TÌNH BẠN - TÌNH ĐỒNG ĐỘI
Nhân dịp đầu xuân mới Đinh Dậu, xin gửi lời chào thân ái đến các bạn giáo sinh lớp 1J và lớp 2E khoá 3 Trường trung cấp sư phạm khoa tự nhiên Tỉnh Nam Hà, các bạn đồng ngũ tháng 8/1970 thuộc tiểu đoàn 605/ Trung đoàn 19/ tỉnh đội Nam Hà, các đồng chí cựu chiến binh Tiểu đoàn Pháo cao xạ 16/ Binh trạm 32/ Sư đoàn 472/ BTL Trường Sơn và gia đình anh Đặng Quý Thiều.
Nhân dịp tết nguyên đán 2017 gia đình cháu Đặng Trường Ân con trai anh Đặng Quý Thiều đến thăm chúc tết tôi, nhớ lại người bạn, người đồng đội quá cố, tôi xin viết đôi dòng về anh Thiều để các bạn, các đồng đội và gia đình hiểu thêm về anh thiều và tình bạn, tình đồng đội của chúng tôi.
Anh Thiều quê ở phố Trần Hưng Đạo thành phố Nam Định, tôi là dân nông thôn huyện Giao Thuỷ tỉnh Nam Đinh. Năm 1967 chúng tôi vào học tại Trường trung cấp sư phạm khoa tự nhiên tỉnh Nam Hà, cùng ở lớp 1J sau chuyển đến lớp 2E. Anh Thiều là học sinh giỏi văn nhưng lại đi học tự nhiên, nhà anh mở hiệu sách báo ở phố Trần Hưng Đạo, chúng tôi kết thân với nhau, tôi thường về qua nhà anh ấy mua tạp chí Toán học và Tuổi trẻ, tôi yêu môn toán, đôi khi cũng giải được một số bài toán thi quốc tế. Ra trường chúng tôi làm thầy giáo cấp hai được một năm rồi cùng xung phong nhập ngũ vào ngày 19/8/1970. Huấn luyện ở d19/e605 tỉnh đội Nam hà, chúng tôi cùng tiểu đội. Đơn vị đóng quân huấn luyện ở Ý Yên, Vụ Bản Nam Hà, ban ngày huấn luyện kỹ chiến thuật bộ binh, đêm đêm hành quân bộ đeo ba lô đất rèn luyện vượt Trường sơn.
RÈN LUYỆN VƯỢT TRƯỜNG SƠN
Ảnh minh họa
Tuổi đời mười tám đôi mươi
Nông thôn, thành thị, khắp nơi, mọi miền
Học sinh, cán bộ, giáo viên
Căm thù Mỹ nguỵ bừng lên tinh thần
Xung phong nhập ngũ hành quân
Mầu xanh áo lính, đôi chân dép, giầy
Vành nguỵ trang cắm lá cây
Vai đeo khẩu súng bao đầy chặt băng
Lựu đạn, xẻng cuốc buộc chằng
Thao trường luyện tập siêng năng miệt mài
Đêm đêm cuốc bộ đường dài
Ba lô đất nặng sức trai luyện rèn
Lưng gùi, gậy chống gồng lên
Bờ mương, lối xóm lội xuyên lượn rà
Núi đồi, đèo dốc vượt qua
Chân đồng vai sắt luyện mà vào Nam
Đánh cho Mỹ cút Nguỵ tan
Trái tim rực lửa bền gan kiên cường
Câu hò vang vọng quê hương(*)
Trường Sơn quyết vượt, tiền phương diệt thù
Vừa đi vừa hô Câu hò khi hành quân đêm
" Rèn chân đồng vai sắt
Xây ý chí kiên cường
Để vượt giải Trường Sơn
Vào Nam tiêu diệt Mỹ."
Sau ba tháng huấn luyện, chúng tôi lên đường hành quân vào Nam chiến đấu. Đi tầu hoả vào đến Vinh, đi ô tô vào đến Quảng Bình, đi ca nô lên chân Trường Sơn. Từ đây cuộc hành quân bộ bắt đầu đầy gian nan thử thách. Mỗi người chiến sỹ đeo ba lô quân tư trang, súng đạn, gạo, thực phẩm khô khoảng gần 35 ki lô gam. Mỗi Tiểu đội có một bộ xoong nồi nấu ăn chia nhau mang theo.
