Hướng tới kỷ niệm 41 năm Ngày Toàn thắng 30-4
TƯỞNG NHỚ NGƯỜI NẰM XUỐNG
Ông Nguyễn Văn Mạnh là chiến sĩ của Sư đoàn 968 Anh hùng, từng tham gia chiến đấu trên các chiến trường Nam Lào, Tây Nguyên… Sau chiến tranh, trở về với đời thường, ông vẫn đau đáu niềm tiếc thương những đồng đội đã hy sinh. Trong những năm là Phó Giám đốc, ông cùng các cán bộ, cựu chiến binh của Trung tâm giáo dục Truyền thống và Lịch sử (thuộc Hội Khoa học tâm lý Giáo dục Việt Nam) đã hàng trăm lần dẫn các đoàn của các địa phương, các nhà máy, cơ quan, trường học,… đi thăm lại các di tích oanh liệt của một thời máu lửa. Mỗi chuyến đi là một lần ông gửi lại tiếng lòng, qua những bài văn viếng, tới đồng đội đã nằm lại nơi chiến trường xưa.
Đặc biệt với chiến trường Quảng Trị, ông đã dẫn hàng chục đoàn đến viếng thăm và lần nào trong ông cũng dâng lên nỗi xúc động, nghẹn ngào. Bài tưởng niệm (trích) dưới đây ông viết trong một lần dẫn đoàn về thăm nơi này, bày tỏ những nỗi niềm và sự biết ơn đối với các anh hùng, liệt sĩ đã “không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh”, hiến thân cho Tổ quốc trong cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ vô cùng oanh liệt, Mùa hè năm 1972.
(Bùi Thượng Toản giới thiệu)
Đất trời tác tạo non sông
Con người làm nên Tổ quốc
Mấy ngàn năm con Lạc cháu Hồng
Dệt giang sơn gấm vóc Việt Nam.
Rồng vươn mình vờn sóng biển Đông
Dựng vây lưng Trường Sơn hùng vĩ
Huyết mạch trải dài - Con đường thiên lý
Mục Nam Quan tới mũi Cà Mau.
Từ thuở ấu thơ bên bờ tre, giếng nước, hàng cau
Nghe tiếng mẹ ru:
- Con ơi! Dân ta trứng cùng một bọc1
Quê hương có từ cha ông đi mở đất
Đẫm máu, mồ hôi, nghĩa nặng tình sâu
Trải nghìn năm biết mấy thương đau
Giặc dữ từ đâu thay nhau cướp bóc…
|
|
Nhớ các anh !
Sinh ra trên đất Bắc2
Có mười năm tuổi thơ hạnh phúc bình yên3
Bài học đầu tiên về đất nước quê hương
Là miền Nam - nửa thân mình còn đau chia cắt.
Rồi ngọn lửa chiến tranh tàn khốc
Không chỉ nằm trong trang sách học trò
Lũ giặc đã trút bom xuống bệnh viện, trường học, nhà thờ
Lớp lớp đàn anh theo cha lên đường ra trận
Mẹ đào hầm, bảo anh gắng học
Sau này con sẽ là bác sỹ, nhà thơ...
Thay cha anh chữa những vết thương, xây dựng lại cơ đồ.
Mẹ chắn bom thù, trồng lúa khoai nuôi niềm mơ ước
Như tổ tiên dù bữa còn bữa đứt
Vẫn gắng dành giống tốt để mùa sau
Lớp học các anh vách nứa, đèn dầu
Vẫn sáng rộng đường vào tri thức.
Nóng ruột đợi tin từ mặt trận
Cuộc chiến tranh còn lắm gian nan
Xếp bút nghiên trao lại lớp đàn em
Cầm súng các anh đi vào tuyến lửa
Giải phóng Đông Hà, tiến về Quảng Trị
Đôi bờ nham nhở, Thạch Hãn máu nồng
Bạn anh đã bao người nằm dưới đáy sông
Bao người đã vào Thành Cổ…
Phút tạm ngưng giữa hai lần bom rơi, pháo nổ
Dựa chân thành, mơ màng đón ý thơ
Giấy lấm vẫn ngời nét chữ hào hoa
Bức thư cuối cùng gửi về cho mẹ
Còn bao điều anh chưa kịp kể
Đến đêm qua là đêm thứ 80
Mỗi đêm một đại đội trai trẻ trăm người
Dâng tuổi 20 cho đất nước
Đêm nay đơn vị con đến lượt
Chẳng lo nhưng sao thấy bâng khuâng
Muốn nhắn mẹ đến ngày chiến thắng
Tìm con, xin mẹ chớ tìm riêng
Nơi này chúng con đã hóa thân
Trong đội ngũ muôn người như một
Máu thịt chúng con đã hòa chung vào đất
Hồn chúng con đã hòa vào bát ngát màu xanh
Đã cùng nhau dâng hiến tuổi xuân
Một nhành hoa, một nén hương cùng nhau chung hưởng…
Hôm nay chúng tôi vào Thành Cổ
Viếng các anh,
Khi non sông đã thống nhất hòa bình
Cuộc sống đầy hoa thơm trái ngọt
Giữa trời đất chúng tôi xin nguyện
Phấn đấu vì cuộc sống văn minh
Cho quê hương giàu mạnh
Cho non sông mãi mãi thanh bình…
1. Theo truyền thuyết, mẹ Âu cơ đẻ ra bọc trăm trứng.