm điều gì. Rồi đôi mắt bố từ từ khép lại. Khép lại và chẳng bao giờ mở ra nữa. Lão úp khuôn mặt đầm đìa nước mắt vào khuôn ngực khô gầy, lép kẹp của bố với những dải xương sườn nhô lên sau chiếc chăn mỏng. Nước mắt lão tuôn trào, đôi vai rung rung, tiếng nấc nghẹn lại nơi cổ. Chị cả gào lên: “Bố ơi! Bố đừng chết”.
Bên ngoài, gió đồng quê cứ thổi mênh mang. Nghe thoang thoảng hương hoa huệ. Mảnh sân trước nhà trở nên chật chội bởi từng dòng người, từng dòng người đã và đang kéo đến sẻ chia nỗi đau cùng chị em lão. Rất nhiều những bộ quân phục bạc màu, những người đồng đội của bố. Nhiều bàn tay đưa lên gạt ngang mắt.
* * *
Lời lão như nghẹn lại. Lão đưa tay dụi dụi đôi mắt đỏ hoe: “Em nợ các bác trong Hội Cựu chiến binh của bố nhiều lắm. Ngay nếp nhà anh chị đang ở đây cũng nhờ các bác ấy trợ giúp để bố sửa lại trước ngày cưới của anh chị đó”. Nói rồi lão móc ví, lấy ra một sấp tiền đưa cho anh rể: “Anh cầm ít tiền này, ngày giỗ bố làm thêm mấy mâm để em mời các bác trong Hội Cựu chiến binh đến uống ly rượu tưởng nhớ bố”.
Tôi lẵng lặng đến sau lưng lão, đưa hai tay ôm vòng qua cổ lão, nước mắt tự nhiên cứ lăn dài. Chưa bao giờ tôi thấy thương và yêu lão chồng hâm này đến thế./.
Đại tá, PGS, TS Đỗ Ngọc Thứ
Phó Chủ tịch Hội CCB Phòng không Đà Nẵng
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn
ĐT:0984782652.