Sốt rét ở Trường Sơn
Đoàng … Đoàng. Tiếng súng AK bắn hỏi rất gần. Tôi bật dậy, hú hú nhưng khẽ khẽ, rồi hụt hơi, không ra tiếng. Đầu óc tỉnh táo, nhưng chân tây run lẩy bẩy. Vừa gượng đứng dậy, tôi đã bị đổ vật xuống vì hoa mắt và sức khỏe suy kiệt. Anh Sinh nhao đến đón tôi, vừa nghẹn ngào, vừa như có vẻ bực dọc:
- Cậu vứt gậy đâu rồi?
- Không biết em để rơi đâu mất, em bò và đi tay không từ lúc nào không biết nữa. Lúc sáng đi tôi hai tay hai gậy, anh Sinh mang ba lô giúp tôi.
- Có mấy bước mà đi cũng lạc. Tớ đi tìm cậu từ sáng tới giờ, cũng hết cả hơi, bây giờ phải đi nhanh lên, sắp tối rồi. Anh dìu tôi đi.
….
- Phải bám sát đội hình chứ.
….
- Phải nhìn vết cây vạc mà đi chứ.
"Lần sau…." "Lần sau…."… Anh Sinh cứ nói, lâu lâu lại nói, tôi cứ im lặng, chẳng có gì mà nói lại cả, những điều anh ấy nói tôi biết cả rồi, tôi sơ ý một mới nên cơ sự này. Vả lại vừa mệt, vừa khô cả cổ họng chẳng nói được, chỉ gắng gượng, mệt mỏi đi theo anh. Cái bình tông của anh Sinh kêu long tong, tôi biết là anh cũng hết nước uống nên không hỏi. Đi được một đoạn, mồ hôi vã ra, thân hình mệt mỏi như muốn đổ vật xuống, khát nước. Tôi thâm lo, không biết còn xa không? Liệu mình có đủ sức để đi đến nơi không? Áng chừng anh Sinh cũng mệt lắm rồi. Anh Sinh người Yên Bái, quê ở Mê Linh, Đông Hưng, Thái Bình, đi bộ đội trước tôi 4 năm. Tôi là một trong số lính mới được cho là ngoan, thuần và chăm chỉ thạo việc như con dao pha. Cái gì cũng biết, cuốc đất, chặt cây, đào gốc, tra cán cuốc xẻng, đẽo cán gỗ, chặt tre, chẻ tre … Hàng ngày tuy khác tiểu đội, nhưng anh Sinh quý tôi lắm, nay tôi sa cơ, dẫu có bực mình lắm anh cũng chẳng nỡ nặng lời với tôi. Đi được khoảng 20 phút, tôi đang nghĩ mung lung, anh Sinh nói:
- Ngồi đây nghỉ chút đi.
Tôi mừng thầm, vì sợ tối nên dù mệt lắm mà không giám xin nghỉ giải lao. Tôi ngồi tọt xuống khe, dựa lưng vào ổ giun. Mắt hoa, chân tay rã rời, người nhớp nháp, bẩn thỉu, ngứa ngáy, mùi mồ hôi khô cháy, xen lẫn mồ hôi mới, mùi đất ổ giun, mùi nước đái thú rừng … gây gây, ngai ngái, buồn nôn.
Vài phút sau, anh Sinh quay lại, dắt tôi đứng dậy, đưa cho tôi cái gậy, dắt tôi được mươi bước anh để tôi loạng choạng tự đi. Tuy đi theo anh, nhưng mắt tôi không rời vết cây vạc. Mặt trời đỏ ối, đang chìm dần xuống sau rạng tre ven bờ sông Sê Kông. Vừa đi, vừa nghỉ, chừng nửa tiếng sau chúng tôi đến bến đò sông Sê Kông. Bến đò nằm ngay dưới một cây cổ thụ ngả xuống ven sông mát rượi. Vớ được nước, hai anh em vã vã lên mặt, tỉnh táo hẳn ra. Anh Sinh bảo:
- Này, chỉ xấp giọng thôi, đừng có uống nhiều đấy nhé.
