"Trường Sơn huyền thoại" - Chùm bài viết của Thiếu tướng Hoàng Kiền - Phần VIII (Tiếp theo)

Ngày đăng: 06:40 23/05/2020 Lượt xem: 527
-----------------------------------------------------------

Mãi còn trong trái tim tôi
Bao miền ký ức một thời Trường Sơn
 
Trân trọng giới thiệu một số phần chính về Trường Sơn - Con đường huyền thoại.
 
 
PHẦN VIII

HAI VỊ CHỈ HUY
(Tiếp theo)

TRUNG TƯỚNG ĐỒNG SỸ NGUYÊN
VỊ TƯ LỆNH TÀI BA CỦA BỘ ĐỘI TRƯỜNG SƠN

         Tôi vào Trường Sơn cuối năm 1970. Đầu năm 1971 rất vinh dự được tham gia đón Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên tại cơ quan Binh trạm 32. Ông có dáng người cao, đi ủng, đội mũ sắt. Thế là tôi được biết vị Tư lệnh của Trường Sơn huyền thoại từ đó. Vinh dự được nghe Thủ trưởng nói chuyện với cán bộ chiến sĩ cơ quan Binh trạm bộ, cứ thấy ông khịt khịt mũi, chắc do bị viêm xoang mũi. Ông chỉ đạo phát huy danh hiệu “Binh trạm vạn tấn”, cần đẩy mạnh vận chuyển vào chiến trường nhiều hơn nữa. Chuẩn bị đối phó với cuộc tiến công của Mỹ ngụy vào tuyến đường Trường Sơn dọc theo đường 9, Binh trạm 32 nghiên cứu chuẩn bị tuyến đường tránh phía Tây. Sau này chúng tôi mới biết cụ thể về cuộc hành quân Lam Sơn 719 của địch và Chiến dịch phản công Đường 9 Nam Lào của ta. Sau đó tiểu đội khảo sát chúng tôi thuộc Ban Công binh của Binh trạm được giao nhiệm vụ đi khảo sát đường tránh. Chiến dịch phản công đường 9 - Nam Lào giành chiến thắng vang dội, có vai trò rất lớn của Bộ đội Trường Sơn, của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên. Từ đó tôi ngày càng hiểu sâu hơn về vị Tư lệnh tài ba - Chim đại bàng của Trường Sơn huyền thoại.

