Trường Sơn một thời để nhớ - Truyện ký: Phạm Huy Liệu

Ngày đăng: 09:26 06/05/2024 Lượt xem: 118
 TRƯỜNG SƠN MỘT THỜI ĐỂ NHỚ
                                                                                                                    Truyện ký:  Phạm Huy Liệu

     Đầu tháng 9/1968 tôi được đưa đến bệnh xá Binh Trạm 34, ở tỉnh Sa Ra Van, Lào. Nằm giữa rừng già, xung quanh núi cao bao bọc, nên ít bị máy bay Mỹ quấy nhiễu. Đến đây đã mấy ngày vẫn sốt li bì. Người còm nhom. Chưa đi lại được. Ngày nào cũng lên cơn sốt, nhưng không toát mồ hôi như sốt rét. Nhiệt độ cao. Đo 40 - 41 độ. Tôi cảm nhận được nó luôn gây đau buốt nhói ở vùng bụng... Nhưng bác sĩ không tin tôi nói. Vì vết thương không có lỗ xuyên vào, chỉ thủng rất nhỏ ở vạt áo trước, đành chịu thua bác sĩ. 
          Điều trị hai tuần, đỡ sốt. Đã đi lại được, nên ra ngoài dạo chơi tắm nắng cho thoải mái. Gần lán ở có cây hồng rất nhiều quả, nhưng cây to và cao, không tài nào lấy được. Hơn nữa bác sĩ đã dặn sốt rét không được ăn quả rừng dễ bị quật lại.
     Mấy hôm sau buổi trưa vắng vẻ, có đàn chim sáo đang tranh nhau ăn hồng trên cây, quả chín rụng xuống rào rào, tôi nhặt mấy quả ăn thử, quả là rất ngon. Nên lấy đầy túi quần, rồi tìm chỗ vắng để ăn cho thoả thích. Đi dọc các lán đến cuối bệnh xá, qua một vạt rừng thưa, gần bờ suối ngay chân núi có một lán bỏ không, ngó xem thì thấy có hai cái sạp để nằm. Vào ăn vừa kín lại chả ai biết. Thế là tôi nằm lăn trên sạp, bỏ hết hồng ra, vừa ăn vừa cảm nhận hương vị của nó, thơm giòn giống như hồng ngâm ngoài Bắc. Đang thoải mái vô tư, bỗng tự hỏi lán này giành cho ai...
       Nhà bảo vệ, không phải vì bên kia suối là núi rồi. Cho ai nữa nhỉ... Chết rồi! Đây chính là nhà xác không sai. Thấy người hơi rờn rợn. Phải về mau thôi. Để ít quả lại biếu tặng mọi người. Có linh thiêng hãy phù hộ cho những ai còn đang sống nhé! Ở bệnh xá chưa tìm ra nguyên nhân của bệnh. Bác sĩ nói theo chuyên môn. Còn tôi vẫn nghĩ do vết thương vùng bụng chính là thủ phạm. Điều trị không tiến triển nên cho tôi ra viện đoàn 559 điều trị tiếp.
        Chuyển viện mùa mưa mọi người đều phải đi bộ. Tôi đi được khoảng 30 phút thì không theo kịp đoàn, đành quay lại. Chục ngày sau khoẻ hơn cùng mọi người ra viện đoàn 559.
       Cả đoàn đi xuyên rừng mấy ngày thì đến thị trấn Tà Khống. Nơi giữa rừng già um tùm rậm rạp. Nhưng các gia đình nhà cửa khang trang, sạch sẽ gọn gàng, (dân thị trấn có khác). Dưới gầm sàn, không nuôi gia súc như những bản người dân tộc. Các cô gái ở đây rất xinh, da trắng như trứng gà bóc, mà nói tiếng Việt rất tốt.
     Mấy người chúng tôi được vào nghỉ nhờ nhà một anh bộ đội Pha Thét Lào. Anh mới học sĩ quan ở Việt Nam về với quân hàm thiếu uý.
      Tôi hỏi:
       Anh sao chưa về đơn vị?
      Anh nói:
       Vợ mới đẻ, con còn nhỏ, nên chưa đi được.
        Nhìn trong phòng có bánh xà phòng chanh vẫn còn nguyên… anh giải thích:
       Mua ở Việt Nam nhưng để cho thơm chứ không dùng. Đi bộ mấy ngày mệt tả tơi, thì tới. Viện nằm ở tỉnh Xa Va Na Khẹt. Nơi rừng già, cây cành đan xen kín mít. Vết thương vẫn vậy chả khá lên là bao. Khi quay người đột ngột vẫn buốt nhói, rồi sốt nhưng chỉ 40 độ trở xuống. Điều trị hơn ba tuần vẫn vậy… Ở lại không được, bệnh viện cử tôi dẫn 11 người ra Bắc điều dưỡng.
