BỘ ĐỘI TRƯỜNG SƠN VỚI TRUYỆN KIỀU
Xuân Bách
Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du là một tác phẩm văn học bất hủ, không chỉ đã đi vào trái tim của quần chúng nhân dân lao động, mà còn được các chiến sỹ bộ đội ta rất yêu mến. Suốt cả chặng đường dài của hai cuộc chiến tranh vệ quốc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Truyện Kiều đã trở thành một sức mạnh tinh thần cho các chiến sỹ quân đội, trong đó có người lính Trường Sơn.
Đến bây giờ chưa biết rõ ai là người đầu tiên mang Truyện Kiều đi đánh giặc? Nhưng dù đường xa gánh nặng, dù bom đạn của chiến trường, những người chiến sỹ quân đội nhân dân Việt Nam trước đây cho đến ngày nay trong hành trang của họ cũng đều thuộc lòng một vài câu Kiều, hoặc mang theo trong ba lô ra trận cuốn Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du.
Những năm tháng kháng chiến chống đế quốc Mỹ, phần lớn lớp lớp chiến sỹ bộ đội ta đã được học, được đọc và thuộc Truyện Kiều trên ghế nhà trường và ở các giảng đường trường Đại học, nên Truyện Kiều ngay từ đầu đã theo sát bước chân các anh bộ đội Trường Sơn hành quân vượt đèo vượt dốc, bên những cánh võng rừng sâu, lên chốt cao trọng điểm, trong chiến hào chờ địch, trong bệnh viện, bệnh xá quân y. Bất cứ ở đâu bộ đội ta cũng sôi nổi bàn tán về Truyện Kiều, bình giảng về Truyện Kiều, vịnh Kiều, đố Kiều, bói Kiều, với nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá đa dạng, phong phú. Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du đã góp phần không nhỏ làm quên đi sự gian khổ, đói khát, hy sinh trước sự ác liệt của chiến trường.
Đặc biệt giữa đại ngàn Trường Sơn sâu thẳm, bom đạn và chất độc hóa học của kẻ thù ngày đêm trút xuống, để mở tuyến đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử chi viện cho chiến trường Miền Nam, ngay tại Đại bản doanh Bộ tư lệnh 559- Bộ tham mưu cũng thành lập một “Nhóm Kiều học”, do phó tư lệnh- thiếu tướng Nguyễn An làm nhóm trưởng để tìm hiểu về thiên tài Nguyễn Du và tuyệt tác Truyện Kiều. Nhóm Kiều học Trường Sơn về sau đã thu hút hàng trăm sỹ quan, chiến sỹ tham gia, các buổi sinh hoạt luôn luôn được duy trì đều đặn, bài bản và hết sức khoa học (1).
Sinh hoạt Truyện Kiều ở Trường Sơn đâu chỉ có ở các đại bản doanh, chỉ huy sở, mà còn theo sát người chiến sỹ ở từng chiến dịch, từng trận đánh. Trong những cuộc hành quân gian khổ, có người chính ủy đã nghĩ ra việc đố kiều để động viên đồng đội: Kiều có bao nhiêu người yêu? Kiều là con ai? Kiều yêu lúc bao nhiêu tuổi? có mấy người chồng? v.v.và v.v, Những đề tài đố Kiều ấy đã làm cho từng người lính, cả đoàn quân sôi nổi bàn luận quên đi trước mặt là đèo cao, vực thẳm, đói khát gian truân, những cơn sốt rét rừng ớn lạnh. Trong các bệnh viên, bệnh xá tiền phương, có bác sỹ quân đội để động viên xoa dịu những cơn đau của các thương binh đã nghĩ ra cách đố câu Kiều: "Khi tựa gối, khi cúi đầu / khi vò chín khúc, khi chau đôi mày” đó là bênh gì? (đau bụng); Từ Hải được cụ Nguyễn Du tả là: “Một tay xây dựng cơ đồ “ vậy có phải là thương binh không?Ai trả lời đúng sẻ được tặng lương khô hoặc hộp sữa. Những câu đố Kiều ấy đã làm cho các chiến sỹ nằm trong bệnh xá sôi nổi thảo luận quên đi nổi đau đớn thương tật trên cơ thể mình.