ĐẠI BÀNG CỦA TRƯỜNG SƠN

         Đầu năm 1967, Đại tá Đồng Sỹ Nguyên – Phó Chủ nhiệm Tổng cụ Hậu cần kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Tiền phương nhận quyết định của Bộ Quốc phòng điều vào làm Tư lệnh Bộ Tư lệnh 559. Trên đường vào ông chú tâm kết hợp quan sát địa thế và cách đánh của địch ở các khu vực vượt khẩu, nên ông muốn đi xe ban ngày. Thật là chuyện lạ đối với cán bộ cao cấp. Người chỉ huy trạm giao thông không chịu. Ông phải thuyết phục mãi, đến mức phải nói, mình là Tư lệnh đi kiểm tra tuyến, ông mới được vượt qua trọng điểm lúc xế chiều. Đến Sở chỉ huy, ông tập trung nghiên cứu nguyên nhân không thành công của những năm trước. Ông rút ra những điều hết sức trăn trở: Thời tiết khô ráo ngắn mâu thuẫn với yêu cầu khối lượng chi viện ngày càng lớn; việc nắm địch quá chậm; cách tổ chức chỉ huy chưa ổn, thiếu thống nhất; đời sống bộ đội quá gian khổ, dịch bệnh uy hiếp khả năng duy trì sức chiến đấu lâu dài... Đặc biệt về tư tưởng chủ động tiến công giành thời cơ còn yếu....Sau khi cân nhắc kỹ mọi mặt, ông thuyết phục dời Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh vào khu vực trung tâm gần đường 9 (SCH Na Bo). Rồi ông trực tiếp thị sát các trọng điểm, đi ban ngày. Đây là một tác phong công tác đặc biệt của vị Tư lệnh Trường Sơn. (Đầu năm 1971 tại Binh Trạm 32 chúng tôi đón Tư lệnh vào ban ngày. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày Mở đường Hồ Chí Minh - Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn tổ chức vào ngày 18/5/2019, tại Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh, tôi gặp đồng chí lái xe cho Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên từ năm 1967 đến 1973. Đồng chí nói: Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đi kiểm tra tuyến bao giờ cũng đi ban ngày, đi ủng, đội mũ sắt ).
         Trên cơ sở đó ông chỉ đạo thí điểm đội hình vận tải tập trung, lợi dụng địa hình thời tiết sương mù, các khe suối cạn, tranh thủ cho xe chạy ban ngày, chạy lấn từng đoạn. Sau đó Tư lệnh phóng xe thị sát toàn tuyến, dự các buổi giao ban của các Binh trạm, Trung đoàn... Khi quay về, Tư lệnh rút ra một loạt vấn đề phải sửa gấp: "Trước hết phải trang bị thông tin hữu tuyến điện đến từng đơn vị, từng trạm chỉ huy xe trên đường, đến các trận địa phòng không đánh địch. Sở chỉ huy các cấp phải đứng giữa đội hình chiến đấu, cán bộ chỉ huy phải trực tiếp ở khâu trọng yếu. Các cấp phải chấp hành nghiêm qui định báo cáo hàng ngày, trực tiếp báo cáo và nhận lệnh. Công binh phải bố trí lực lượng túc trực chống phá hoại, cấp cứu xe và người. Khẩn trương hạ độ dốc, mở rộng "cua", làm nhẵn mặt đường. Các Binh trạm phải tổ chức đội hình vận tải tập trung đại đội, tiểu đoàn.... Các kho phải sửa chữa, cải tiến bảo đảm giải phóng xe nhanh đồng loạt....". Là một cán bộ hành động, có óc thực tiễn cao, ông đặc biệt coi trọng việc bảo đảm đời sống cho bộ đội. Ông chỉ thị cho Cục Hậu cần, Quân y phải trực tiếp hướng dẫn, kiểm tra việc bảo đảm ăn nghỉ trên đường, phòng bệnh, chống dịch hiệu quả.
         Các mặt cải cách được phân công kiểm tra, đôn đốc chặt chẽ. Sau bốn tháng vừa chấn chỉnh vừa thực hiện kế hoạch nhiệm vụ, các Binh trạm như guồng máy, tăng tốc nhịp nhàng trong dây chuyền khổng lồ của Trường Sơn. Kết thúc mùa khô (1966-1967), cả hai tuyến trước và tuyến sau đều hoàn thành vượt chỉ tiêu Bộ giao. Thắng lợi đầu tiên của Tuyến chi viện chiến lược làm nức lòng mọi người. Hết cái lo nặng nề kéo dài.
