“Truyện Kiều – Thanh gươm mở rộng cõi bờ văn hóa Việt” – TG: Đỗ Ngọc Thứ

Ngày đăng: 08:47 07/03/2025 Lượt xem: 70
-------------------
                          TRUYỆN KIỀU – THANH GƯƠM MỞ RỘNG CÕI BỜ VĂN HÓA VIỆT                                 Đại tá, PGS,TS Đỗ Ngọc Thứ
 
        Chào đón Ngày Quốc tế tiếng mẹ đẻ (International Mother Language) 22/2 hàng năm- Dịp tôn vinh và bảo vệ sự đa dạng ngôn ngữ và văn hóa trên toàn cầu. Sáng ngày 18/2/2025, tại khuôn viên khu Bảo tàng CSO Gallery (229 Cửa Đại, TP Hội An) đã diễn ra buổi tọa đàm “Truyện Kiều và đại thi hào Nguyễn Du trong văn hóa Việt”. Buổi tọa đàm đã thu hút các nhà nghiên cứu, nhà giáo, nhà Kiều học và đông đảo những người yêu Truyện Kiều từ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quảng Nam… Đặc biệt, còn có hậu duệ họ Nguyễn ở Tiên Điền- Hà Tĩnh và học sinh trường FPT đến dự. Xin giới thiệu bài tham luận trong buổi tọa đàm.
       Không chỉ là một “ngôi sao sáng” trên bầu trời văn học cổ Việt Nam, Đại thi hào Nguyễn Du còn được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới. Vinh danh Nguyễn Du là vinh danh một con người có tâm sáng, một nhà văn hóa lớn, giàu tư duy độc lập sáng tạo, có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào dân tộc, có tình yêu tiếng nói mẹ đẻ. Ông đã dũng cảm vượt qua rào cản nặng nề hàng ngàn năm của Hán văn để viết bằng Việt văn. Có thể nói, Nguyễn Du là người đầu tiên đưa tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học chính thống của quốc gia.
       Nét đẹp của ngôn ngữ Việt, của văn hóa Việt thể hiện trong Truyện  Kiều cùng những tư duy độc lập sáng tạo và phương pháp luận khoa học diễn đạt ngôn ngữ thuần Việt trong lao động sáng tạo của Nguyễn Du đã chứng tỏ, tiếng Việt là một ngôn ngữ trau chuốt nhưng giản dị, đài các nhưng gần gũi, sang trọng mà hồn nhiên, dân dã dễ hiểu mà tao nhã văn chương. Như nhà thơ Lưu Quang Vũ đã bày tỏ: “Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ/ Quên nỗi mình, quên áo mặc cơm ăn/ Trời xanh quá, môi tôi hồi hộp quá/ Tiếng Việt ơi! Tiếng Việt ân tình”.
Là một quốc gia văn hiến, từ ngàn đời nay, nhân dân Việt Nam luôn coi văn thơ là chữ của Thánh hiền, là sản phẩm vô giá của dân tộc. Thơ ca Việt Nam luôn đồng hành cùng lịch sử đất nước, là biểu hiện của ý chí, của tinh thần và văn hóa dân tộc. Truyện Kiều mang hồn cốt của văn hóa Việt, của dân tộc Việt. Với giá trị, với tầm vóc của nó, cùng với thời gian, Truyện Kiều đã trở thành một kiệt tác nằm lòng của người dân Việt. Tại sao dân Việt lại yêu Nguyễn Du đến vậy, mê Truyện Kiều đến vậy? Bởi Nguyên Du có tài thơ ư? Bởi Truyện Kiều quá hay ư? Thì rõ rồi. Nhưng đó chưa phải là tất cả, mà có lẽ, vì “Nguyễn Du, ngoài tài thơ ra còn có trái tim lớn, đau nỗi đau những cuộc đời bất hạnh. Thơ không phải là thứ sinh ra cho người đời chơi chữ, mà cốt để chuyển tải nỗi lòng. Bài thơ hay nhiều khi không còn thấy thơ đâu, mà chỉ thấy cuộc đời, tâm trạng và số phận” (Lời nhà Kiều học Vương Trọng). Đúng như nhà thơ Nga V.Bêlinxki thế kỷ XIX đã nói: “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”.
       Chúng ta biết rằng, Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình quý tộc, nhiều đời làm quan to dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Tháng 10 năm 1791, anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết, dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền - Hà Tĩnh bị Tây Sơn Phá hủy. Cơn lốc lịch sử đã hắt đổ tất cả lầu son gác tía, đẩy Nguyễn Du vào đời sống lưu lạc, tha hương. Nguyễn Du đã sống như một thường dân giữa thế gian và nhờ đó, thơ ông chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn học Việt Nam Trung đại (Lời của Hồ Văn Chi). Nguyễn Du đã lượm lặt hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim mình rồi gieo vào những trang viết, từ đó lớn lên và nảy nở những bông hoa thơ tuyệt đẹp, an ủi trái tim những người cùng khổ. Ngòi bút của Nguyễn Du đã chấm vào nghiên mực cuộc đời, nhờ đó thơ ông mới tươi màu và neo chặt trong bến tâm hồn người dân Việt. Đến với Truyện Kiều, người đọc trước hết sẽ bắt gặp tâm tư, nỗi lòng của người cầm bút, sau đó sẽ gặp chính tâm tư của mình.
       Phải khẳng định rằng, nếu không có thiên tài thơ Nguyễn Du, chúng ta không thể có Truyện Kiều. Nhưng nếu Nguyễn Du không “nhúng” mình vào cuộc sống lầm than, cơ cực với những đắng cay, tủi nhục; Nếu trái tim Nguyễn Du không hòa cùng nhịp đập với những ước mơ cháy bỏng của người dân Việt trong xã hội phong kiến, trong buổi suy vong đầy ngột ngạt, chúng ta cũng không thể có những trang Kiều thấm đượm dòng lệ, đầy chất nhân bản sâu xa. Người dân Việt yêu Truyện Kiều đâu chỉ vì “đoạn trường tân thanh” xé ruột cất lên từ quãng đời mười lăm năm lưu lạc, truân chuyên của cánh hoa Thuý Kiều. Người Việt Nam yêu “Truyện Kiều” vì những ngôn ngữ dân dã dễ hiểu mà tao nhã văn chương, giàu sức biểu cảm; vì âm hưởng ca dao dịu dàng, man mác trong lục bát thân thương và cũng là triết lý cuộc sống của người dân Việt:
“Thiện Căn bởi tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