       Đoàn vừa đi khoảng hơn cây số, đến chỗ rẽ thì thấy mấy người khiêng liệt sĩ. Liền hỏi nhau có đường nào đi tránh không nhỉ. Một người bảo:
       Không có đâu, đi thôi. Với lại sinh dữ, tử lành kia mà. Thì ra nó vừa ném bom xong. Chúng tôi đi qua vẫn còn mùi khen khét và phảng phất khói bom... Khi đến gần con sông nhỏ, cây cối xanh rì, che kín bầu trời, đang chuẩn bị cởi quần áo gói ghém buộc trong mảnh áo mưa để bơi, thì một thằng cán gáo bay dọc sông ngay trước mặt.           Tôi nói:
      Ta may quá. Chỉ nhanh mươi phút mà đang bơi giữa sông thì nguy to… Lên bờ đi một đoạn đã gặp ngay bãi trống. Cây cối trụi lủi, chẳng còn chỗ nào mà ẩn nấp. Tôi bảo mọi người phải bám sát nhau. Lúc nào nó bay qua đầu, lúc đó hô nhau chạy. Khi nó bắt đầu lượn vòng lại, tất cả phải nằm im không được cựa quậy.
    Dặn dò xong ra nghe ngóng, thấy yên tĩnh, nên bảo nhau xuất phát. Đến giữa bãi trống, thì một thằng OV10 đang lù lù bay tới. Chúng tôi kịp thời nằm xuống, may có những lùm cây lúp xúp đủ cho mọi người nằm ẩn ở đó. Nó bay trên đầu, đến hết bãi trống rồi quành lại. Đợi nó bay qua đầu, hô nhau chạy tiếp. Rất may là nó không quay lại nữa…
      Buổi chiều đến trạm khách ngay thung lũng. Cây rừng rậm rạp, có vẻ hoang vắng. Đang chuẩn bị ăn thì anh nuôi thông báo:
      Cơm hôm nay hơi sạn, vì kho mới bị đánh bom, gạo lẫn sạn nhiều, mà sạn đá, cát trắng... nên dù đãi và nhặt thế nào cũng không hết. Mọi người ăn nhai nhẹ, nếu nhai mạnh có khi gẫy răng…
      Quả thật ăn khó nhằn sạn ra được. Thôi thì trếu tráo rồi nuốt chửng, để lấy sức mà đi. Sáng sau vẫn thế. Ăn xong lên đường đi tiếp. Anh nuôi đưa cho mỗi người một nắm cơm bằng quả trứng vịt để ăn trưa. Khi ăn cũng không dám nhai, đành bẻ nhỏ rồi cho vào miệng nuốt chửng... Đó là trạm khách duy nhất ở Trường Sơn, ăn cơm không nhai.
      Lại có trạm phải vượt núi đá tai mèo. Thang bằng gỗ dựng đứng. Hôm ấy cô gái giao liên dẫn đường nên mọi người khí thế lắm. Khi bám thang tôi nhìn người nọ nối người kia, chân người trên như đạp đầu người dưới. Cứ thế đi hết trạm này đến trạm khác. Rồi một hôm, trong bữa ăn tối, cán bộ của trạm thông báo:
       Mai vượt dốc Nguyễn Chí Thanh. Dốc vừa cao vừa dài. Vượt qua dốc cũng là một cung đường, sang bên kia trạm ngay chân dốc. Nhưng vất vả hơn mọi trạm rất nhiều. Các đồng chí chuẩn bị tinh thần, hãy cố gắng vượt qua.
      Sáng hôm sau tôi đi tốp đầu. Đây cũng là trạm duy nhất trên đường không cần dừng nghỉ, mà ai mệt ở đâu thì nghỉ ở đó. Không sợ lạc, bởi chỉ có một con đường độc đạo. Chúng tôi hăm hở lên dốc. Chân bước từng bước một cho chắc. May mà chiều qua đã chặt sẵn mỗi người một cái gậy để chống, nên có tác dụng rất tốt.
      Càng đi lên dốc, cảm thấy bước đi nặng dần, người cũng khom xuống như lấy đà. Thỉnh thoảng mấy con chim hót véo von trên cành cũng chả thèm để ý nữa. Giờ thì mồm mũi tranh nhau thở. Gần trưa ì ạch cũng leo lên đỉnh dốc. Đoàn chúng tôi bảo nhau mắc võng trên đỉnh Trường Sơn. Ngắm trời, ngắm đất, ngắm núi rừng trùng điệp, mờ ảo trong mây, mà ngỡ mình đang ở nơi tiên giới... Rồi lấy nắm cơm ra ăn, sao mà ngon tuyệt. Đó cũng là kỷ niệm đẹp nhất của thời quân ngũ, được đung đưa cánh võng trên đỉnh Trường Sơn, rồi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay.