         Các chiến trường B đều gửi điện cảm ơn, chúc mừng, tỏ ý hy vọng năm tới còn vượt mức vao hơn. Các cơ quan Tổng cục, Bộ Quốc phòng nhiệt liệt biểu dương, hứa hẹn hỗ trợ cho BTL 559 phát huy thành tích. Các cơ quan nhà nước rất vui mừng, nhất là Ban Thống nhất Trung ương trực tiếp theo dõi việc chi viện nay đã hết lo. Đồng chí Trưởng ban thật phấn khởi, liền phái đoàn cán bộ vào tận nơi chào mừng, nắm khả năng thực thi của BTL559 trong mùa khô tới. Đặc biệt hơn nữa, Bác Hồ rất vui, tỏ lời khen ngợi. Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn quyết định biểu dương Đảng bộ 559 và toàn thể cán bộ chiến sĩ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Thư khen, nhấn mạnh điều cần suy ngẫm: "Cũng những phương tiện vũ khí ấy và những cán bộ, chiến sĩ ấy, mùa khô này Đoàn 559 đã hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ lớn hơn"…
         Tại hội nghị về công tác vận chuyển, cả hội trường nhìn lên tấm bản đồ lớn nghe Tư lệnh trình bầy. Những mũi tên đỏ ký hiệu xe vận tải lượn theo các trục giao thông ngang dọc như mạng nhện. Những mũi tên biểu hiện xuồng máy lượn theo những dòng sông quanh co. Tất cả lao xuống phía Nam, thọc sang phía Đông, rẽ về phía Tây. Hàng trăm ký hiệu trận địa cao xạ, chốt vây cứ điểm địch, trận địa giao thông băng qua "túi lửa". Bên phải, bên trái treo những sơ đồ thông tin, tuyến hành quân giao liên, hệ thống kho tàng, kèm theo chỉ số nhập xuất đi các chiến trường, đồ thị thời tiết mưa nắng các vùng, sơ đồ bố trí mạng quân y, tổ chức nuôi quân trận địa giao thông toàn tuyến....
         Tư lệnh Nguyên đưa đầu gậy trỏ vào bản đồ đến những trọng điểm, trình bầy mạch lạc, ngắn gọn từng vấn đề, kinh nghiệm với những kết luận sắc sảo...
          "...Không quân Mỹ đánh phá trọng điểm kết hợp săn đuổi xe trên toàn tuyến, dù rất xảo quyệt vẫn mang tính qui luật. Nó rất mạnh, giầu tiềm lực nhưng tự thân vẫn bộc lộ nhiều mâu thuẫn. Chúng tập trung tối đa ngăn chặn cửa khẩu thì giảm tối thiểu các vùng nội tuyến. Gia tăng đánh ngày thì bớt đánh đêm và ngược lại. Máy bay bay cao thì đánh phá không chính xác, hạ thấp thì dễ bị súng phòng không tiêu diệt. Các thiết bị điện tử tinh xảo là chỗ dựa tin cậy của không quân Mỹ, nhưng khi bị lừa vẫn hành động như kẻ vô tri... Đó là những nhược điểm của nó để ta lợi dụng khoét sâu, đánh bại ý đồ của địch..."
         Ông đưa ra một loạt vấn đề có tính nguyên tắc của Tuyến vận tải chiến lược: Phải tổ chức binh chủng hợp thành với bốn lực lượng: Vận tải - Giao thông - Bộ binh - Cao xạ ... Công tác bảo đảm cầu đường nhất định phải đi trước một bước... Cần định hình chiến thuật từng binh chủng trong chiến đấu hiệp đồng... Mở các chiến dịch vận tải tiến lên "Tổng công kích", dứt điểm các hướng chi viện... Hơn bất kỳ nơi nào, ở đây phải sáng tạo nhiều thủ thuật nghi trang lừa địch, thu hút chúng vào các mục tiêu giả. Vô cùng khâm phục những sáng tạo của bộ đội ta đã dùng nước tiểu, ánh đèn, hơi nóng, màn khói, cả máy ghi âm... để lừa địch, làm cho hệ thống điện tử tự động hoá của Hoa Kỳ trở nên phản tác dụng... Cuối cùng ông kết luận rất gọn: Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh, ta nhất định thắng. Mùa sau sẽ lớn hơn mùa trước!
         Tiếng hoan hô, vỗ tay rầm rầm. Các nhà báo tranh thủ ghi âm tốc ký, các ống kính lia theo các góc độ, bám theo Tư lệnh để phỏng vấn. Có lẽ lần đầu tiên họ hiểu đây là con đường huyền thoại.
        Có chuyên viên sử học nói: Được nghe và nhìn kỹ tấm bản đồ hoạt động của Tuyến 559, mới hình đung được nhịp độ chiến tranh và thấy rõ được triển vọng của cuộc kháng chiến ở Miền Nam...Ông này quả đích thực là vị Tư Lệnh của con đường mang tên Bác.
         Kết thúc Hội nghị, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên chủ trương diễn tập "Phương án chiến dịch vận tải". Cán bộ quân đội chẳng ai lạ việc diễn tập theo tình huống giả định. Đó là lấy thao trường làm chiến trường, còn đây là diễn tập trên chiến trường thật, ai cũng cảm thấy lạ. Các câu hỏi: Diễn tập thế nào?