Đố Kiều đã vậy, lẩy Kiều càng được các chiến sỹ quân đội ta vận dụng thật tài tình. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết đến 77 lần chữ "Khi", thế mà được các chiến sỹ bộ đội ta vận dụng rất đa dạng, dí dỏm cho từng binh chủng. Đối với lính công binh phải hành quân bộ, mở đường sông đường suối, bắc đường ống dẫn dầu nên đã lẩy Kiều:“Khi lên thác, khi xuống ghềnh / Khi vồ phải đá, khi kềnh giữa sông"; Đối với lính lái xe Trường Sơn thì: "Khi leo dốc, khi xuống đèo / Khi bon bon chạy, khi trèo lên bom"; Đối với các chiến sỹ làm nhiệm vụ bảo vệ trên điểm chốt: "Khi cúi xuống, khi đứng lên / Khi xem lại đạn, khi lên đỉnh đồi"... Kể cả lúc thiếu gạo, khẩu phần ăn chỉ một bát cơm vơi, ăn rồi mà bụng vẫn cồn cào cảm thấy như chưa ăn, các chiến sỹ ta đã lẩy Kiều: "Biết bây giờ đến bao giờ / Đã đi rửa bát tưởng ngờ chưa ăn".
Truyện Kiều còn được bộ đội ta vận dụng trong việc bói Kiều. Ở giữa chốn chiến trường Trường Sơn khói bom và đạn lửa, nhưng lúc tiến hành bói Kiều lính ta vẫn thực hiện đúng thủ tục bói để tìm sự linh nghiệm.Vẫn dùng hai tay nâng cuốn Kiều lên trước mặt rồi lầm rầm khấn: "Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thuý Kiều, con xin Cụ một quẻ". Dẫu cũng chỉ là vui thôi, nhưng cũng có lúc thật là ứng nghiệm. Chuyện kể rằng: có một lần một tổ trinh sát được đơn vị cắt cử đi tìm địa điểm để đặt chỉ huy sở. Sau một thời gian tìm được một địa điểm đẹp, rất thuận lợi, ưng ý, có suối nước, giáp đường giao liên, gần đơn vị bạn để hộ trợ. Trước khi đi đến quyết định, có một đồng chí trong đoàn lấy cuốn Kiều trong ba lô ra xin cụ Nguyễn Du một quẻ, ứng ngay phải câu trong Truyện Kiều: "Vậy nên những chốn thong dong/ Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng". Thấy câu Kiều ứng vậy, báo trước sự không lành, các đồng chí không chọn địa điểm đó nữa mà đi tìm điểm khác sâu hơn, xa hơn, đi lại sinh hoạt khó khăn hơn, không bằng địa điểm trước. Một tháng sau quay lại, địa điểm thuận lợi đã bị bom B52 rải thảm tan hoang. Sau này ai cũng bảo, nhờ có quẻ Kiều của cụ Nguyễn Du báo trước mà tránh được tổn thất lớn lao cho toàn đơn vị. Một chuyện nữa, năm 1971 có một đơn vị đóng quân ở Làng Ho, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình, cắt cử một tiểu đội về cứ lấy gạo. Tiểu đội có 12 người đi từ mờ sáng đến đêm tối mới về, nhưng về đến nơi thiếu mất 3 chiến sỹ, mọi người ai cũng lo lắng, tỏa đi tìm. Đồng chí tiểu đội trưởng có cuốn Truyện Kiều mang theo mở ra xin cụ Nguyễn Du một quẻ thì ứng 2 câu: “Lo gì việc ấy mà lo / Kiến trong miệng chén có bò đi đâu”. Câu Kiều vừa đọc xong 10 phút sau, 3 chiến sỹ lù lù trở về, trên vai vẫn ba lô đầy gạo, còn cọng thêm con nai rừng rất lớn. Bước đầu đồng chí