       Do yêu Truyện Kiều, mê Truyện Kiều nên Thế kỷ này đến Thế kỷ khác, người dân Việt nghĩ ra nhiều cách thưởng thức Truyện Kiều khác nhau: Vịnh Kiều, Bình Kiều, Ngâm Kiều, Ru Kiều, Lẩy Kiều, Bói Kiều, Đố Kiều... Và như vậy, các “bộ môn” trong văn hóa Việt đã được mở rộng; không gian văn hóa Việt theo đó cũng được mở rộng thêm. Từ các “bộ môn” mở rộng ấy, cách tỏ tình của những đôi lứa cũng “văn hóa” hơn. Và, Truyện Kiều đã trở thành những nhịp cầu đưa những tâm hồn đến với tâm hồn, những trái tim đến với trái tim.
Tình Kiều chẳng thể nào che
Một lần gặp, trái tim nghe thầm thì
“Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm ngăm biết có duyên gì hay không” (1)

       Không chỉ những người dân lao động nơi hậu phương, mà với những người lính nơi chiến trường khói lửa, Truyện Kiều cũng đã trở thành một sức mạnh tinh thần. Dù đường xa, vai nặng, dù đạn nổ, bom rung nhưng trong hành trang của họ vẫn luôn mang theo những cuốn Truyện Kiều, những đoạn Kiều, những câu kiều đã thuộc.  và các thú chơi Đố Kiều, Lẩy Kiều, Bói Kiều… đã trở thành niềm vui, tạo ra sức mạnh, nâng bước người lính: Ví như Đố Kiều: “Khi tựa gối, khi cúi đầu/Khi vò chin khúc, khi chau đôi mày”. Đó là bệnh gì? (Đau bụng).
       Rồi Lẩy Kiều, với lính công binh thì: “Khi lên thác, khi xuống ghềnh/ Khi vồ phải đá, khi kềnh giữa sông”. Với lính lái xe thì: “Khi leo dốc, khi xuống đèo? Khi bon bon chạy, khi trèo lên bom”. Ngay cả khi thiếu gạo, khẩu phần ăn bị cắt giảm, mỗi người chỉ một lưng cơm vơi, ăn rồi mà tưởng như chưa ăn, lính ta lẩy Kiều: “Biết bây giờ đến bao giờ/Đã đi rửa bát, tưởng ngờ chưa ăn”. Lính ta cười vang. 
       Hoặc như Bói Kiều: Chuyện kể rằng, có lần, một tổ trinh sát được cử đi tìm địa điểm để đặt sở chỉ huy, sau một thờ gian lặn lội, tìm được một địa điểm ưng ý, đảm bảo các tiêu chí cho một sở chỉ huy, trước khi đi đến quyết định, một đồng chí trong đoàn, mở ba lô, lấy ra một cuốn Truyện Kiều rồi xin cụ Nguyễn Du một quẻ, ứng ngay câu: “Vậy nên trong chốn thong dong/Ở không yên ổn, ngôi không vững vàng”, Thấy câu Kiều ứng vậy, báo trước sự chẳng lành nên tổ trinh sát không chọn vị trí ấy, đi tìm vị trí khác, dù cho vị trí mới không đáp ứng đầy đủ các tiêu chí thuận lợi như vị trí trước. Sau một tháng quay lại, vị trí thuận lợi đã bị B-52 rải thảm tan hoang. Chuyện khác, Năm 1971, một đơn vị đóng quân ở làng Ho (Tuyên Hóa, Quảng Bình), cử 12 người đi lấy gạo, đi từ mờ sáng đến tối mới về. Khi về tới nơi thiếu ba người. Cả đơn vị lo lắng. Một đồng chí lấy cuốn Kiều ra xin cụ Nguyễn Du một quẻ. Ứng đúng câu: “Lo gì việc ấy mà lo/Kiến trong miệng chén có bò đi đâu”. Nghe vậy, anh em cũng bớt lo lắng phần nào. Khoảng mươi, mười lăm phút sau, ba người lính trở về, ngoài những ba lô gạo, họ còn khiêng thêm một con nai rừng. Anh em ôm nhau vừa cười, vừa khóc (2). Chẳng biết độ tin cậy của những câu chuyện này đến đâu, nhưng rõ ràng, Truyện Kiều đã có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa Việt.