         Tư lệnh Nguyên đáp: "Phải làm thực sự, lấy chiến trường làm thao trường". Lực lượng tham gia diễn tập gồm: Binh trạm 12, Binh trạm 9, Cơ quan BTL 559 và Tổng cục Hậu cần Tiền Phương. Đồng chí Tư lệnh và Chính uỷ làm chức trách Ban chỉ huy Binh trạm, các Binh trạm giữ cương vị phân trạm. Các cán bộ chỉ huy của Tuyến 559 và Tổng cục Hậu cần dự hội nghị làm phái viên chỉ đạo chiến dịch. Tiểu đoàn Thông tin triển khai ngay mạng hữu tuyến, vô tuyến, tiếp sức với các chốt chỉ huy. Mục đích chiến dịch "Tạo nguồn hàng tại bàn đạp vượt khẩu". Thời gian chiến dịch là 30 ngày (từ mùng 9/10/1967). Không gian chiến dịch dài 195 km, gồm các trọng điểm: Thanh Lạng, Khe Núng, Ka Tang, Khe Ve...Do các tiểu đoàn cao xạ phối thuộc làm nhiệm vụ phòng không chiến dịch bảo vệ.
         Đúng giờ "G", Tham mưu trưởng phát lệnh cho các "Binh chủng" vào vị trí xuất phát. Một không khí náo nhiệt chưa từng thấy, "tập" lại là "thật"(!). Đầu mùa khô, máy bay địch quần đảo trinh sát từ Hà Tĩnh vào Quảng Bình. Các trận địa bảo vệ trọng điểm buộc phải nổ súng hất địch lên cao. Các tiểu đoàn ô tô tranh thủ sáng có sương mù, chạy như cơn lốc vào địa điểm giao hàng; các đoàn xe chiến dịch nối nhau ùn ùn lao tới.
         "Chiến dịch diễn tập đạt hiệu quả không ngờ: Khối lượng hàng sẵn sàng "vượt khẩu" tương đương với chỉ tiêu chi viện cho B3, B4 cả năm. Đặc biệt là qua một tháng kết hợp "thao trường với chiến trường", đã chuyển biến hẳn phong cách chiến đấu, đưa các binh chủng vào "quỹ đạo hiệp đồng". Một cuộc diễn tập rất độc đáo của vị Tư lệnh Trường Sơn.
         Từ đây danh xưng Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn, Tư lệnh Đoàn vận tải quân sự Quang Trung lan rộng khắp nơi rồi tiếp tục gắn với nhiều danh hiệu khác.
         Năm 1968, khi địch đánh phá ngăn chặn ác liệt, không đưa được xăng dầu vào cho xe vận chuyển, ông đã báo cáo với Bộ Tổng Tư lệnh để triển khai hệ thống đường ống xăng dầu vượt Trường Sơn - một con đường "huyền thoại" trong huyền thoại Trường Sơn.
         Cũng từ năm 1967 hệ thống thông tin dây trần đã mở ra chạy dọc hai hướng Tây và Đông Trường Sơn, bảo đảm cho nhiệm vụ chỉ huy kịp thời, vững chắc, thông suốt. Đây cũng là một "huyền thoại" trong huyền thoại Trường Sơn.
         Năm 1971, để đối phó với máy bay AC.130 vô cùng nguy hiểm, ông đã đưa ra ý tưởng mở đường kín, còn gọi là đường "K". Nhờ có đường K đã "loại" được máy bay AC.130 cũng như các loại máy bay khác ra "khỏi vòng chiến đấu".
         Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, dưới sự chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương và Tổng Tư lệnh về làm đường cơ bản, Tư lệnh và Chính uỷ Trường Sơn chia hai hướng đi thi sát tuyến. Chính uỷ Đặng Tính đi tuyến hướng Tây, xe trúng mìn địch cài, đồng chí Đặng Tính và 5 đồng chí đi cùng hi sinh. Trọng trách đặt lên vai Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên. Ông đã chỉ đạo, tập huấn cho cán bộ chủ trì các đơn vị công binh từ cấp trung đoàn trở lên. Mặc dù không phải là kỹ sư cầu đường, nhưng khi được đọc bài giảng của ông, ai cũng thán phục. Nó vừa mang tầm chiến lược, chiến dịch vừa cụ thể về các mặt kỹ thuật biện pháp tổ chức thi công. Ông nói: Phải phát huy hiệu quả của mã lực như uy lực của xe tăng, hiệu quả của thuốc nổ như uy lực của pháo binh, cùng nhiều điều rất sâu sắc khác.
         Đường Trường Sơn đã được xây dựng cơ bản và đặc biệt là cải tạo nhánh phía Tây kịp thời bảo đảm vận chuyển chi viện cho cuộc Tổng tiến công đại thắng Mùa Xuân năm 1975, kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đi đến thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
         Gần 9 năm công tác trên chiến trường Trường Sơn, tài thao lược và nhân cách của Ông đã toả sáng để cùng với cán bộ, chiến sĩ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước, Quân đội giao phó, vận chuyển chi viện sức người, sức của cho cách mạng Miền Nam và giúp đỡ cách mạng hai nước bạn Lào và Campuchia.

