Những sắc màu tương phản - Nguyễn Khắc Phê
Ngày đăng:
11:07 06/06/2018
Lượt xem:
632
NHỮNG MÀU SẮC TƯƠNG PHẢN
(Trích ký sự “NHỮNG NGƯỜI MỞ ĐƯỜNG NGÀY ẤY” của Nguyễn Khắc Phê)
Lời Ban Biên tập:
Trang báo điện tử Trường Sơn trân trọng giới thiệu với bạn đọc kỳ thứ 3 trong ký sự “Những người mở đường ngày ấy” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê, cán bộ kỹ thuật ngành Giao thông vận tải làm việc bảo đảm giao thông tại Đường 12A tây Quảng Bình từ năm 1965. Ký sự của anh là những chi tiết sống động và chân thực về cuộc sống, chiến đấu gian khổ và ác liệt của những công nhân, thanh niên xung phong làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông dưới sự đánh phá ác liệt của không quân Mỹ nhằm ngăn chặn tuyến đường huyết mạch của Trường Sơn chi viện cho chiến trường.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn dọc kỳ thứ 3 của Ký sự này.
Trân trọng cám ơn nhà văn Nguyễn Khắc Phê.
Ngày 7/7/1965, lúc sắp hết hạn nghỉ phép, tại nhà ông chú ở ngoại thành Vinh, trong tiếng máy bay phản lực lao qua thành phố, tôi đọc báo “Nhân dân” đăng tin Chính phủ vừa có quyết định thành lập “Đội Thanh niên xung phong” (TNXP) liền nghĩ ngay tới ngày trở lại Công trường 12A chắc chắn sẽ gặp đội quân mới này tiếp sức cho tuyến đường huyết mạch ra mặt trận.
Chiều 15/7/1965, tôi rời thành Vinh, một mình đạp xe suốt đêm qua đò chợ Tràng, theo đường 15 qua Đồng Lộc, Chu Lễ và về đến La Khê khi trời vừa sáng. Thời điểm này ngã ba Đồng Lộc vẫn là chốn bình yên. Hôm rời La Khê về phép, tôi cũng đi theo tuyến này. Đạp xe một mình qua vùng đồi hoang mênh mông trong bóng đêm mờ ảo, tưởng như là cảnh một thảo nguyên trong phim Liên Xô. Con đường yên ắng đến mức có lúc tôi vừa đạp xe, vừa gật gà ngủ và đã bị ngã kềnh khi đâm nhào xuống rãnh bên đường. Lúc đi vào, đã quen đường, nhưng thú thật là đi một mình trong đêm, qua những đoạn đường đồi núi vắng ngắt vẫn sợ; nhờ sợ mà phải cố đạp cho nhanh.
Tôi về đến công trường khi đội quân TNXP hơn ngàn người đã được bố trí ở những điểm xung yếu trên đoạn đường dài khoảng 80 cây số, từ Tân Đức đến Cha Lo. Đội TNXP mang phiên hiệu N.75 chia thành 9 đại đội, gọi tắt là “C”, gồm 1.163 thanh niên (trong đó có 411 nữ) các huyện của Quảng Bình, do đồng chí Đặng Thanh, Ủy viên Thường vụ Tỉnh Đoàn Quảng Bình làm Đội trưởng. (Đồng thời, Quảng Bình còn lập Đội TNXP N.73 gồm 7 đại đội, thời gian đầu phục vụ ở phía bắc đường 9, sau rút về bố trí dọc đường 15 từ Khe Ve đến phà Xuân Sơn.)
Tại đường 12A, C.751 (Bố Trạch) chốt ở Tân Đức; C.752 (Quảng Trạch) chốt Khe Hà; C.753, C.755, C.756 (Quảng Trạch) và C.754 (Quảng Ninh) chốt hai bên bờ Ca Tang; C.757 (Lệ Thủy) chốt La Trọng; C.759 (Tuyên hóa) chốt Khe Cấy - Y Leng; C.758 (Minh Hóa) chốt Cha Lo (ít lâu sau điều về góp sức mở đường tránh ở Ca Tang. Mỗi đại đội, công trường cử về một cán bộ kỹ thuật giữ chức “C. Phó”; riêng tôi, về Phòng Bảo đảm giao thông, không giao chức “trưởng-phó” gì, nhưng có trách nhiệm quán xuyến, xử lý các sự cố, các vấn đề mới nẩy sinh trên cả tuyến đường, nên có dịp ghé “thăm” và “hóng chuyện” ở nhiều đơn vị.