       Đâu chỉ dừng lại trong dải đất hình chữ S, với cái hay, cái đẹp, cái giá trị của tiếng Việt. Với tầm vóc, giá trị của Truyện Kiều, tác phẩm bất hủ này của Nguyễn  Du đã vượt ra khỏi biên giới, đến với nhân dân các nước. Cho dù có khác biệt về màu da, về văn hóa, về thể chế chính trị…Nhưng với giá trị nhân bản của tác phẩm, Truyện Kiều đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng và nhanh chóng trở thành một tài sản văn học chung của nhân loại. Cõi bờ văn hóa Việt được mở rộng mênh mang, qua đó thế giới hiểu hơn về đất nước, con người và văn hóa Việt.
        Chẳng phải ngẫu nhiên mà các “Ông chủ Nhà Trắng” lại sử dụng những câu Kiều để làm chất keo hàn gắn “vết sẹo” chiến tranh, kết nối bang giao giữa hai đất nước đã từng đứng trên hai đầu chiến tuyến. Còn nhớ, tháng 9 năm 2000, trong buổi tiệc cấp cao do Chủ tịch nước Trần Đức Lương chủ trì, Tổng thống Bill Clinton đã mượn hai câu Kiều để khẳng định niềm tin, niềm vui và mong muốn của Hoa Kỳ và Việt nam:
“Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn, Đông đà sang xuân”

       Rồi tháng 7 năm 2015, trong buổi tiệc trọng thể chiêu đãi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng do chính phủ Hoa Kỳ tổ chức, Phó Tổng thống Jon Biden cũng đã lẩy hai câu Kiều để chúc cho quan hệ hai nước trở nên gắn kết, gần gũi, cùng tiến về phía trước:
“Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”.

       Tiếp đến, tháng 5 năm 2016, trong chuyến thăm chính thức Việt Nam, Tổng thống Barack Obama cũng mượn hai câu Kiều để gửi gắm, mở đường cho sự phát triển toàn diện giữa hai nước Việt Nam – Hoa Kỳ:
“Rằng trăm năm cũng từ đây
Của tin gọi một chút này làm ghi”.

       Và… mới đây, vào tháng 9 năm 2023, trong chuyến thăm chính thức Việt Nam, lại một lần nữa Tổng thống Jon Biden sử dụng hai cầu Kiều nhằm đề cao những nỗ lực của hai nước trong việc nắm bắt tiềm năng của tương lai:
“Vinh hoa bỏ lúc phong trần
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày”.

       Tất nhiên, để có được những câu Kiều phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, truyền tải được thông điệp muốn trao gửi, các chính trị gia phải nghiên cứu kỹ Truyện Kiều, qua đó để hiểu sâu thêm về văn hóa Việt.
       Trải qua hơn 200 năm, vẻ đẹp và sức sống của tiếng Việt trong Truyện Kiều của Nguyễn Du ngày càng tỏa rạng hơn, sâu lắng hơn. Đúng như ông chủ bút Báo Nam Phong từng khẳng định từ năm 1924: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”. Một tiếng Việt của Nguyễn Du cũng là tiếng Việt cho muôn người, cho muôn đời. Và nói như Giáo sư Phong Lê: “Nó là của cải, là giá trị, là kho báu để khẳng định sự trường tồn của non sông Việt, của Tổ quốc Việt trước mọi thử thách, qua nhiều ngàn năm lịch sử”. Và ...với sức lan tỏa của nó, Truyện Kiều đã và đang trở thành “thanh gươm” mở rộng cõi bờ văn hóa Việt.
-----------------------------------

(1) Theo “Đọc Kiều cảm tác” của Trần thị Lợi
(2) Theo “Bộ đội Trường Sơn với Truyện Kiều” của Xuân Bách
 

tin tức liên quan