MỘT SÁNG TẠO ĐẶC BIỆT VỀ TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG

         Về tổ chức phát triển lực lượng và tăng cường trang bị kỹ thuật trong chiến đấu binh chủng hợp thành trên chiến trường Trường Sơn do Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên nghiên cứu đề xuất. Đây là một trong những sáng tạo độc đáo; mô hình tổ chức lực lượng và phương thức hoạt động này chưa hề có trong vận tải chi viện chiến lược ở Việt Nam.
         Tư tưởng chỉ đạo của ông là sử dụng sức mạnh binh chủng hợp thành trên toàn chiến trường, đặt dưới sự chỉ huy thống nhất vào một Bộ Tư lệnh. Coi trọng hệ thống chỉ huy, các Tham mưu trưởng: Tham mưu trưởng Tác chiến; Tham mưu trưởng Vận tải, Tham mưu trưởng Phòng không... Chỉ huy sở làm việc 24/24 giờ với thông tin liên lạc thông suốt.
         Việc xây dựng mô hình tổ chức lực lượng qua các giai đoạn như Binh trạm, Trung đoàn binh chủng, Sư đoàn khu vực, Sư đoàn binh chủng phát triển theo yêu cầu nhiệm vụ. Đặc biệt là tháng 4/1973, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đề nghị Bộ cho thành lập 2 Sư đoàn ô tô vận tải và 6 trung đoàn độc lập, 4 Sư đoàn công binh và 2 trung đoàn cầu, 1 Sư đoàn phòng không và 6 trung đoàn độc lập, 1 Sư đoàn bộ binh và 2 trung đoàn độc lập, tiếp nhận 1 Sư đoàn phòng không phối thuộc, bỏ hình thức giao liên bộ chuyển thành hai trung đoàn giao liên cơ giới. Lúc này toàn chiến trường có trên 10 vạn quân, 8 sư đoàn, 21 trung đoàn binh chủng độc lập trực thuộc và 1 Sư đoàn phối thuộc của Bộ. Đây là một sáng tạo đặc biệt của Bộ đội Trường Sơn xuất phát từ ý tưởng của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên.

         TRƯỜNG SƠN là một chiến trường. Nơi đây đã diễn ra cuộc chiến ngăn chặn của không quân Mỹ với qui mô và mức độ ác liệt nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên với bản lĩnh, trí tuệ và tài năng, ông đã chỉ huy các lực lượng của BTL Trường Sơn chống ngăn chặn, đánh bại cuộc chiến tranh ngăn chặn của không quân Mỹ trên đường đường Trường Sơn, lập nên những chiến công huyền thoại.
Đảng, Nhà nước, Quân đội đã đánh giá đúng tài năng, bản lĩnh, nhân cách, những cống hiến của ông. Năm 1974, ông xứng đáng được thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.

CHÂN DUNG MỘT CON NGƯỜI
         Đồng Sỹ Nguyên tên thật là Nguyễn Hữu Vũ, sinh năm 1923, tại xã Quảng Trung, phủ Quảng Trạch, Quảng Bình. Ông xuất thân trong một gia đình trung lưu. Song thân ông là ông Nguyễn Hữu Khoán và bà Đặng Thị Cấp, đều là những hậu duệ của thủ lĩnh Phong trào Cần Vương. Ông là con thứ 5 trong gia đình. Cha ông mất sớm khi ông mới 10 tuổi.
         Thuở nhỏ, ông được cha dạy chữ Hán và theo học chữ Quốc ngữ bậc tiểu học tại Thọ Linh (nay thuộc xã Quảng Sơn, huyện Quảng Trạch). Chịu ảnh hưởng của gia đình, ông sớm đã có tinh thần chống thực dân Pháp. Năm 12 tuổi, ông bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1938, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, lấy bí danh là Nguyễn Văn Đồng.
         Năm 1940, ông được cử làm Bí thư chi bộ Trung Thôn. Cùng năm này, ông theo học bậc trung học tại trường Saint Marie ở thị xã Đồng Hới. Một năm sau, ông được phân công làm Bí thư chi bộ tại trường. Những hoạt động của ông sớm bị chính quyền thực dân theo dõi. Vì vậy, khi đang học năm thứ 3 bậc Thành chung, ông bị thực dân Pháp truy nã và phải chuyển vào hoạt động bí mật tại Lào và Thái Lan, hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước để gây dựng cơ sở.
         Năm 1944, ông bí mật trở về Việt Nam hoạt động, phụ trách Phủ ủy Quảng Trạch, làm Chủ nhiệm báo Hồng Lạc và xây dựng chiến khu Trung Thuần, huấn luyện quân sự, tham gia Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng tháng 8, ông được bầu làm Chủ nhiệm Việt Minh, kiêm Chỉ huy trưởng bộ đội Quảng Bình. Năm 1946, ông trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I.