- Vâng, em biết rồi!
Thú thực, lúc ấy tôi đã uống vài ngụm rồi. nước vào đến đâu biết đến đấy. Sau mấy tiếng hú của anh Sinh, một chiếc thuyền độc mộc bên kia sông lao sang, đưa chúng tôi qua sông. Sang sông, đi chừng mươi phút là tới Đội điều trị K6. Bàn giao tôi cho đồng chí y tá, anh Sinh vội vàng về đơn vị.
*
* *
Trong đội hình hành quân vào đơn vị suốt ba tháng rưỡi, tôi được coi là người khỏe nhất tiểu đội, người duy nhất chưa bị sốt rét. Vào tới đơn vị vì chiến dịch rất gấp nên chúng tôi chỉ được nghỉ 2 ngày. Ngày 7/12/ 1970 hành quân về vị trí đóng quân và triển khai công việc ngay. Tiểu đội tôi do anh Nguyễn Văn Bàn, người Tiên Lữ, Hưng Yên làm tiểu đội trưởng. Chúng tôi về tổ chức barie tại km 7 đường 49A, Bắc suối Tà Ngâu, một địa điểm khá bất ngờ dưới gốc cây Cà boong to, cạnh đó là một khóm le diện tích phủ kín khoảng 80m2. Mới đầu mùa khô nên tất cả cây cối đều xanh tốt. Để đối phó với âm mưu ngăn chặn của địch, ta phải làm 4 đường ngầm qua suối Tà Ngâu. Barie km 7 của chúng tôi được coi là chốt chính.
Đơn vị bước vào chiến dịch tổng công kích chào mừng 26 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/1970); 10 năm, ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20/12/1960 - 20/12/1970); chào mừng chuyến xe đầu tiên từ hậu phương lớn vào. c2, d95, BT 50, f470 có nhiệm vụ mở đường thông tuyến 49A từ ngã 3 Đông Dương Tây Trường Sơn vào đến Bắc sông Sê San. Thi công các đường ngầm và đường tránh qua suối Năm Pa, huội Nước Trong, huội Ông Giảng. Trên trục đường chính và đường tránh, cứ khoảng 200 - 300m lại làm một hầm chữ A, đề phòng các lực lượng của ta đang cơ động trên đường bị máy bay địch tấn công. Chỗ nào có điều kiện thì làm các mang cá để cất dấu xe. Chuẩn bị tinh thần và công cụ sẵn sàng phá gỡ bom mìn, khắc phục hậu quả để thông đường trong mọi tình huống.
Đang vào giai đoạn gấp rút hoàn thành chiến dịch mở đường thông tuyến, ngày 17/12/1970 tôi bị sốt rét. Rồi cách một ngày sốt một cơn (chúng tôi gọi là trận), y tá và cựu binh bảo là tôi bị sốt rét cách nhật. Cứ ngủ trưa dậy một lúc là người gai gai sốt, đau đầu, mỏi gáy, sống lưng buốt buốt, ấn hai tròng mắt thấy đau đau, khát nước, khô miệng, thèm chua, chân tay nhức mỏi. Đợt đầu tôi bị sốt 3 trận, thân nhiệt chỉ 38,2 oC đến 38,8oC, chỉ uống mấy viên thuốc ký ninh là cắt cơn. Tuy sốt nhưng tôi chưa nghỉ buổi nào, ban ngày vẫn ra tuyến, ban đêm vẫn đảm nhiệm ca gác. Ăn tết Dương lịch xong, ngày 08/01/1971 chúng tôi đón chuyến xe đầu tiên từ miền Bắc vào.
Sau gần một tháng, ngày 11/1/1971 tôi bị tái phát sốt rét, đợt này đến trận thứ ba bắt đầu rét. Càng về cuối cơn rét càng kéo dài. Rét, rét lắm, rét run cầm cập, rét từ trong bụng rét ra, hai hàm răng cắn chặt vẫn không khỏi rét. Thân nhiệt lúc sốt lên trên 39oC. Kỳ này sau 5 trận mới cắt cơn.