Nếu nhớ lại vài năm trước, cán bộ tổ chức các đơn vị giao thông phải về tận địa phương nói thật “khéo”, mới tuyển được vài chục công nhân, thì việc hơn ngàn thanh niên “bỗng chốc” tràn lên con đường ở nơi heo hút này quả là một sự kiện lớn, một niềm vui lớn đối với tất cả cán bộ, công nhân ở Công trường 12A. Đội quân “Ba sẵn sàng” từ lúc rời quê hương cho đến lúc đặt chân đến trận địa mới thì cũng luôn vui như hội, là hình ảnh một đoàn quân hăng hái “trăm người như một”. Nhưng thực tế nghiệt ngã, từ đời sống cụ thể ngày ngày phải chui rúc trong những mái lán thấp tè ẩn kín dưới rừng cây ẩm ướt, thiếu giấy viết thư, xà phòng giày dép chưa kịp phát… cho đến cuộc chiến đấu trên mặt đường ngày càng ác liệt, chết chóc cận kề, đã khiến một số giao động. Kể cũng là điều dễ hiểu. Cả ngàn con người, hầu hết mới lần đầu rời làng quê với mái nhà và sự chăm chút của bố mẹ, anh chị em, dấn thân vào một môi trường xa lạ, biết bao nhiêu là tâm sự và những đòi hỏi khác nhau.
Ngay trong cuộc họp đầu tiên với cán bộ toàn công trường ngày 17/7/1965 tại công trường bộ (lúc đó đang đóng tại La Trọng), trong khi nêu gương Nguyễn Tử Bình cùng hai công nhân Thìn và Dị đã dũng cảm phá bom nổ chậm bên cầu Khe Ve, thì hiện tượng “bi quan đào ngũ” đã được báo động. Một ngày sau, tôi đi lên Bãi Dinh xem hệ thống đường tránh đoạn từ La Trọng đi lên. Một tháng tôi xa công trường, sau mấy trận ném bom, cầu vòm Bãi Dinh “đẹp như tranh vẽ” đã bị đánh sập. Công lao của mấy trăm con người trong hơn một năm qua đã biến thành đống đá nằm chắn dòng khe, khiến mức nước phía thượng lưu dâng lên, làm đường ngầm thêm tốn kém, nên phải cho nổ mìn phá nốt khối đá vòm mà bom đánh sập xuống!
Trên đường trở về La Trọng, lần đầu tôi tiếp xúc trực tiếp với TNXP.
“… Ghé đơn vị làm ở Khe Cấy, tức C.TNXP Tuyên Hóa. Ở đây, tuy là lần đầu gặp gỡ, nhưng vẫn có cảm tình. Các chị em vui vẻ, hát hò luôn. Mấy cô gái rõ dáng học sinh, chụm đầu bên cuốn sổ tay, đọc cho nhau nghe những “danh ngôn” về tình yêu… C Tuyên Hóa cũng có những mặt xấu như tỷ lệ đào ngũ nhiều, cán bộ - cụ thể là C trưởng P. , một anh chàng có đôi mắt lờ đờ như người đau mắt, cũng như người qua nhiều đêm mất ngủ, rất nhát. Nghe có bom, không dám ra mặt đường, hoặc ngồi tít trên cao. P. cũng sợ lại gần ánh đuốc, sẽ dễ bị máy bay bắn. Tuy vậy, đại đa số anh chị em rất tốt. Chỗ ăn ở khó khăn đã chịu đựng được. Vừa mới lên đã đi lấp hố bom ở cầu La Trọng. Lấp xong thì lại chạy lên lấp hố bom ở Y Leng…”
Đoạn nhật ký ghi vội, đơn sơ, nhưng đây là hình ảnh đầu tiên về một đơn vị TNXP mà tôi gắn bó mãi về sau. Trong cuộc chỉnh huấn cho đảng viên, cán bộ công trường đầu tháng 8/1965, đồng chí bí thư Đảng ủy Phan Huy Đại đã phê phán gay gắt hiện tượng TNXP đào ngũ và thái độ hèn nhát của đại đội trưởng C.759. Điều đó là cần thiết giữa cuộc chiến gay go, nhưng ngẫm kỹ thì đây cũng là biểu hiện bình thường của con người. Thử hỏi, mấy ai dám quả quyết mình không sợ chết? Những ngày đầu, không chỉ ở C.759 có chiến sĩ đào ngũ. Ngay khi từ C.759 về đến La Trọng, tôi đã được nghe anh Toàn (kỹ thuật viên) báo cáo tình hình C.751 ở vùng Tân Đức với Trưởng ban chỉ huy Trương Duy Thùy. Ở đó, cũng có không ít anh chị em đào ngũ; các cô gái thì đã có lần ngồi túm tụm cả chục cô cùng khóc. Hỏi vì sao thì các cô chỉ bảo là buồn, nhớ nhà!...