         Kháng chiến chống Pháp nổ ra, ông được phân công làm Chính trị viên kiêm Tỉnh đội trưởng Quảng Bình. Trong thời gian 1947-1948, ông chỉ huy nhiều trận tấn công quân Pháp. Vì vậy, để tránh liên lụy đến gia đình, ông dùng tên mới là Đồng Sĩ Nguyên - cái tên về sau gắn bó với ông trong cuộc đời còn lại.
         Năm 1950, ông được rút về Việt Bắc học lớp Trung cao quân sự, sau đó được điều về Tổng cục Chính trị làm Phái viên, biệt phái tham gia Bộ Tư lệnh cánh phối hợp Trung Hạ Lào trong chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954.
         Sau năm 1954, ông được điều về Bộ Tổng Tham mưu, phụ trách Cục Động viên dân quân. Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại tá. Năm 1961, ông được cử sang Trung Quốc học trường Cao cấp Quân sự Bắc Kinh. Năm 1964, ông về nước và được đề bạt giữ chức vụ Tổng Tham mưu phó một thời gian ngắn, sau đó được điều về làm Chính ủy Quân khu 4 năm 1965. Sau đó là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Trung - Hạ Lào.
         Cuối năm 1965, ông bị thương, phải về Hà Nội điều trị. Đầu năm 1966, ông được cử giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, kiêm Chủ nhiệm Hậu cần Tiền phương, dưới quyền ông Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục.
         Đầu năm 1967, ông được điều làm Tư lệnh Bộ Tư lệnh 559, thay Đại tá Hoàng Văn Thái. Ông giữ chức vụ này đến năm 1976. Năm 1974, ông được phong vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.
         Năm 1976, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Quốc phòng, phụ trách Tổng cục Xây dựng Kinh tế, rồi Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải. Năm 1979, ông được điều trở lại quân đội, giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Thủ đô.
         Ông là Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV.
         Từ năm 1982, ông làm Bộ trưởng Giao thông Vận tải, được bầu làm Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị khóa V, Ủy viên Chính thức Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI (1986-1991), Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
         Sau khi thôi chức Bộ trưởng và Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông được giao nhiệm vụ Đặc phái viên Chính phủ, Đặc trách Chương trình 327 về bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Sau đó là Cố vấn Đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ, tham gia Ban Chỉ đạo Nhà nước về xây dựng đại lộ Hồ Chí Minh (Quốc lộ Trường Sơn).
         Đồng Sĩ Nguyên là một trong những người có vai trò quan trọng trong việc xây dựng Đường mòn Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đưa con đường vận tải chiến lược này thành một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước..
         Vào thời bình, nhu cầu của một con đường Trường Sơn mới - trục xương sống của Việt Nam được đặt ra. Và trong quá trình xây dựng Đường Hồ Chí Minh hay Đường Trường Sơn, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên được Thủ tướng Võ Văn Kiệt xem là người thích hợp nhất để giao nhiệm vụ đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xây dựng tuyến đường này.
         Do có nhiều công lao và thành tích xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều Huân, Huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
         Hội Truyền thống Trường Sơn- Đường Hồ Chí Minh Việt Nam đã đề nghị nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho Ông, nhưng do qui định của Ban Bí thư TW Đảng là đã được thưởng Huân chương Sao Vàng thì không tặng danh hiệu Anh hùng nữa.

XÂY DỰNG NGHĨA TRANG TRƯỜNG SƠN
ÔNG SẼ VỀ VỚI ĐỒNG ĐỘI TRƯỜNG SƠN

        Ngay sau khi Hiệp định Pa Ri được kí kết, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đã chỉ đạo việc qui tập mộ liệt sĩ Trường Sơn về một nghĩa trang. Các đội qui tập mộ liệt sĩ được thành lập triển khai ngay ở các binh trạm, trung đoàn, sư đoàn. Hơn 20 nghìn người đã ngã xuống trên chiến trường Trường Sơn, đến nay đã qui tập về nghĩa trang Trường Sơn được 10.263 người. Nghĩa trang đã được xây dựng và hai lần nâng cấp cải tạo hoàn chỉnh.

         Năm 2015, tôi đi qua Quảng Trị, ghé thăm Công ty xây dựng 384 đóng tại Đông Hà. Tôi được Ban Giám đốc Công ty thông báo Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên mới vào thăm đơn vị và Nghĩa trang Trường Sơn. Ban Giám đốc Công ty đưa Ông đi thăm nghĩa trang, Ông nói sau này khi về cõi vĩnh hằng sẽ xin về đây yên nghỉ cùng với đồng đội một thời nơi Trường Sơn rực lửa. Ông đã chọn vị trí nơi yên nghỉ cuối cùng cho mình, cũng là một ý nguyện ban đầu, sau này Ông thay đổi ý định.

