Những phát minh ở Trường Sơn - Nhà văn Phạm Thành Long

Ngày đăng: 08:45 15/11/2025 Lượt xem: 5
                             NHỮNG ‘PHÁT MINH” Ở TRƯỜNG SƠN
                                                       Nhà văn Phạm Thành Long
 
          16 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Bộ đội Trường Sơn đã thông minh, sáng tạo đối phó thành công với nhiều thủ đoạn hiểm độc, tàn bạo và vũ khí, phương tiện, trang thiết bị quân sự tối tân nhất thời đạn của kẻ thù để tạo nên một Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh huyền thoại.
Trong quá trình chiến đấu, bộ đội Trường Sơn có nhiều sáng kiến, phát minh vô cùng đặc biệt và hiệu quả để đối phó với kẻ thù. Trong bài viết này, tôi chỉ xin đề cập đến một vài “phát minh Trường Sơn” để thấy Bộ đội Trường Sơn thông minh, tháo vát như thế nào.

Chiếc “Trang” gạt đất.
       Nó là loại công cụ phổ biến của công binh Trường Sơn. Đồng chí Nguyễn Công Hằng và Nguyễn Văn Hát chiến sĩ công binh của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn công binh 98 Trường Sơn là tác giả của phát minh này khi mở đường trục 128 chạy từ Bản Đông (tỉnh Savanakhet) vào Bạc (tỉnh Sê Công, Nam Lào ngày nay). Chiếc trang gạt đất ra đời vào tháng 8 năm 1964.
Chiếc trang gạt đất có cấu tạo như sau: Hai đoạn cây được buộc chặt vào một đoạn cây nằm ngang bên trên (theo kiểu chữ U vuông góc giống như tay trên của chiếc bừa). Một nắp thùng đạn bằng gỗ thông được đóng đinh hoặc buộc chặt vào 2 đoạn gỗ làm “gọng bừa” một cách chắc chắn. Một sợi dây mây được buộc vào “gọng bừa”phía dưới một cách chắc chắn để cho một người kéo. Một người cầm chắc tay ngang của chiếc trang (tay bừa), còn người kia kéo chiếc trang, gạt và đưa đất tới vị trí mong muốn. Với công cụ này, năng suất gấp 5-6 lần so với 2 người dùng xẻng xúc đất. Đấy là chưa kể việc dùng trang gạt đất còn đưa được đất đi xa. Sau này các chiến sĩ công binh đã lấy thùng phi đựng xăng dầu, chặt ra làm gạt đất (thay cho mảnh gỗ thông thùng đạn), buộc vào khung gạt đất vừa chắc chắn hơn lại gạt được nhiều đất hơn.
Chiếc trang gạt đất với kích thước vừa phải dành cho 2 người sử dụng. Bộ đội công binh Trường Sơn còn làm những trang gạt đất lớn hơn cho 2 người kéo dây. Năng suất gấp 2 lần.
Chiếc trang gạt đất từ Trung đoàn 98 nhanh chóng được phổ biến cho tất cả các đơn vị công binh trên chiến trường Trường Sơn. Chiếc trang gạt đất đã góp phần nâng cao năng suất mở đường và nhất là việc san lấp hố bom, bảo đảm giao thông thông suốt trên 5 trục dọc và 21 trục ngang dài gần 20.000 km của mạng lưới giao thông của tuyến đường Trường Sơn huyền thoại.
Trong hoàn cảnh lực lượng công binh Trường Sơn chủ yếu dựa và sức người là chính, việc ra đời của chiếc “Trang gạt đất” vô cùng có ý nghĩa. Nó giúp ích đắc lực cho việc san lấp hố bom, bảo đảm giao thông thông suốt phục vụ việc vận chuyển chi viện.

“Giàn mướp”.