Những chiến sĩ đào ngũ, những chỉ huy nhát gan - tôi viết “những” vì đâu chỉ anh P. ở C.759 trốn tránh nơi nguy hiểm, về sau khi cuộc chiến ác liệt hơn, có vị giữ chức trách cao hơn mà tôi biết, cũng chọn cách đốc thúc quân lính đằng sau hoặc qua điện thoại! - một số cá nhân không vượt qua được nỗi sợ bình thường của con người như thế càng làm bật nổi cách sống khác thường, cũng có thể gọi là phi thường, là anh hùng của đại bộ phận đội quân GTVT.
Trong cuộc chỉnh huấn đầu tháng 8 đó, anh P. đã bị cách chức đại đội trưởng C.759, còn Nguyễn Tử Bình được cử làm Đội trưởng Đội Cầu I thay cho kỹ sư Nguyễn Tuân được điều về Phòng thiết kế Ty Giao thông. Cũng thời gian này, công trường có một tin vui đặc biệt: Ngày 28/7, nhóm dân quân tổ “20/7” Đội “Thống Nhất” ở Bãi Dinh gồm có Vân, Nhung, Thụ, Tề, Chinh đã bắn rơi một “Con Ma” F.4H. Máy bay rơi gần Y Leng. Đáng tiếc là thằng phi công nhảy dù ra, không bắt được. Vân và Nhung đã được đề nghị thưởng Huân chương.
Sau chỉnh huấn, phong trào thi đua toàn công trường diễn ra sôi nổi, không quân Mỹ vẫn liên tục dội bom nhưng ở đoạn đường nào cũng có lực lượng ứng cứu kịp thời, nên giao thông thường không bị gián đoạn lâu. Cho dù vậy, cuộc sống trên con đường này cũng như cảnh sắc thiên nhiên luôn gồm những sắc màu tương phản. Hàng ngày, cùng với tin vui thông đường, là những tin buồn thật xót xa.
Trích Nhật ký ngày 1/9/1965:
10 ngày qua, ở công trường dồn dập những tin không vui, thương vong liên tiếp vì bom đạn Mỹ. Ngay vùng Công trường bộ La Trọng, đã trải qua một đêm khá kinh hoàng vì chúng đón đánh một đoàn xe đúng lúc đi qua đây. Máy bay địch xuất kích 3 đợt, loại T.28, rồi phản lực, rồi lại T.28. Trong đêm nhìn rõ máy bay với 3 đèn màu đỏ-xanh, rõ đạn chúng bắn ra, rõ những chùm lửa khi chúng phóng hỏa tiễn. Và pháo sáng thì hết quả này đến quả khác. Rất may là không ai chết, chỉ bị cháy một xe. Ở Công trường bộ chỉ bị cháy một lán cưa, còn mấy nhà chính vẫn nguyên, nhưng sau mới biết phòng nào cũng bị chúng bắn đạn 20 ly. Tuy thế, nhưng các đồng chí Ban chỉ huy vẫn không dứt khoát cho chuyển vào vùng lán trong rừng. (Cũng do bản La trọng có một số nhà dân, nghĩ rằng địch không biết đây là bộ chỉ huy công trường; mặt khác, có ý kiến chỉ huy mà rút vào rừng sẽ làm mất tinh thần chiến sĩ!)
Liền đó là vụ hai công nhân Đội Cầu 1 gác đèn phòng không, bị trúng bom chết. Có thể hai anh không kịp tắt đèn khi phát hiện máy bay. Bom nổ ở mép ta-luy đối diện với chòi gác. Hai công nhân bị tung xuống khe, xác không còn nguyên vẹn.
Hai đồng chí chết lúc 3 giờ sáng, thì 8 giờ, phản lực Mỹ ném bom trúng lán C.757 (Lệ Thủy). Lán làm dưới cây khá kín đáo, nhưng ở gần đường, nên chưa hẳn địch đã cố ý tìm đánh lực lượng giữ đường. Trong lán có giao thông hào tốt, nhưng anh chị em không kịp xuống. Bom rơi khi các chiến sĩ còn ngủ, 8 người hy sinh ( 4 nam, 4 nữ ở cùng một xã). 7 người không tìm thấy xác. Nghe tin, cả Công trường bộ chạy xuống giúp tải thương, tìm xác. Lái xe Nguyễn Văn Tánh phóng xe giữa ban ngày để chở thương binh đi cấp cứu.