TƯ LỆNH BỘ TƯ LỆNH CÔNG TRÌNH

         Năm 2014 khi được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh binh chủng Công binh, tôi đến thăm Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên đang nằm điều trị tại BV108. Tôi báo cáo với Ông là BTL công binh từ khi anh Đặng Văn Phúc làm Tư lệnh đã tiến hành viết Lịch sử Công binh Trường Sơn, đến nay chúng tôi cho in và kính tặng Trung tướng - nguyên Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn. Ông rất vui và ngồi nói chuyện về công binh.
         Ông nói:
         Sau năm 1975, nhiệm vụ của Bô đội Trường Sơn kết thúc, lúc đó Bộ quyết định sáp nhập hai lực lượng của Binh chủng Công binh và Trường Sơn thành Bô Tư lệnh Công trình và bổ nhiệm tôi làm Tư lệnh. Sau đó lại thôi không thực hiện nữa.
         Công binh Trường Sơn có tới 4 Sư đoàn và một số trung đoàn trực thuộc. Vẫn lấy BTL Công binh là nơi để anh em đi về gặp mặt, hội họp. Các đồng chí cần quan tâm giúp đỡ anh em.
         Tôi báo cáo với thủ trưởng, BTL Công binh đã biết việc sáp nhập và Thủ trưởng về làm Tư lệnh BTL Công trình không rõ vì sao lại thôi. Sau đó mới thành lập Tổng cục Xây dựng Kinh tế, rồi thành lập Binh đoàn 12. Về các đơn vị Công binh Trường Sơn khi có nhu cầu về Binh chủng, BTL Công binh sẽ hết sức tạo điều kiện.
Trung tướng rất hài lòng và phấn khởi. Ông luôn quan tâm đến mọi đơn vị cấp dưới của mình.

THÀNH LẬP HỘI TRUYỀN THỐNG TRƯỜNG SƠN - ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH VIỆT NAM

         Năm 2011 khi đang làm Giám đốc Ban quản lý Dự án (BQLDA) Đường tuần tra biên giới của Bộ Quốc phòng tôi được mời dự Đại hội thành lập Hội Truyền thống Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh Việt Nam (Hội Trường Sơn Việt Nam). Ban Tổ chức bố trí ngồi cạnh Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, được nghe Ông nói rất nhiều về việc thành lập Hội Trường Sơn. Trải qua 16 năm hoạt động, Bộ đội Trường Sơn đã lập nên những chiến công huyền thoại. Tuy vậy sự mất mát hy sinh là rất lớn. Hơn hai mươi nghìn người ngã xuống. Còn gần mười ba nghìn người chưa tìm được hài cốt; hàng chục nghìn người bị thương, nhiễm chất độc da cam. Nhiều người về đời thường hoàn cảnh rất khó khăn nhất là các chiến sĩ nữ Trường Sơn. Tôi đã trao đổi với anh Võ Sở, anh Hoàng Anh Tuấn và một số anh em là nên thành lập Hội Trường Sơn Việt Nam để tiếp tục phát huy truyền thống Anh hùng của Trường Sơn và làm việc tình nghĩa giúp nhau. Tôi đã có ý kiến với Thủ tướng và các Bộ có liên quan ủng hộ. Sau này khi đồng chí nghỉ hưu cố gắng tham gia với anh em. Sau đó nghe Trung tướng phát biểu thật cảm động. Đại hội suy tôn Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên là Chủ tịch Danh dự của Hội. Ông nói: Đây là Hội xã hội, không ai cho tiền đâu. Anh em động viên nhau đóng góp mà hoạt động thôi. Trước mắt cần có kinh phí để hoạt động đã, sau mới đến vận động làm việc tình nghĩa. Mỗi năm Ông trích 1 tháng lương ủng hộ Hội để hoạt động. Nghe lời phát biểu của Thủ trưởng thật thắm đậm tình nghĩa Trường Sơn. Ai cũng cảm động.
Tôi viết ngay tại chỗ một bài thơ ra giấy kính tặng Thủ trưởng.

ĐẠI BÀNG TRƯỜNG SƠN

Đường Trường Sơn bản hùng ca
Đưa cả dân tộc ta ra chiến trường
Hy sinh gian khổ máu xương
Kết tinh tài trí phi thường, nấu nung.

Mang theo khí phách Anh hùng
Mở ra đánh Mỹ sáng bừng núi sông
Đông Dương đoàn kết một lòng
Lịch sử nhân loại chỉ con đường này.

Tám năm nhiệt huyết hăng say
Đại bàng vươn cánh tung bay mọi miền
Gương Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên
Tài năng, nhân cách sáng ngời Trường Sơn.