     Để chống bom bi và mảnh bom, đạn các loại làm hư hỏng xe ô tô, làm bị thương cho người lái, các chiến sĩ lái xe của Trung đoàn 11 ô tô Trường Sơn đã có sáng kiến làm “Giàn mướp” cho ô tô. (Giàn mướp xuất hiện vào mùa khô 1968-1969). “Giàn mướp” là một bộ khung gỗ chắc chắn dựng lên bên trên buồng lái chạy ra che hết đầu máy của xe ô tô. Bên trên khung “giàn mướp”, bộ đội ta đã dùng nứa đập dập rồi nẹp chặt lên bộ khung. Chúng được néo lại chắc chắn bằng dây thép. Lớp nứa này thường dày tối thiểu 20 – 30 cm. Nắp ca bô hai bên máy ô tô cũng được nẹp một lớp nứa đập dập để chống mảnh bom đạn làm hỏng máy ô tô. Cánh cửa hai bên xe cũng được nẹp một lớp nứa dày chống mảnh bom đạn cho lái xe. Gỗ và nứa ở đại ngàn Trường Sơn rất sẵn nên việc làm “giàn mướp” cho hàng ngàn chiếc xe rất thuận lợi.
      Từ khi các chiến mã Trường Sơn được “trang bị” “giàn mướp”, tỷ lệ ô tô bị hư hỏng vì mảnh bom, đạn giảm đáng kể. Nhiều chiến sĩ lái xe vượt trọng điểm thành công. Sáng hôm sau kiểm tra ốp nứa hai bên ca bô và hai cánh cửa xe nhìn rõ các mảnh bom cắm sâu nhưng không xuyên thủng qua được lớp nứa dày. Người đã thoát chết và xe thoát hỏng nhờ những lớp nứa dày ốp trên “giàn mướp” và hai bên cánh cửa xe, hai bên nắp ca bô như thế. Giặc Mỹ đâu ngờ bộ đội lái xe Trường Sơn đã có sáng kiến đơn giản nhưng giảm thiểu một cách hiệu quả sát thương của bom đạn Mỹ đối với người và xe như thế!
     Khách tham quan Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh hay Bảo tàng Hậu cần, sẽ thấy những chú “tuấn mã” Trường Sơn năm xưa được trưng bày với đầy đủ “giàn mướp” và ốp nứa bên hai cánh cửa xe và nắp ca bô hai bên xe như thế.

Gậy chạc ba
      Trước đây, các chiến sĩ giao liên Trường Sơn làm nhiệm vụ cáng thương binh nặng ra Bắc vô cùng vất vả. Phải 3 chiến sĩ giao liên phụ tránh một cáng thương binh. Hai người cáng, một người đeo ba lô cho thương binh và để thay cáng khi một trong hai người cáng mệt. Vất vả nhất là việc tìm chỗ nghỉ có cây để gác cáng lên. Thường khi mệt, các chiến sĩ cáng thương đành phải đặt cáng xuống đất để nghỉ. Thương binh nằm cáng không tránh khỏi bị vắt cắn và lưng bị đau vì mặt đất không bằng phẳng mỗi khi dừng nghỉ. Thế rồi cuối năm 1968, các chiến sĩ giao liên của Tiểu đoàn 17, Binh trạm 44 đã có sáng kiến tìm cây rừng có chạc ba to hơn ngón chân cái một chút. Loại cây này phải cứng và dẻo. Họ chặt các cây gậy chạc ba này với chiều cao đến vai mình. Một tay giữ cáng, tay còn lại cầm cây chạc ba làm gậy chống khi di chuyển rất vững chãi và tiện lợi. Khi cần đổi vai, họ ra hiệu cho nhau cùng dừng lại và để đầu cáng lên cây gậy chạc ba này để đổi vai vô cùng nhẹ nhàng, không tốn sức như trước đây. Khi dừng nghỉ. Chiếc gậy chạc ba đỡ cho chiếc cáng đứng yên. Thương binh vẫn nằm trên cáng êm ái. Còn các chiến sĩ giao liên thì đỡ vất vả hơn trước đây rất nhiều. Họ chỉ phải cầm giữ nhẹ nhàng đầu cáng vừa không tốn sức lại an toàn cho thương binh. Từ đấy, hàng ngàn thương binh nặng đã được cáng ra Bắc điều trị một cách thuận lợi kể từ khi xuất hiện chiếc gậy chạc ba này. Từ năm 1970, lực lượng giao liên Trường Sơn (với 12 tiểu đoàn và 60 trạm giao liên bộ) có phong trào thi đua “Phấn đấu hai người một đầu cáng”. Tức là mỗi chiếc cáng thương binh ra Bắc, phấn đấu chỉ cần 2 chiến sĩ giao liên đảm nhiệm.
Chiếc gậy chạc ba đã hỗ trợ đắc lực việc giảm sức lao động vô cùng nặng nhọc cho các chiến sĩ giao liên Trường Sơn như thế đấy.

