NHỮNG NGÀY Ở NAM LÀO
Truyện Ký: Phạm Huy Liệu
Chia tay đồng đội ở tiểu đoàn bộ. Chúng tôi về lán của tổ đài. Đi qua bìa rừng một đoạn rồi, mà vẫn thấy đi. Tôi hỏi: Sao lán của mình ở xa tiểu đoàn bộ thế? Có bộ phận nào ở cùng chúng ta không, thì đài trưởng Khoa giải thích:
Ông Nhượng tham mưu trưởng vừa họp ở đoàn 559 về bảo, các đơn vị Trường Sơn phản ảnh, có nhiều đài 15w bị đánh bom, do lộ sóng. Nên không cho tổ đài ở cùng D bộ, cũng không có bộ phận nào dám ở gần tổ đài. Tôi nói:
Bậy nào, ở Trường đài trưởng, tôi vừa được một chuyên gia cao cấp về vô tuyến điện của Bộ Quốc phòng là đại uý Thái Bá Chương; đã từng làm báo vụ viên của Pháp tại Điện Biên Phủ, chuyên gia giỏi, giảng giải chi tiết về việc lộ sóng VTD...
Cả cuộc chiến tranh chống Pháp, có duy nhất một đài của Sư đoàn 308; quả đấm thép của quân đội ta, nên chúng tập trung theo dõi; bằng cách dùng máy định vị, tìm vị trí sóng phát đài 15w Sư đoàn. Nguyên nhân chúng tìm thấy bởi đài có một báo vụ viên cố tật (tức là phát tín bị hỏng một chữ), nên chúng bố trí theo dõi thường xuyên để biết Sư đoàn đang ở đâu mà đối phó.
Còn trong chiến tranh chống Mỹ có trường hợp một báo vụ viên cố tật, về phục viên 1963, thì năm 1965 lại lên máy 15w. Chúng xác định như vậy anh này đã tái ngũ. Nghĩa là quân đội Bắc Việt có lệnh tổng động viên.
Trong đội ngũ tình báo thông tin Mỹ, bố trí rất nhiều điệp viên. Mỗi người chỉ phụ trách một dải tần ngắn, để theo dõi các đài, đặt tên cho từng báo vụ viên. Chủ yếu xác định tổng số đài, để nắm bắt quân số của ta; chứ không phải theo dõi định vị nơi phát sóng, nên lộ sóng 15w hầu như không có.
Còn lý do tại sao đài 15w hay bị đánh ở Trường Sơn là do lộ anten. Nên các đài phải nguỵ trang anten cẩn thận, sẽ không sợ bị máy bay phát hiện. Còn nguỵ trang có nhiều cách...
Ông đã cải tiến mắc anten theo nhiều kiểu, như mắc anten hình chữ L, hình chữ V, hình chóp nón... mà công suất phát vẫn tốt. Hãy chọn địa hình thích hợp để dấu anten hết mức có thể.
Về đến khu trống trải nơi tổ đài ở. Đây là nhà hầm đầu tiên tôi được biết. Nhà đào sâu xuống đất khoảng hơn 1 mét để tránh bom. Quả quá tuyệt vời. Chỉ loại trừ quả bom rơi trúng hầm, còn cứ vô tư mà ngủ…
Quan sát chỗ tổ đài ở thấy rất nguy hiểm. Vì giữa nơi vắng vẻ, lại trống trải, thám báo nó chỉ nhìn dây anten từ xa đã biết ngay đài 15w. Còn máy bay OV10 hay thằng L19 phát hiện thì chẳng biết đường nào mà thoát thân. Nên bàn với anh Khoa:
Từ đêm nay cử người thay nhau gác... (vì ở trên binh trạm tôi nghe nói khu vực gần ta ở, chúng mới thả thám báo). Nó mà phát hiện ra đài 15w, thì chỉ cầm một quả lựu đạn quẳng vào nhà là cả tổ đài toi hết!
Mấy ngày sau, dân bản săn được con bò rừng to khoảng ba tạ, đã báo tiểu đoàn bộ cho người theo vào rừng mang thịt về ăn.
Bữa trưa hôm ấy lần đầu tiên được ăn thịt thú rừng sao mà ngon đến thế. Nó vừa mềm, không dai, thịt rất đậm đà và ngọt. Ăn xong vẫn thòm thèm. Anh nuôi thấy vậy liền cắt cho một tảng bảo:
Mấy anh em mang về xào ăn cho đã thèm.