VƯỢT TRƯỜNG SƠN
Đêm nay say tiếng xe reo
Màn đêm mù mịt núi đèo vực sâu
Chặng cung leo lét đèn dầu
Công binh bám trụ lo cầu đường thông
Hố bom chi chít chất chồng
Xe bươn quằn quại xóc lồng inh tai
Lắc lư suốt chặng đường dài
Thi nhau nôn tháo chẳng ai lên lời
Còn vài người tỉnh mà thôi
Nhìn thương đồng đội gục ngồi tả tơi
Xe dừng bước xuống tuột rơi
Hành quân đạp núi đội trời xuyên mây
Mưa dầm thấm đất bùn lầy
Chân leo gậy chống dép giầy lắt lay
Đèn mờ soi bám dắt tay
Giao liên chờ đón trật trầy đêm thâu
Chùi chân mắc võng, muỗi bâu
Nếm mùi vượt núi tuyến đầu đường dây
Chập chờn suy ngẫm lượn vây
Còn bao nhiêu nữa tháng ngày mờ xa
Núi rừng trùng điệp bao la
Trong tim rực lửa bài ca quân hành
Mỗi ngày một chặng rừng xanh
Chiến trường vẫy gọi ta nhanh tiến vào
Ba lô nặng trĩu lưng cao
Vai đeo khẩu súng kèm bao đạn đầy
Quàng theo tượng gạo vắt dây
Lựu đạn, xẻng cuốc buộc vây kín vòng
Bi đông nước uống bên hông
Xoong nồi tiểu đội phân công "bình bầu"
Cheo leo vách đứng vực sâu
Ngày đêm vững bước ngửng đầu ca vang
Vượt Trường Sơn thật rộn ràng
Ta đi theo ánh sao vàng thắm tươi
Mưa ngàn, muỗi vắt, bom rơi
Trèo đèo lội suối người người dắt nhau
Gặp vùng trọng điểm dừng lâu
Máy bay đánh phá chặn đầu khoá đuôi
Đèn dù chiếu sáng rực trời
Băng qua dũng mãnh sục sôi bồi hồi
Ngày đi ướt đẫm mồ hôi
Đêm dừng mắc võng ngắm trời với sao
Giúp nhau Tôi dắt Thiều vào
Vững vàng ý chí gian lao chẳng sờn
Bước chân gối mỏi đá mòn
Trường Sơn quyết vượt, lòng son kiên cường.
Ảnh minh họa
Đi được một tuần là Quý Thiều mất sức không thể mang được ba lô nữa, cứ tụt dần xuống cuối đội hình. Chúng tôi báo cáo với đồng chí chỉ huy hành quân cho anh ở lại trạm giao liên rồi quay ra, nhưng Quý Thiều không chịu cứ nhất quyết đòi hành quân vào chiến trường. Thế rồi anh không mang được ba lô nữa, chúng tôi họp Tiểu đội, quyết tâm đưa anh cùng vào chiến trường đánh Mỹ. Ba lô của anh Thiều được chia cho tám người, riêng tôi nhận dắt anh Thiều vào chiến trường. Tôi đi chiến trường ngoài quân tư trang vũ khí lương thực như mọi người, tôi còn mang theo một bộ sách giáo khoa toán lý hoá cấp 3 và một tập Tạp chí toán học và tuổi trẻ, với quyết tâm tự học, tự ôn thi ở chiến trường, khi kết thúc chiến tranh sẽ thi vào Đại học với niềm tin và ước mơ cháy bỏng trong lòng. Tháng 11 rừng Trường Sơn vẫn còn rớt mưa, đường giao liên vừa dốc vừa trơn, mỗi ngày một chặng hành quân, ngày đi đêm nghỉ, mắc tăng võng trong rừng già. Tôi đã dắt Đặng Quý Thiều, chống gậy trèo đèo lội suối ròng rã luôn đi sau cùng đội hình của Tiểu đoàn, có khi tụt lại khá xa. Sau gần hai tháng trời vào đến đường 9 nam Lào đón tết năm ấy. Vừa đi vừa làm thơ động viên nhau. Tôi được phân về Công binh, anh Thiều về d16/ pháo cao xạ của binh trạm 32 . Những ngày chiến đấu trên mâm pháo với máy bay giặc Mỹ vô cùng ác liệt và đầy khó khăn thử thách với anh. Sức yếu, lại bị sốt rét, thật là gian nan vất vả đối với người bạn người đồng đội của tôi.