Ngụy trang đường kín.
      Mùa khô năm 1969-1971, Bộ đội công binh Trường Sơn bắt đầu triển khai mở những con đường kín (đường ô tô mở dưới tán cây rừng khá kín đáo) để ô tô chạy được ban ngày.
       Để có những con đường kín, việc thi công không hề đơn giản. Việc mở đường ô tô qua những vạt rừng của đại ngàn Trường Sơn hạn chế tối thiểu việc chặt hạ cây rừng. Việc khảo sát thiết kế đường vô cùng thận trọng, làm sao để con đường luồn lách qua những tán cây kín đáo. Gặp những đoạn đường buộc phải chạy qua tán rừng non hoặc cây thưa. Bộ đội Công binh Trường Sơn đã có sáng kiến độc đáo: Công binh dùng dây rừng hoặc mây, buộc níu những ngọn cây hai bên đường để che cho mặt đường. Gặp những đoạn đường cây quá thưa, công binh còn làm giàn ngụy trang chạy dọc tuyến đường. Họ dựng khung bằng cây rừng hoặc nứa bên trên mặt đường rồi buộc các cây phong lan, các cây tầm gửi lên trên. Thế là tạo ra một giàn ngụy trang màu xanh suốt dọc con đường. Cây phong lan và tầm gửi không cần tưới nước nhưng vẫn xanh tốt dù là mùa khô nắng cháy. Hàng trăm, hàng ngàn mét đường kín đã được khắc phục bởi hai sáng kiến này.
800 km đường kín đã được xây dựng khắp Trường Sơn. Đường kín đã “bịt mắt” được máy bay AC 130, máy bay trinh sát và tiêm kích khác của Mỹ dù chúng được trang thiết bị các máy móc, phương tiện hiện đại nhằm phát hiện xe ô tô của ta vào ban đêm, ban ngày.
     Đường kín là một sáng tạo bất ngờ của Bộ đội Trường Sơn tạo nên phương thức vận chuyển mới: Vận chuyển ban ngày.

Hầm hộ tống
      Đầu năm 1967, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần nhận nhiệm vụ Tư lệnh Bộ Tư lệnh 559. Sau chuyển khảo sát chiến trường, đồng chí đã chỉ thị: các lực lượng bảo vệ các trọng điểm phải có lực lượng ăn nghỉ tại chỗ để ứng cứu kịp thời khi máy bay Mỹ đánh phá, bảo đảm vận chuyển thông suốt, thuận lợi.
      Một thời gian ngắn sau đó, chiếc “Hầm hộ tống” đã ra đời. “Hầm hộ tống” là chiếc hầm kiên cố được công binh Trường Sơn xây dựng ngay tại hàng trăm trọng điểm ác liệt của tuyến chi viện Trường Sơn. “Hầm hộ tống” được lập ở hai đầu trọng điểm. Với những trọng điểm trải dài, công binh còn xây dựng thêm một chiếc “Hầm hộ tống” “đặt” ngay giữa trọng điểm để tiện việc ứng trực bảo đảm giao thông thông suốt. Những trọng điểm toàn đường đá (Như Đèo Long, Cua Đá…) thì công binh khoét đá xây dựng thành “Hầm hộ tống” ngay giữa trọng điểm.
      “Hầm hộ tống” là một hầm kiểu chữ A nhưng khác với hầm chữ A thông thường: Nó được đào sâu hơn (ít nhất 2 mét so với mặt đất), to rộng hơn. Hầm được dựng bởi những cột gỗ to từ bắp đùi trở lên. Đất được đắp lên mặt hầm dày ít nhất hai mét. Trước cửa hầm có ụ đất dày, bên trên cửa hầm được lát những thanh gỗ to để ngăn mảnh bom đạn. “Hầm hộ tống” được xây dựng kiên cố như thế cho một tổ công binh chốt trực, bảo đảm giao thông tại trọng điểm. Nhiều “Hầm hộ tống” còn là nơi cấp cứu ban đầu cho các lực lượng hoạt động ở trọng điểm hoặc hành quân qua trọng điểm khi bị thương như các chiến sĩ lái xe, thông tin, cao xạ…
       Do được xây dựng khá kiên cố nên “Hầm hộ tống” chống được bom bi khoan, rốc két, đạn 20 ly, 40 ly bắn từ máy bay Mỹ xuống. Bom phá, bom đào nổ cách từ 5- 10 mét thì “Hầm hộ tống” vẫn an toàn cho người trú ẩn.
      Từ khi có “Hầm hộ tống”, lực lượng công binh Trường Sơn đã giảm được thương vong, lại đáp ứng được yêu cầu ứng cứu kịp thời, bảo đảm giao thông thông suốt tại các trọng điểm ác liệt của Trường Sơn.