Lần thứ ba, khoảng mồng 6 Tết Tân Hợi, tôi bị tái phát sốt rét, quyết liệt ngay từ đầu, thân nhiệt cao hơn, cơn rét kéo dài hơn. Sang ngày thứ 2, tôi đã phải tiêm mông. Ai đã từng tiêm mông ở Trường Sơn hẳn còn nhớ. Đau ơi là đau, tiêm xong hắn phồng lên bằng nửa quả trứng ngỗng ở mông, phải lấy nước nóng đổ vào bình toong chườm cho tan dần. Lúc ấy người gầy đét, to cao như tôi mà chỉ còn khoảng 38 kg, cơ bắp không còn là bao nên khi tiêm mông càng đau. Tuy sốt cao, nhưng tôi vẫn xin được có mặt cùng anh em ra tuyến. Thấy anh Bàn bảo tôi nghỉ ở nhà tôi không chịu, mấy "Ông bạn vàng" trong tiểu đội, trong đó có thằng B, quê ở Lô Giang (ĐH), thằng S, quê ở Đồng Thanh (VT) kê kích: "Cứ để nó đi, nó đang phấn đấu mà". Tôi khó chịu lắm, nhưng tôi mặc kệ chúng nó. Đối với tôi, tuổi trẻ phấn đấu vươn lên đó là lẽ đương nhiên. Bằng ấy con người, bằng ấy công việc, mình không làm thì người khác phải làm, không bỏ lại được.
Lúc này tôi gầy và đen nhoẻm nên anh em gọi tôi là "Hạ Cháy" hoặc "Hạ Cà boong". (Cây Cà boong năm nào cũng bị cháy rừng, nên hắn có màu đen đen nâu nâu). Ngày 27/3 tôi bị sốt rét tái phát đợt thứ tư, này đến muộn hơn, (mấy lần trước cứ 21 ngày/lần). Sức khỏe suy kiệt, thân nhiệt 39,5 đến trên 40oc, cơn rét kéo dài hơn, sức yếu lắm không ra đường được. Anh em trong đơn vị bảo “Thế là thần sốt rét đã quận ngã thằng Hạ Cháy rồi”. Sau năm ngày, ba trận sốt, vừa tiêm, vừa uống thuốc vẫn không cắt cơn, người rệu rã, tai ù, đầu nhức, lắc lắc một chút cũng đau và chóng mặt, óc như bị lỏng ra, vơi đi, miệng đắng ngắt, khô khát, sống lưng tê buốt, nhìn cái gì cũng không thật. Mỗi bên mông tôi mới chịu khoảng 10 mũi tiêm mà đã chai cứng. Theo đề nghị của y tá, chỉ huy đơn vị nhất trí cho tôi đi điều trị tại Đội điều trị K6, lúc đó nằm bên bờ Tây sông Sê Công, cách đơn vị tôi chừng hơn một giờ đồng hồ (khoảng 5 - 6km).
(Ảnh chỉ có tính chất minh họa)
Sáng ngày 4/3/1970 Anh Sinh tiểu đội phó tiểu đội 3 dẫn 7 anh em chúng tôi đi đội điều trị K6. Trong số đó, tôi là người yếu nhất, tóc rụng gần hết, hai tay hai gậy, cái ba lô nhẹ xọp anh Sinh cũng phải mang giúp.. Đường đi K6 xuyên qua cánh rừng khộp, những cây gỗ thưa thớt, rừng bằng, không có dốc, nhưng dầy đặc ổ giun. Những ổ gium trông như những nấm mộ, cao chừng 30 - 40cm, trên đó là những có cây, nhiều nhất là những cây le tăm mọc cao ngang thắt lưng, thân cây này chỉ bằng que hương, cây nào to làm đũa ăn cơm được. Vì rừng bằng đường đi theo vết chân thú qua các khe ổ giun nên bộ đội ta vạc vỏ cây khộp để đánh dấu đường đi.