Tầm chiều hôm sau, chúng tôi rủ nhau đi bắn chim. Đến bìa rừng nơi lưng chừng núi nhìn về chỗ lán ở, thấy dây anten rõ mồn một. Tôi bảo mọi người:
Thấy chưa, mình ở xa hơn cây số, nhìn bằng mắt thường vẫn thấy dây anten, thì máy bay nhìn qua ống kính phát hiện đài 15w là cái chắc”. (vì dây anten to gần bằng ngón tay út, có màu vàng nhạt)…
Cuối tháng sáu, có lệnh cơ động về bản La Vang - Tà Ôi - Sa - ra - van bảo vệ đường tuyến. Chúng tôi khiêng máy thu phát, vẫn bỏ trong hòm đạn 100 như ngày ngoài Bắc. Rồi quay lại chuyến thứ hai cùng lên xe.
Đêm ấy im ắng, lại không mưa, có trăng nên nhìn hai bên khá rõ. Đường gập gồ, cây cối xác xơ. Vẻ hoang tàn nơi trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ. Ngồi trên xe bị xóc cứ như xóc ốc...
Đi được một đoạn thì mảnh bom nó cứa buốt nhói, không thể chịu nổi. Đầu thấy đảo điên, mắt nẩy hàng trăm con đom đóm. Làm tôi xỉu đi lúc nào không hay. Đến La Vang hai người phải khiêng tôi vào chỗ ở, rồi lấy võng trải tạm ra đất để nằm. Lúc sau mới tỉnh lại. Tôi gọi anh Khoa lại nói:
Nếu lần này ông Nhượng không cho tổ đài ở cùng D bộ thì anh cứ bảo như tôi đã nói hôm ở viện về, là ở Trường Đài trưởng, đồng chí Liệu được nghe chuyên gia của bộ giải thích không có lộ sóng 15w (cả trong chống Pháp và chống Mỹ) chủ yếu lộ anten thôi. Mà anten đồng chí Liệu có cách khắc phục được. Thủ trưởng cứ yên tâm không lo gì cả... Còn nếu thủ trưởng không cho Tổ đài ở cùng D bộ, thì chúng tôi giao lại đài 15w cho tham mưu trưởng, rồi cùng xuống đại đội nhận một khẩu pháo…
Thấy Tổ đài cương quyết, nghe cũng có lý nên ông đồng ý. Còn dặn thêm nếu có hiện tượng để lộ, là lần sau không được ở cùng D bộ nữa.
Anh Khoa về, nhìn vẻ mặt thấy hớn hở, đoán là ông Nhượng đã chấp nhận... Tôi vội ra chỗ bờ suối có dẫy tre cao vút, cành lá xum xuê, uốn vòm đủ cho anten chui vào dấu an toàn; lại đúng hướng đông tây kéo anten hai râu, thì sóng phát bắc nam quá chuẩn. Đài của Bộ Quốc phòng nằm ở Hoà Bình, Dài của chúng tôi ở Trường Sơn. Còn Đài của Đoàn 559 ở gần nên không cần hướng. Theo tính năng của máy thu phát tín 102E sức phát sóng tối đa 500 km. Vậy mà đài của chúng tôi cách đài của Bộ trên nghìn km, lúc nào lên máy cũng bắt được ngay. Có khi chui giữa thung lũng, chỉ bắt được sóng trời, còn sóng đất và sóng trực tiếp không đến được, vậy mà vẫn bắt sóng tốt. Tôi để hai đầu dây dài, khi nào có máy bay thì hạ cho an toàn. Tổ đài tranh thủ đào nhà hầm để tránh bom. Vì xác định sẽ cắm chốt lâu dài.
Khi chưa có nhà tổ đài mắc võng ở bờ tre để ngủ. Được mấy hôm thì thằng sốt rét nó lại hành làm tôi rét run bần bật. Đắp mấy cái chăn cũng không hết rét, vì rét từ trong ruột rét ra.
Đang nửa đêm bỗng nghe tiếng bom toạ độ réo ngay trên đầu, rồi ánh chớp cùng tiếng nổ rầm rầm bên kia bờ suối. Khi hết tiếng bom, gọi nhau:
Có ai làm sao không?
Thì tất cả đã nằm lăn dưới đất rồi, đúng là phản xạ tự nhiên của lính cao xạ có khác.
Mấy ngày sau đào xong hầm nhà. Sáng sớm mọi người lên rừng chặt vầu về làm mái. Còn mình tôi đang sốt co ro trên võng. Nhiều lúc còn lảm nhảm nói một mình (gọi là sốt rét ác tính thể tâm thần). Đang mê man thì một ông già Lào đến gạ đổi mấy thứ. Tôi nói:
Không có gì để đổi...
Nhưng ông vẫn cố nài nỉ, tôi mở ba lô, lấy mấy viên đá lửa nói:
Cho ông dùng tạm.
Ông nhận và cảm ơn rối rít. Lại hỏi tôi:
Mày tên gì...
Rồi tự giới thiệu:
Tên tao là Cà Nà Té.