Đèn gầm
        Trước khi “Đèn rùa” của Viện Kỹ thuật Quân sự ra đời thì bộ đội lái xe Trường Sơn đã cho ra đời những chiếc đèn gầm đơn giản nhưng khá tiện lợi, đáp ứng yêu cầu cấp thiết tại chiến trường.
      Mỹ tăng cường lực lượng không quân đánh phá ngăn chặn lực lượng vận tải chi viện trênTrường Sơn. Ô tô của ta hầu như phải chạy ban đêm. Ô tô chạy đêm không thể bật đèn pha. Để có thể chạy xe vào ban đêm, các chiến sĩ lái xe của đại đội 1, Trung đoàn ô tô 245 Trường Sơn đã có sáng kiến lấy những vỏ đựng thịt hộp hoặc vỏ hộp sữa hộp để làm đèn gầm. Nắp của vỏ lon sữa hộp, thịt hộp được bộ đội khoét để lắp đui đèn loại 12 von rồi buộc chắc chắn dưới gầm xe. Từ khi có đèn gầm, các chiến sĩ lái xe đi trong đêm khá thuận lợi, cho dù độ sáng của bóng đèn 12 vôn khá yếu. Nó chỉ chiếu sáng một vùng hạn chế 3-4 mét trước đầu xe. Nhưng như thế cũng dễ dàng di chuyển so với trước đây phải đi mò trong đêm. Tuy nhiên khi lên dốc, đèn gầm dễ bị lộ bởi độ sáng của bóng đèn.
       Phải thiết kế ngay một loại đèn gầm khắc phục được hạn chế này. Đầu năm 1966, Bộ Tư lệnh 559 đã đề xuất với Bộ Quốc phòng về việc làm đèn gầm cho bộ đội vận tải Trường Sơn. Bộ Quốc phòng đã giao cho tướng Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần chỉ đạo nghiên cứu, chế tạo chiếc đèn gầm gắn trên ô tô tránh sự phát hiện của máy bay Mỹ trên đường Trường Sơn khi xe chạy ban đêm.
       Công trình mang mã số C-35 do Thiếu úy kỹ sư Phạm Gia Nghi làm chủ nhiệm đề tài. Chiếc “đèn rùa” đã ra đời. Nó là loại đèn gầm có hình gần giống mai rùa, bóng màu vàng, chiếu xa được 5-6 mét, tránh máy bay phát hiện kể cả khi lên đèo dốc.
        28 Tết Đinh Mùi, “đèn rùa” được mang vào Trường Sơn lắp thử nghiệm trên ô tô của Tiểu đoàn 52. Đèn rùa được lắp vào chiếc xe Gaz – 63 do đồng chí Lê Hồng Huân lái (Đồng chí Lê Hồng Huân sinh năm 1943 tại Kim Mã, Hà Nội, nhập ngũ năm 1963, đầu năm 1964 đồng chí vào lái xe ở Trường Sơn. Hiện nay đồng chí Lê Hồng Huân là Phó Trưởng ban Tuyên truyền Thi đua, Hội Trường Sơn Việt Nam). “Đèn rùa” cũng được lắp vào 3 chiếc xe khác của Tiểu đoàn 52 để chạy thử. Sau hai tuần thử nghiệm, máy bay trinh sát, máy bay T-28 của địch không phát hiện được xe chạy ban đêm.
      “Đèn rùa” sau đó được nhà máy Z157 sản xuất hàng loạt. 15.200 chiếc đã được đưa vào phục vụ bộ đội vận tải Trường Sơn trong suốt những năm đánh Mỹ.

PTL

tin tức liên quan