Hoà bình anh trở về dạy học, tôi thi đỗ vào học tại Trường Đại học kỹ thuật quân sự. Tôi đã tìm thăm anh, nhà cũ bố mẹ anh đã bán, mãi mấy năm sau mới gặp được nhau. Anh về dạy học được mấy năm, do sức khoẻ yếu nên họ cho thôi việc, anh đi làm bảo vệ, trông xe đạp, chị gánh rau đi bán kiếm tiền nuôi con. Tôi đã tìm vào căn nhà cấp bốn ở trong góc sâu của một khu phố nghèo thăm gia đình. Anh chi có hai con, con lớn là Đặng Trường Ân, học hết cấp ba nhưng không có khả năng cho ăn học Đại học. Tôi nói để tôi đưa vào Bộ đội, anh chị nuôi đứa con gái bé cho nó học Đại học. Tôi đã đưa cháu Ân nhập ngũ vào Lữ đoàn Công binh 239, tôi trực tiếp trao đổi với các đồng chí trong BCH Lữ đoàn về hoàn cảnh để đơn vị giúp cháu, cho đi học rồi trở thành quân nhân chuyên nghiệp. Sau đó anh bị bệnh tiểu đường nặng và các bệnh khác do hậu quả của chất độc hoá học ở Trường Sơn, chúng tôi đã nhiều lần tổ chức cho bạn bè đồng đội đến thăm giúp đỡ gia đình, chưa kịp làm chế độ thì anh mất. Thật là đau xót, thương tiếc một người bạn thân thiết, một đồng đội quý mến của tôi.
Con dâu của anh chị đã tìm thấy tôi trên fecebook, cháu giới thiệu con dâu bố Thiều, tôi mời các cháu đến nhà chơi thăm hỏi tình hình. Mẹ cháu đã bán nhà ở Nam Định nhưng cũng chẳng được bao nhiêu. Xét hoàn cảnh của cháu, đơn vị đã vận động theo "chương trình 100 đồng" giúp cháu được 40 triệu để mua đất làm nhà ở Thường Tín Hà Nội với tổng kinh phí là 200 triệu đồng. Vợ chồng cháu Ân đã có hai con một trai một gái, chị lên ở với con trai, con gái anh chi cũng tốt nghiệp đại học có việc làm tốt.
Xin chúc chị, gia đình cháu Ân, con gái của anh chi Thiều, vui, khoẻ, có nhiều điều tốt đẹp trong năm mới. Hẹn một ngày nào đó tôi sẽ đến thăm chị và các cháu.
Nhân viết bài về TÌNH BẠN- TÌNH ĐỒNG ĐỘI Tôi xin giới thiệu bài thơ Hành quân đêm gửi tới các đồng chí cựu chiến binh, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến Trường Sơn và những ai dã vượt Trường Sơn vào Nam đánh Mỹ
HÀNH QUÂN ĐÊM
Ảnh minh họa
Hôm nay đêm mới hành quân
Đi qua đường 9 quay chân giật lùi
Vai đeo gậy chống lưng gùi
Mau mau xoá vết lau chùi trước sau
Giao liên dẫn lối rừng sâu
Hướng ra tiền tuyến đậm mầu áo xanh
“Bắt cô trói cột”(1) đêm thanh
Đưa anh Bộ đội vào nhanh chiến trường
Non cao mây phủ mù sương
Mưa dầm thấm đất nhìn đường mà lo
Bỗng dưng gặp suối nước to
Hô nhau mau cởi quần dò lội qua
Trạm dừng lấy sức còn xa
Bình minh vượn hót quân ta tồng ngồng
Nối nhau đầu chống vào mông
Mờ mờ sườn núi bản đông dân Lào
Đoàn quân tiếp viện đón chào
Truyền tin tức tốc - nhao nhao mặc quần
Xôn xao ngắm tấm lưng trần
Lòng thòng quả mướp! tới gần “hết chê”
Phì phò miệng ngậm thuốc rê
Bắp ngô bẹ chuối con kê bí bầu...
Anh khoe đá lửa, kim khâu
Ải nọong (2) ríu rít gật đầu đổi ngay
Dừng chân tạm nghỉ nơi đây
Hỏi ra mới rõ cảnh đầy gian nan
Bản Em chất độc rải tràn
Mới đây bom đánh hoang tàn tả tơi
Đường qua dân lại chuyển dời
Quyết tâm chống Mỹ sáng ngời lòng son
Cùng nhau chung dãy Trường Sơn
Con đường huyền thoại vẹn tròn chiến công.
---------------
1) Tiếng chim kêu đêm có âm: bắt cô trói cột
(2) Tiếng Lào “ải” là “anh”; “nọong” là “em”.
Hoàng Kiền