Liền mấy ngày sau trời mưa, TNXP C.757 hầu hết phải che ni lông ngủ giữa rừng. Ngay buổi chiều lán bị bom, mình cùng Ban chỉ huy C.757 đi tìm vị trí dựng lán mới. Rúc vào rừng rậm, lại gặp mưa đến khổ. Kỹ thuật viên Quỳ khá là vất vả. Đi tìm chỗ dựng lán, áo quần bê bết máu không kịp thay, lại nhịn đói từ sáng…
Một việc xôn xao nữa là tin hai nữ công nhân gác phòng không ở Khe Ve mất tích! Dự đoán có thể bị biệt kích bắt, nên Công trường đánh điện báo cáo về Ty, về Tỉnh. May sao hai người không mất tích mà chỉ chạy bạt vía, do thấy bóng hai người cầm đèn rất sáng từ Khe Ve lên, tưởng là biệt kích!
Đúng thời gian này, đồng chí Nguyễn Nựu, Bí thư Đảng ủy Ty, nguyên chỉ huy Công trường “050”( lúc đó đảm trách đoạn đường bên kia đèo Mụ Giạ), từ biên giới về ghé qua công trường. Đồng chí đặt vấn đề giấu quân là quan trọng, thay đổi quan niệm của Ban chỉ huy Công trường 12A, “thanh minh” hộ cho một số anh em mà trước đây Ban chỉ huy cho là nhát vì chịu khó sơ tán và xuống hầm! (Tuy vậy, mình thấy cũng có đôi người vin cái cớ bảo toàn lực lượng để bảo mạng mình.) Anh em có vẻ thích thú khi thấy đồng chí Nựu xuống hầm lúc phản lực bay qua. Đó là việc tất nhiên, nhưng ở đây là “chuyện lạ” vì Ban Chỉ huy rất gan (cậu L., cán bộ thống kê, thì bảo là gan-huyền!) cứ bám lấy chỗ làm việc cũ, không mấy khi xuống hầm.
Cũng trong thời gian này, chúng bỏ bom phá đường và bom nổ chậm lung tung trên tuyến. Bom nổ cả sau đồi gần lán sơ tán. Giấy báo tử của những người hy sinh đợt trước chưa đánh máy xong thì tin từ Cha Lo báo về: Kỹ thuật viên Vân chết và đồng chí đại đội phó C.758 bị thương. Kỹ thuật viên Bành Trọng Vinh, quê Nam Đàn, công trường dự tính cử về Ca Tang cùng kỹ sư Minh khảo sát tuyến đường tránh mới, liền được lệnh lên Cha Lo thay Vân. Vinh đi, ngoài mặt thấy vẫn bình thường, lại muốn đi ngay, nhưng trong bụng hẳn cũng lo lắng, suy nghĩ nhiều về sự sống chết. Lúc sắp ra đi, Vinh nói nửa thật nửa đùa: “Chả biết rồi có lên đến nơi không đây!” (Sau này, khi Ty Quảng Bình rút một số đơn vị về đồng bằng, Vinh được cử làm Đoạn phó Đường bộ phụ trách phà Sông Gianh, Quán Hàu… cũng đều là những nơi bị đánh ác liệt…)
Sự đời nghĩ cũng phức tạp! Trong lúc đồng đội không quản hy sinh như thế thì có người như kỹ thuật viên R. , một đảng viên lớn tuổi, con đã gả chồng, lại đi tằng tịu với nữ TNXP, tuổi nhỏ hơn con mình!...