     Ngủ một lúc, mấy anh em hô nhau dậy đi tiếp. Chắc xuống dốc sẽ dễ dàng hơn, ai ngờ cũng khó ra phết. Nếu không có gậy thì rắc rối to chứ chả chơi. Tất cả sức nặng đều dồn lên đầu gậy đỡ cho người khỏi lao xuống dốc. Không khác gì mình phải liên tục phanh lại, hãm cho đi từ từ. Nếu trượt chân là lăn xuống vực.
     Xế chiều chúng tôi cũng vượt qua hết dốc. Đúng là hú hồn. Chả thế mà đặt tên dốc, lấy tên Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh để xốc tinh thần lính quả là quá chuẩn.
Mấy hôm sau đến một con sông khá rộng, đêm mới có trận mưa to. Nước chẩy cuồn cuộn. Đằng nào cũng phải vượt. Chúng tôi bàn nhau cách bơi. Ước lượng sức nước chẩy để sang sông. Mọi người nhất trí đi ngược lên 100 bước. Rồi bơi chéo xuống áp sát bờ bên kia, nhanh chóng bám vào cành cây nằm xà xuống sông để lên đường mòn đi tiếp.
      Đúng như tính toán, tất cả đều qua sông an toàn. Cứ thế chúng tôi đi theo giao liên với quãng đường khá dài, từ Sa Va Na Khẹt, qua Khăm Muộn. Chỉ ngày mai là đến trạm 5 Quảng Bình. Ôi Tổ Quốc muôn vàn kính yêu, những đứa con hoàn thành nhiệm vụ trở về đất mẹ rồi đây!
     Đến trạm 6 Lào! Cũng giống như cửa khẩu. Đoàn chúng tôi 11 người. Nhưng có hai người mất hết giấy tờ, nên (gọi là lính thung dung). Vì vậy đoàn không được đi cùng đường thương bệnh binh, ra Bắc điều dưỡng. Mà đi theo đường cán bộ giao quân. Nên phải đi bộ tiếp. Từ trạm 6 Lào, rồi đi sang Quảng Bình... Còn đoàn thương bệnh binh được đón đi bằng ô tô về Việt Nam.
     Tạm biệt trạm 6 Lào về Việt Nam, lòng bồi hồi khó tả. Không thể nghĩ mình có ngày hôm nay. Đến trạn 5 Quảng Bình khoảng hơn 4 giờ chiều, gặp các anh chào hỏi hồ hởi, như đã từng quen nhau từ lâu. Chỉ cho chúng tôi chỗ mắc võng nghỉ ngơi, nơi đi tắm giặt, xong rồi về ăn cơm.
      Xuống nhà bếp thấy cơm trắng tinh. Thịt hộp nấu rau rừng, trông sao mà ngon thế. Đoàn chúng tôi có 11 người, các anh cho hai mâm sáu, còn cơm xới đầy thúng khiêng ra ăn thoải mái. Ăn hết nhẵn cả thúng cơm mà vẫn thấy thòm thèm. Anh nuôi hỏi:
     Các đồng chí no chưa?
     Mọi người cười bảo chưa ạ.
       Anh nuôi lại cho hẳn hai mâm nữa. Mọi người đua nhau ăn. Một lúc cũng hết luôn. Cả trạm trố mắt nhìn thán phục, anh nuôi hỏi:
      Có ai làm sao không?
      Tất cả trả lời:
      Không sao ạ. Thế mới no... Cám ơn các anh nhiều.
       Biết bao gian khổ hi sinh. Đói cơm rách áo, rồi sốt rừng vàng mắt vàng da. Chân đi không nổi, chỉ còn da bọc nắn xương, khắp người ghẻ lở, hắc lào, trông phát khiếp...
       Những kỉ niệm Trường Sơn lại ùa về trong những giấc mơ, luôn ám ảnh tôi. Bao nhiêu gian khổ, hi sinh của đời lính, trước cảnh hoang tàn, những thời khắc chiến tranh ác liệt đến rùng rợn... Hình ảnh Trường Sơn và tình đồng đội vẫn in đậm trong ký ức, vừa đẹp, vừa hào hùng... Cũng là niềm tự hào một thời được mang danh hiệu “anh bộ đội Cụ Hồ”.

                          Phạm Huy Liệu
         Hội viên hội Trường Sơn tỉnh Hải Dương
Nguyên Đài trưởng 15w D1 cao xạ trực thuộc đoàn 559

tin tức liên quan