Làm nhà xong mấy người rủ nhau vào bản chơi. Gặp phò bản (trưởng bản) là Cà Nà Té. Ông hỏi:
Sao không thấy thằng Liệu vào bản.
Hưng nói:
Anh Liệu bị ốm không đi được.
Ông chạy vào nhà lấy nải chuối và nói:
Tao gửi về cho Liệu nó ăn...
Thì ra người Lào sử sự rất khác. Nếu đổi chác là sòng phẳng. Còn tặng, cho thì quý vô cùng.
Trường Sơn vào mùa mưa đường tuyến ô tô không đi lại được, đơn vị nhận lệnh ra Quảng Bình tránh đói; vì gạo dự trữ không đủ nuôi quân. Mỗi bộ phận để mấy người ở lại trông máy móc khí tài. Tổ đài có tôi và anh Nhiêm quay viên.
Mưa Lào thật ghê gớm. Cả tuần không thấy ông mặt trời ló mặt ra. Khi mọi người đi cả. Còn ít người tự nhiên thấy buồn ghê gớm. Giờ là đầu mùa mưa. Trời mọng mây thấp tè. Ngày đêm rả rích. Quần áo phơi cả tuần vẫn ướt mèm, hôi mù...
Bỗng dưng mảnh bom lại dở chứng, cộng thêm sốt rét nó hành; làm tôi tàn tạ đến thảm hại, buộc phải đi viện. Nhưng đợi ngớt mưa mới đi được. Mấy ngày sau ngớt mưa, đơn vị cử 3 người thay nhau khiêng tôi đi viện. Trên đường thỉnh thoảng có những gốc cây nhô cao đập trúng lưng làm tôi đau điếng, nhưng không dám kêu, vì thương ba người thay nhau khiêng tôi đã quá vất vả rồi. Đi đến gần trưa thì tới trạm phẫu, trong hang đá dưới dốc 28.
Sau hai tuần điều trị thì hết sốt, ăn tốt nên chóng khoẻ trở lại. Ở gần đấy có con suối, đáy toàn đá cuội, nước trong veo, mát tuyệt. Tôi theo mấy người cùng đi tắm. Gần đến nơi đã nghe tiếng suối réo ào ào. Nước chẩy qua các tảng đá cứ như cái thác. Thả mình dưới dòng nước mát rượi mới sướng làm sao.
Đang nô đùa thì thằng F4H lù lù bay tới, ngay sát ngọn cây. Khi nó vút qua đầu vội hô nhau co cẳng chạy, chỉ một chút xíu đã nghe tiếng bom nổ rầm rầm nơi vừa tắm... Thì ra nó phát hiện thấy chúng tôi. May mà kịp phóng lên bờ chạy thoát.
Mấy hôm sau im ắng, đang ngồi chơi ngoài cửa hang, thấy chán nên lững thững về. Gần đến nơi, bỗng nghe tiếng réo của bom xé gió lao xuống. Rồi ánh chớp liên tằng... Mọi người trong hang cùng kêu lên:
B52 rải thảm đấy. Chạy mau vào hang đi...
Tôi chỉ còn cách cửa hang hơn mét, bỗng thấy người đơ ra, khự lại, tay chân không cựa quậy được. Thì ra sức ép đã tràn tới... thật khủng khiếp. Đến khi hết tiếng bom mới cử động nổi chân tay, vội lao vào trong hang.
Sau 15 phút nó giội tiếp loạt hai. Kéo dài ba ngày liền. Đánh từ dốc 28 vào ngã ba Đông Dương. Ban ngày ai có việc phải ra ngoài thì cứ đến phút thứ 13 ở trong hang đã gọi:
Chạy vào mau lên. Nó rải bom tiếp đấy...
Giờ đang mùa mưa. Tôi thấy đã khá, nên bảo với bác sĩ, mấy hôm nữa bớt mưa, cho em về đơn vị nhé. May sao ít hôm sau trời tạnh, tôi xin ra viện. Lấy giấy tờ xong khoác ba lô, chào mọi người rồi xuyên rừng về bản La Vang nơi D bộ cùng mọi người ở lại trông khí tài.
Cuộc sống vẫn bình thản cuối mùa mưa. Nhưng mảnh bom nó lại dở chứng, với những trận sốt cao mỗi ngày, vào khoảng 11 giờ kéo dài trên 30 phút làm tôi bỏ bữa luôn...
Vẫn là vết thương khoang bụng liên tục gây buốt nhói, nhưng bác sĩ không tin có mảnh bom trong khoang bụng, (vì không có vết xuyên vào), thành thử không tìm ra nguyên nhân sốt do đâu. Đành ấm ức trong lòng vậy...
Phạm Huy Liệu
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn tại Hải Dương