Mùa mưa bắt đầu, việc vượt lũ nhiều khi còn khó hơn đối phó với bom đạn. Chiều ngày 29/8, sau khi “liên hoan sớm” ngày Quốc khánh 2/9. Mình và kỹ sư Minh ra Ca Tang xem lại tuyến tránh mới dài đến 4 km và vị trí làm cầu-tràn vượt khe khi lũ. Tình cờ, gặp xe công trường đi Quy Đạt, mừng, đỡ đoạn cuốc bộ xuống Khe Ve nhưng lên xe cũng ngợp, khi nghĩ đến tình huống máy bay bất ngờ bắt chộp được. Thế mới biết các đồng chí lái xe rất dũng cảm. Đó là xe khởi hành đã hơi muộn vì phải chờ thông đường. Một quả bom nổ đứt đoạn đường phía trên Khe Ve, tổ thợ mộc của Sành (Đội Cầu) được lệnh đi làm ban ngày để thông xe sớm. Anh em có sáng kiến dùng gỗ bắc cầu tạm cho xe qua chứ không xẻ núi lấp hố bom, nên thông xe khi trời chưa tối. Tiếc là xe gần đến Khe Ve thì phải quay lui, vì gặp 2 TNXP vừa vượt Khe Ve lên cho biết lũ còn lớn, cuốn trôi hết áo quần khi họ bơi qua. Thế là mình và Minh phải quay lại nghỉ tạm ở Đội “Tiền Phong”.
Sáng, hai anh em vượt Khe Ve cũng phải cởi hết quần áo, gói vào ni lông rồi bơi qua. Đến Ca Tang, mới biết trận lũ đã làm sụt đất đầu ngầm rất lớn. Cả mấy đơn vị cùng tập trung quân làm rất khẩn trương. Mình đến chỗ làm việc khi trời vừa tối và tiếng hò (hình như của cô Tình?) đang cất lên vui vẻ: “Ơ…ơ…Trông lên nhịp cầu lòng càng uất hận / Ngó lại nhịp cầu căm phẫn biết bao / Anh chị em ơi! Giương cao tay ta cuốc ta cào / Đắp đường ta lại để xe vào xe ra… này ơ hò!” Nhưng chỉ mấy phút sau có báo động máy bay và ngay trong đêm, chúng ném bom gần chỗ làm khiến 1 chiến sĩ TNXP C.753 (Quảng Trạch) hy sinh và mấy đồng chí bị thương. Vậy là việc thông xe chậm lại, trong khi có tin là một đoàn cán bộ quan trọng cần vượt qua.
Đêm đó, máy bay hoạt động gần như suốt đêm. Phía dưới Tân Đức, chúng thả pháo sáng và pháo cao xạ bắn lên nhiều lần. Chẳng lẽ chúng biết chuyến đi quan trọng của ta và bay ngăn chặn?...
Đến 12 giờ đêm 31/8 mới thông xe. Đoàn xe vượt lên đi trước toàn là xe con. Xe đi, anh em về nghỉ chưa ấm chỗ thì lại có tin ra kéo xe bị lầy và đất lại sụt! Chị em nữ công nhân trong tổ “Lê Hồng Phong” (Đội Quyết Tiến) ra mặt đường một cách nhanh nhẹn đáng khen ngợi…
Trích Nhật ký ngày 3/9/1965:
Ngày 2/9, trời mưa to suốt ngày và lũ dồn về đột ngột. Một chiếc xe sa lầy tối hôm trước, kéo lên chưa hết dốc, nay đã bị nhận chìm. Trên xe chở 2,7 tấn gạo. Nghe tin, anh em chạy ra cứu, nhưng chẳng thấy xe đâu nữa! Nước khe Ca Tang dồn về đục ngầu với rất nhiều cây cối. Có chiếc “lườn” (thuyền độc mộc) bị bẻ gẫy đôi. Về chỗ lán tạm thì chiếc cầu con qua khe Chuối bị ngập, đường “tiếp tế” của đơn vị “Quyết Tiến” bị cắt đứt. Tối đó, nhiều anh em phải bơi qua mới có cơm ăn…
Tối 2/9, mình ghé lại C.753. Kỹ thuật viên ở đây là Võ Văn Tiu, quê Thanh Chương (Nghệ An) mới ra trường. Cậu ta đối xử với mình quá lễ phép, làm mình đâm ngượng. Mình nói điều gì cậu ta cũng “dạ”, rồi xưng “em” rất cung kính! Ở lán một tiểu đội (gọi tắt là “A”) gồm người Cảnh Dương và thị trấn Ba Đồn, các cô gái hầu hết trẻ măng, trắng trẻo, do ở quê không làm ruộng. Mặc trời mưa lầy lội, mặc trong đơn vị vừa có thương vong, anh chị em vẫn tụ tập diễn văn nghệ ngay trên sạp nằm yếu ớt, chật hẹp, không đủ chỗ cho dàn diễn viên