         Đọc xong Thủ trưởng rất vui bắt tay tôi nồng ấm. Ông nói hôm sau tôi sẽ tặng đồng chí một cuốn sách ảnh. Ngày 19/5/2015, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên ký tặng Thiếu tướng Hoàng Kiền quyển sách ĐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINH - CON ĐƯỜNG HUYỀN THOẠI.
         Ông đưa cho con rể là anh Trần Văn - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài Chính - Ngân sách của Quốc hội nhân dịp về thăm Bảo tàng Đồng Quê tặng tôi. Trung tướng có lời ghi: “Thân mến tặng Thiếu tướng Hoàng Kiền” cùng chữ ký của Thủ trưởng. Thật trân trọng tình cảm của Thủ trưởng. Tôi đã đặt cuốn sách trang trọng trong Bảo tàng Đồng Quê nơi trưng bầy hiện vật “Xẻ Dọc Trường Sơn Đi Cứu Nước” mà tôi có gần 6 năm gắn bó với con đường mang tên Bác, do Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên chỉ huy.

NHỮNG LẦN ĐẾN THĂM
         Từ khi tham gia Hội Trường Sơn Việt Nam, với cương vị Phó Chủ tịch, năm nào chúng tôi cũng đến thăm chúc Tết Trung tướng - Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên. Tuổi cao nhưng Thủ trưởng vẫn minh mẫn, luôn quan tâm đến các hoạt động của Hội Trường Sơn và chỉ đạo những vấn đề rất cụ thể và sâu sắc, nhất là việc xây dựng các công trình di tích trên đường Trường Sơn. Thật kính trọng tấm lòng, tài năng và nhân cách sáng ngời của vị Tư lệnh Trường Sơn Anh hùng

         Do lâm bệnh nặng và tuổi cao sức yếu, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên từ trần vào hồi 11 giờ 42 phút ngày 4 tháng 4 năm 2019 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Lễ tang được tổ chức vào ngày 10 tháng 4 năm 2019 với nghi thức lễ tang cấp Nhà nước, sau đó an táng cùng ngày tại Nghĩa trang Công viên Vĩnh Hằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
         Vô cùng thương tiếc Tư lệnh của Trường Sơn Huyền thoại và Anh hùng, của Quân đội, của Đất nước.

 

TRUNG TƯỚNG ĐỒNG SỸ NGUYÊN
CÁNH ĐẠI BÀNG TRƯỜNG SƠN

Trường Sơn bom đạn như mưa
Ai chưa đến đó thì chưa tỏ tường
Mỹ - ngụy đánh phá điên cuồng
Mưu toan ngăn chặn con đường vào Nam

Muôn ngàn ngàn gian khổ nguy nan
Bản lĩnh, Trí tuệ, Quyết tâm phi thường
Dốc lòng chi viện tiền phương
Quân dân ba nước kiên cường đấu tranh

Tự do, độc lập quyết giành
Con đường chiến lược vươn nhanh mọi miền
Thế, lực phát triển vượt lên
Hiệp đồng binh chủng trung kiên một lòng

Bộ đội, Thanh niên xung phong
Dân công hỏa tuyến tâm hồng xông pha
Mạng đường ngang dọc vươn xa
Đưa cả dân tộc ta ra chiến trường

Con đường đậm dấu mốc son
Mở ra đánh Mỹ vẹn tròn chiến công
Bừng lên tỏa sáng non sông
Lịch sử nhân loại chỉ con đường này

Trải qua gần sáu nghìn ngày
Máu xương đổ xuống thấm dầy, lệ rơi
Nỗi đau cả triệu con người
Cùng hơn hai vạn mạng người hi sinh

Nước nhà thống nhất hoà bình
Trường Sơn huyền thoại quang vinh tự hào
Đường mang tên Bác đẹp sao
Muôn đời tạc sử in vào Trường Sơn

Gương Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên
Tám năm nhiệt huyết mọi miền hăng say
Đại bàng vươn cánh tung bay
Tài năng, nhân cách đắp xây cùng Đường

Hôm nay ngày thật đau thương
Vị Tư lệnh của chiến trường đi xa
Cây đại thụ ẩn khuất xa
Muôn vàn thương tiếc xót xa cõi lòng

Mặt trời vẫn mọc đàng đông
Tiếng thơm thơm mãi đọng trong lòng người
Tấm gương tỏa sáng đời đời
Tên Ông lưu mãi đất trời Trường Sơn

Hà Nội ngày 10/4/2019

Thiếu tướng Hoàng Kiền
( còn nữa )

tin tức liên quan