Năm tháng ở Trường Sơn - Phạm Thị Nhung

Ngày đăng: 10:14 03/03/2016 Lượt xem: 612

NHÂN NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ : 8/3/2016
“Nếu em không có trên đời
Trường Sơn đâu có những lời hôm nay”

Chúng tôi xin gửi tới các đồng chí và các bạn bài viết của một chiến sỹ TS, Binh trạm 35, Sư đoàn 471, Bộ đội Trường Sơn.
Bài đã đăng trên báo Nhân dân hằng tháng

 NĂM THÁNG Ở TRƯỜNG SƠN 
Chuyện kể của quân y sỹ Phạm Thị Nhung

Năm 1969, tôi là một cô bé mười chín tuổi, một quân y sỹ còn trẻ măng. Mùa hè năm ấy chúng tôi được lệnh lên đường đi B. Xa mẹ, vượt Trường Sơn hàng ngàn kilômét, với một cô gái mười chín tuổi đâu phải chuyện đùa.
Trên đỉnh Trường Sơn chúng tôi được tin Bác mất, cả đoàn khóc hu hu. Nhưng niềm thương nhớ Bác đã biến thành sức mạnh, thành hành động, chúng tôi lại hăng hái lên đường. Đối với nam giới vượt Trường Sơn đã là một thử thách lớn, chúng tôi “chân yếu tay mềm” theo anh em khá mệt. Tôi không ngờ đôi chân nhỏ bé của mình lại dẻo dai đến thế. Có điều mỗi… “tháng” thiếu vệ sinh, thiếu nước, chúng tôi phải…giấu(!) để hàng ngày vẫn được hành quân ba bốn mươi kilômét. Gian khó nhưng vô cùng vui sướng, tự hào. Tôi chỉ nhớ nhất, lo nhất, thương nhất cho mẹ già ở quê. Quê tôi gần sân bay Kép thường được “hưởng” nhiều đạn, bom, rốc – két của máy bay Mỹ.
Sau hơn bốn tháng trời ròng rã đi bộ, chúng tôi đến một vùng đất có những cái tên trìu mến: Đèo Long, sông Bạc thuộc đất bạn Lào, đó là Binh trạm 35 Sư 471 Đoàn 559. Tôi được điều về Đội điều trị Tiền phương. Đội đóng quân dưới tán rừng săng lẻ, bên cạnh một vạt chè xanh bát ngát. Kể cũng lạ, giữa nơi “Sơn cùng thủy tận”, giữa đạn nổ bom rơi… lại có một rừng chè đẹp và nên thơ đến thế.
Chúng tôi “tìm hiểu” và làm quen với nhau ngay, thì ra, cuộc Chiến tranh Ái quốc vĩ đại đã hội tụ về đây những người con ưu tú từ khắp mọi miền Tổ quốc. Ai nấy đều rất trẻ: Chính trị viên Nên (Bắc Giang); y sỹ Loan (Bắc Ninh); tay dao mổ cừ khôi Phạm Minh Chánh (Cần Thơ); bác sỹ Tài, y sỹ Lợi (Thanh Hóa); dược sỹ Nguyễn Thị Định (Nam Hà); dược sỹ Nguyễn Thị Tuyết Băng (Quảng Bình); các y sỹ, y tá: Lương Thị Lả (Cao Bằng), Đãi (Vĩnh Phú), Nga, Đàm (Hà Tây), Trọng (Nam Hà), Bàng, Nhung (Bắc Giang), Xuất (Hải Hưng), Nôm, Thía, Nguyệt v.v… Nhiều tuổi nhất là bác sỹ đội trưởng, người Hà Nội, anh có nước da trắng, rất hiền, tính nết trái ngược với tên gọi: Trần Mạnh Chí. Sau này anh trở thành Giáo sư, Tiến sỹ, Nhà giáo Nhân dân, Viện trưởng Viện quân y 103.