múa, đầu cụng mái tranh. Tiết mục phong phú: Múa đưa bộ đội qua sông; nhạc cảnh đón Cụ Hồ về; vè “con cá”, ngâm thơ, hò Huế, hò Lệ Thủy và nhiều hơn cả là đồng ca. Hết bài này đến bài khác, không thể tính được. Cậu giáo viên mới biệt phái về cũng không thể ngồi yên, góp vui với bài thơ “Quê hương” của Giang Nam. Kỹ thuật viên Tiu nom nhút nhát, cũng hát ca ngợi quê hương xứ Nghệ… Không khí văn nghệ cuốn hút, khiến mình cũng “xung phong” lên hát liền hai bài “Tôi sẽ ca mãi đời anh” và “Bình Trị Thiên khói lửa”…
Sáng, trời nắng, ra xem hiện trường. Nước đã rút nhưng còn chảy mạnh. Xe ô tô đã trôi mất tăm và đống đất sụt càng thêm lớn. Tình hình bảo đảm giao thông sẽ rất khó khăn, trong khi yêu cầu thông xe gấp. Một đồng chí ở đơn vị pháo đóng tại Khe Hà đi lấy gạo đang lo anh em bị đói. Đồng chí S. trong Ban chỉ huy tuyến đến yêu cầu cho xe qua trong đêm vì có những mặt hàng rất khẩn cấp mà khối lượng công việc xem chừng phải 3-5 ngày nữa mới thông xe được. Khối đất sụt dọn xong đã khó, lại còn đá tu bổ đường ngầm sau khi bị lũ cuốn trôi. Các phương án phụ trợ vượt Ca Tang đề ra đã lâu, như mở bến phà và đường vận chuyển bằng dây cáp ở hạ lưu, vẫn chưa sử dụng được. Không lẽ bó tay?...
Trích Nhật ký ngày 7/9/1965:
Sau khi thông xe, gặp anh Lỏn, đại đội trưởng C.753, để hiểu cụ thể về tổ chức một đơn vị. Ghi lại vài con số: C.753 gồm 109 thanh niên ở 11 xã (trong đó 60 nữ, 3 đảng viên, 50 đoàn viên; độ tuổi 16-19 tuổi có 65 người, 20-29 tuổi có 37 người; 10 người đã có con, 8 cô đã có chồng, 2 người đã có vợ.)
Đơn vị có nhiều nữ, trẻ, chưa quen lao động, chịu khổ (dân Quảng Thuận làm nón, Ba Đồn buôn bán…), vừa tập trung đã có 4 đội viên đào ngũ. Hành quân đi bộ 6 ngày, gặp máy bay luôn, càng hoang mang. Đến nơi, chị em nữ khóc luôn. Một số trù tính kế hoạch đào ngũ…
Chi bộ, rồi chi đoàn thanh niên họp, bàn các biện pháp động viên tư tưởng như họp đồng hương, gợi nhắc lời dặn dò của địa phương, lời hứa lúc lên đường, theo dõi các A và từng cá nhân, kịp thời động viên qua buổi phát thanh hàng ngày, lập tổ văn nghệ trong các A, củng cố lán trại, vệ sinh sạch sẽ…Từ đó, không khí đơn vị dần thay đổi…
Nói chuyện với anh Lỏn, hiểu thêm lãnh đạo đơn vị đã tốn không ít công phu mới tạo nên được một đời sống tinh thần lạc quan như đêm văn nghệ hồn nhiên tràn đầy sức trẻ mừng ngày Quốc khánh 2/9. Hầu như đơn vị nào trên con đường này đều phải “công phu” như thế. Cũng là điều tất nhiên. Một cái cây còn non, đem bứng trồng sang một khu vườn chất đất khác, khí hậu khác, nếu không chăm bẵm tưới tắm, che chắn nắng gió ngày đêm thì rất dễ chết yểu, huống chi cả trăm ngàn con người như măng mới mọc, mỗi người một tính một nết, “bỗng chốc” phải rời xa lối sống quen thuộc, phải thay đổi tất cả và lập tức phải gánh vác công việc nặng nhọc, nguy hiểm dưới đạn bom lúc nào cũng có thể rơi xuống đầu mình. Và cũng như con đường quanh co uốn lượn qua núi cao, vực sâu, lúc bình yên đã rất dễ thương tổn mỗi khi mưa bão, nay oằn lưng dưới lưu lượng những đoàn xe pháo ngày một tăng, trong khi phải hứng chịu đủ loại bom đạn trút xuống ngày đêm, thì con đường thông rồi tắc và tắc rồi lại thông là chuyện bình thường…
tin tức liên quan