Đi theo anh em khoảng 30 phút, sau khi anh Sinh cho chúng tôi nghỉ giải lao, đi được một lúc, kiệt sức, gối mỏi, chân chồn, đi không vững tôi bị lạc đội hình lúc nào không hay. Tai ù đặc, mắt hoa, hai tay hai gậy mà tôi vẫn không theo kịp anh em. Chẳng thấy hàng cây có vết vạc vỏ đâu. Khi biết là mình lạc, tôi bắt đầu hú, vừa đi, tôi vừa hú, tiếng hú của tôi nhỏ và ngắn dần vì kiệt sức, khát nước, khản tiếng. Có lúc tôi định đi đến hướng có rạng tre, đi xuôi xuống, như các anh cựu binh bảo, thế nào cũng gặp người, không gặp bộ đội thì gặp dân !!! Thế nhưng, tôi lại sợ. Trông thế kia chứ xa lắm, lấy sức đâu mà đi? Đi ra đó, nếu anh em đi tìm không thấy mình mà trời tối, thì làm thế nào? Ra đó lỡ lên cơn sốt không có người thì làm sao? Lỡ gặp thú dữ thì sao??? Thế là tôi không giám đi xuống theo khe nữa.
Lại đi, lại hú, hú không thành tiếng nữa rồi, tôi nằm thiếp đi lúc nào không biết. vài lần nghe tiếng súng bắn hỏi xa xa trong mơ màng, tỉnh lại chẳng biết ở hướng nào. Có lần đang đi nghe thấy hai tiếng súng bắn hỏi, vì quá mệt, tai ù nên cũng không xác định rõ ở hướng nào. Khu rừng này nhiều thú rừng lắm. Lợn rừng, bò rừng, hươu, nai, cầy, cáo, chó sói, hổ, báo, có cả voi nữa. Dấu chân, phân, nước tiểu của chúng nhiều lắm. Ban ngày thú ở rừng kín, ban đêm đi tìm mồi ở các ổ giun, tìm tro để ăn, tìm nước để uống. Có lúc tôi đi cả vào ổ lợn rừng mới đẻ, vừa dẫn con đi khỏi, ổ vẫn còn âm ấm, ve bám đầy người.
Vừa đi, vừa ngủ thiếp đi, lúc đầu còn đi được dài dài, về sau ngắn dần. Đi, cứ đi, cứ ngủ thiếp, không theo ý muốn, như hy vọng đi sẽ gặp anh em hoặc tìm được đường có vết cây vạc. Cứ như vậy, khoảng 8 - 9 tiếng đồng hồ với sức vóc kiệt quệ. Đói, khát, mệt, lo lắng rối bời. Lúc này giữa cái sống và cái chết gần như không có ranh giới, vậy mà đến mãi sau này mới cảm thấy ghê sợ.
Đến đội điều trị, ôi trời ơi, ve nhiều vô kể. Tôi nhớ lại có lúc bò qua ổ lợn rừng mới dẫn con đi. Ve bám vào tôi nhầu nhầu, nhiều nhất là ở nách và ở bẹn, chui cả vào tai. Chia tay anh Sinh xong tôi thay quần áo và bao người bằng nước nóng. Điều trị ở K6 được năm ngày, chẳng hiểu sao sang dây tôi chẳng bị sốt cơn nào. Có lẽ do phác đồ điều trị ở đơn vị đã giúp tôi cắt sốt. Sáng ngày thứ sáu, sau khi khám, bác sỹ quyết định cho tôi xuất viện, về đơn vị nghỉ ngơi, điều trị tiếp một tuần.
Câu chuyện của tôi quá đơn giản, có khi chẳng ai cần để ý tới. Mọi người chỉ nhớ: Thằng Hạ Cháy đi viện bị lạc, anh Sinh quay lại tìm mãi mới thấy! Thế thôi. Đối với tôi là kỷ niệm vô cùng sâu sắc của thời làm “Chiến sỹ Trường Sơn”, như từ cõi chết trở về, đúng là huyền thoại. Chung quy lại cũng chỉ vì sốt rét Trường Sơn.
|
Đào Mạnh Hạ
PCT Hội TT Trường Sơn – Đường HCM tỉnh Thái Bình
|