Chúng tôi đã tự “thiết kế”, thi công và cải tạo: hầm chỉ huy, hầm phẫu, hầm nội, ngoại, nhà bếp, nhà bảo vệ, hầm ở…. Bàn tay “mềm mại” của những người thầy thuốc lại lên rừng đẵn cây, cưa sẻ, đục đẽo, đào hầm, dựng lán…. Cơ ngơi do chúng tôi tạo ra khá khang trang và đẹp mắt. Chúng tôi đã nhiều phen hú vía vì vắt, rắn và ong độc ở rừng khộp, gặp chúng, mấy “cô thầy thuốc” chỉ biết…chạy là thượng sách. Về “nhà” mặt mũi ai cũng húp híp, môi sưng vều, mồm méo xệch, lại được tiếng “khen”: trông các nàng càng béo đẹp, trắng trẻo, ưa nhìn hẳn ra (!)
Gian khổ, nhưng thú vị và…vui.
Cho tới bây giờ chúng tôi vẫn thầm tự hào “thời con gái kiêu sa” mình đã hiến trọn cho cuộc Kháng chiến Thần thánh chống Mỹ cứu nước vì Độc lập, Tự do của dân tộc mình, hiến dâng mạng sống của mình cho Tổ quốc thân yêu. Đó chính là những ngày tháng huy hoàng ở thập kỉ 60 (thế kỉ 20) của tuổi trẻ chúng tôi trên đỉnh Trường Sơn Huyền thoại. Những ngày tháng không thể nào quên, giá trị nhất, có ý nghĩa nhất trong cuộc đời một con người.
Chính tại Đội điều trị khiêm tốn, nhỏ bé này chúng tôi đã cấp cứu, điều trị cứu sống hàng ngàn lượt thương bệnh binh. Bổ sung cho các mặt trận hàng ngàn chiến sĩ khỏe mạnh, cho trở về hậu phương hàng ngàn người con ưu tú đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đội Điều trị Binh trạm 35 đã từng mang lại cuộc sống cho nhiều tù hàng binh Mỹ ngụy, giúp họ có cơ may trở về đoàn tụ với gia đình.
Và …
Tại đây, cũng có biết bao kỉ niệm bi hùng theo tôi suốt cả cuộc đời. Câu chuyện xảy ra vào mùa khô năm 1971. Đêm. Đại ngàn Trường Sơn tĩnh lặng như cùng đắm chìm vào giấc ngủ với con người. Bỗng có những ánh chớp chói sáng đến nhức mắt, hầm lán rung lên bần bật, đất trời ngả nghiêng, bụi khói mù mịt, đất đá rơi rào rào, sặc sụa đến ngạt thở. Chúng tôi hiểu ra ngay: đó là B52! Hết loạt bom, những người còn sống sót đều nhô ra khỏi hầm kêu gọi nhau đến khản cổ. Nhiều tiếng kêu rên tuyệt vọng của những người hấp hối, những tiếng kêu đau đớn của các đồng chí bị thương lần thứ hai, thứ ba. Âm thanh hỗn loạn, tiếng người kêu la, tiếng lửa cháy rần rật, tre nứa nổ lốp đốp…. Trong nỗi kinh hoàng, hoảng loạn bỗng vang lên tiếng thét rành rọt đến lạnh lùng của người anh cả đội trưởng:
- Chúng mày có câm đi không? Hãy cứu lấy thương binh!
Nghe lời “mắng mỏ” của anh, chúng tôi như bừng tỉnh cơ mê, cùng nhất loạt lao tới các lán: sốt rét, thần kinh, sọ não…
Trời ơi…
Tất cả chỉ còn là những hố bom sâu hoắm. Thi thể các anh đã tan vào cát bụi, một vài người còn thoi thóp đang quằn quại trong vũng máu. Chúng tôi băng bó cấp cứu cho Thương binh; dùng tay không cào bới đến tóe máu, tìm nhặt từng mảnh thịt, cẳng chân, cánh tay…chắp vào thân mình cho các Liệt sỹ, toàn đội vừa làm vừa khóc nức nở. Công việc tuy vậy vẫn rất khẩn trương và chính xác. Ai cũng biết bọn Mỹ không chờ đợi, chỉ mười lăm phút nữa chúng sẽ rắc xuống đây loạt bom tọa độ thứ hai. Tất cả thương binh, liệt sỹ đều được đưa xuống hầm dự phòng, chúng tôi … “chờ đợi”(?)