tiểu đội trưởng bức xúc mắng mỏ, nhưng được một chiến sỹ phân bua: "Hôm nay nhân có gạo, đi qua rừng chiều, bọn em gặp con nai rừng ra suối, dừng lại bắn mang về, tiện thể làm bữa liên hoan, nên về chậm". Nghe vậy, ngẫm lại quẻ Kiều cụ Nguyễn cho: (miệng chén là còn ở trong vòng yên ổn, sẽ quay về). Đồng chí tiểu đội trưởng "hạ hỏa" nở nụ cười xin lỗi các chiến sỹ và cảm ơn quẻ Kiều cụ Nguyễn Du mách bảo. Rồi chuyện một tiểu đội trinh sát đặc công cũng vậy. Trước khi đi tiêu giệt đồn địch, có chiến sỹ mở cuốn Kiều xin một quẻ, bắt được câu "Cất mình qua ngọn tường hoa/ Lần đường theo ánh trăng tà về tây". Theo lời, đêm đó các chiến sỹ ta vượt qua dãy tường rào dây thép gai (tường hoa), chờ đến lúc trăng tà, đánh vào mạn sườn phía tây của đồn địch. Thắng lợi giòn giã trở về, cả tiểu đội làm bận liên hoan để tạ lễ với cụ Nguyễn Du đã mách bảo cách đánh...v…v.
Phải có hàng nghìn trang giấy mới kể hết chuyện bộ đội ta trong đó có người lính Trường Sơn với Truyện Kiều. Suốt chiều dài cuộc kháng chiến chống Mỹ, ở đâu, vào thời điểm nào, bộ đội ta cũng tạo nên những sinh hoạt đa dạng phong phú, làm vơi đi sự gian khổ, ác liệt của chiến trường đạn bom khói lửa, mất mát và hy sinh. Chính vì vậy nhà thơ Chế Lan Viên khi viết bài thơ: "Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ" đã căn dặn người em trai cũng như căn dăn chung các chiến sỹ quân đội ta trước khi ra trận:
"Đất nước mình còn nghèo lắm hởi em yêu
Một giọt lệ của ông cha cũng có ích với ta nhiều
Dẫu súng đạn nặng đường ra hoả tuyến
Vượt đường dài nhớ mang Truyện Kiều theo"
Trong kháng chiến là vậy, hiện nay đất nước đã được thống nhất, các đơn vị của Binh đoàn 12- (Tiền thân là bộ đội Trường Sơn) đang tập luyện trên thao trường, làm nhiệm vụ trên biên cương, ngoài hải đảo, hay đang tham gia xây dượng kinh tế trên mọi miền đất nước, ở đâu bộ đội ta cũng vẫn rất say mê, yêu thích bàn luận Truyện Kiều.Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du đã góp phần làm cho các chiến sỹ thêm lạc quan yêu đời, quên đi sự gian khổ, hy sinh, để bảo vệ từng tấc đất biên cương của Tổ quốc, giữ cho nền độc lập dân tộcmãi mãi bình yên. Vì vậy, dẫu Nguyễn Du - tác giả của Truyện Kiều không tham gia trong đoàn quân của cuộc kháng chiến, nhưng những đóng góp tinh thần tạo nên sức mạnh lớn lao cho quân đôi nên nhiều người đã mệnh danh cho Đại thi hào là "Nhà chính uỷ tài năng" của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam ./.
------------------------
(1)-Theo cuốn "Trên đỉnh Trường Sơn kể chuyện Kiều". của Thiếu tướng Nguyễn An. Nhà XB Quân đội. In năm 1999.(Thiếu tướng Nguyễn An mất năm 2011 tại Tp. Hồ Chí Minh, thọ 80 tuổi)
Xuân Bách
Hội viên Hội VHNT TS tại Nghệ An
ĐT: 0912591362