Chỉ trong phút chốc, thân thể, ruột gan, tim phổi những thầy thuốc, thương binh, liệt sỹ lại được một phen chao đảo, quăng quật trong lòng đất, máu rỉ qua tai, mồm mũi…, mật xanh, mật vàng thi nhau tứa ra. Sau loạt bom chúng tôi lại lao ra khỏi hầm cứu Thương binh, cứu nhau, lại đào bới tóe máu, lại khiêng vác…
Hình ảnh xưa cứ hiện về trong tôi, như mới xảy ra ngày hôm qua, hôm kia, nước mắt tôi đã chảy ra không biết bao lần. Đêm ấy trời tối đen như mực tôi cùng hai chiến sỹ cảnh vệ được lệnh bồng súng canh thi hài các liệt sỹ. Thi thể các anh được chúng tôi tắm rửa, khâm liệm cẩn thận, bên ngoài bọc tăng võng, chúng tôi đặt các anh nằm xếp hàng bên bờ sông Bắc Bạc. Đêm đại ngàn âm u, đầy bí ẩn, những đốm sáng hương đỏ lập lòe, lập lòe như muốn tâm sự điều gì. Tiếng nước sông chảy mải miết theo điệp khúc rì rầm, róc rách; tiếng kêu rùng rợn eng éc! eng éc!...của con chim lợn rạch đôi mảnh trời đêm. Chúng tôi không thấy sợ, chỉ thương các anh, nhớ các anh. Các anh đang nằm đây không một người thân thích, cha mẹ vợ con giờ ở nơi đâu? Chúng tôi là những người thân yêu, gần gũi nhất, đang thức trắng đêm, canh cho các anh ngủ ngon lành(!).
Lần ấy chúng tôi vẫn gặp nhiều may mắn. Bọn Mỹ không rải tiếp loạt bom thứ ba, sau hai loạt, hầm phẫu thuật vẫn còn nguyên vẹn. Hầm y bác sỹ bị sập nhưng mọi người chỉ bị thương nhẹ. Hình ảnh những người thầy thuốc băng cuốn đầy mình: đầu, mặt, chân, tay…đang miệt mài mổ cấp cứu cho thương binh, lúc nào cũng hiển hiện trước mắt tôi. Giây phút đó chỉ có tình yêu thương đồng đội, đồng chí đã giúp chúng tôi thêm sức mạnh, có thần kinh vững vàng, tiến hành nhiều ca đại phẫu dưới ánh sáng yếu ớt của đèn pin và đèn bão. Đêm ấy chúng tôi đã mở hộp sọ cứu sống một thương binh sọ não, bị thương rất nặng, mở lồng ngực lấy mảnh bom trong phổi cho một cán bộ đại đội và nhiều ca mổ phức tạp khác, cứu sống hàng chục chiến sỹ thân yêu của chúng ta. Xong mũi khâu cuối cùng là lúc chúng tôi lả đi vì đói và mệt…
Giờ đây sau hơn ba mươi năm chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống tuy còn khó khăn, vất vả, nhưng những năm tháng có mặt ở Trường Sơn đánh Mỹ vẫn là niềm tự hào, hạnh phúc nhất của cuộc đời tôi.
Nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như chưa rõ mình
Đúng!
Tôi đã đến Trường Sơn khi tuổi đời còn rất trẻ. Từ một cô bé nhà quê nhút nhát tôi đã trở thành một chiến sỹ Quân đội Nhân dân Việt Nam, một cựu chiến binh, trở thành một người thầy thuốc vững vàng, dạn dày kinh nghiệm. Và, tôi đã vinh dự được trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ chính nơi tuyến lửa Trường Sơn ác liệt, trăm mến ngàn thương…
 

Từ sơn, một ngày đông mưa rét
Phạm Thị Nhung 
 

 

 

 

 

 

 

 

tin tức liên quan