Chín ngày phép - Truyện ký: Pham Huy Liệu

Ngày đăng: 05:11 16/10/2025 Lượt xem: 9
CHÍN NGÀY PHÉP
                                                                                                                                                 Truyện Ký

          Cuối tháng 9/1967. Tôi được về thăm gia đình. Đơn vị đóng quân tại Cửa Hới huyện Hoằng Hoá Thanh Hoá. Bảo vệ pháo bờ biển. Do có thành tích phục vụ chiến đấu xuất sắc…
          Khoảng 5 giờ tôi theo xe tiểu đoàn bộ, là Gas51 của Liên Xô sản xuất, do anh Thuấn lái. Vì trên ca bin đã có cán bộ đi nhận khí tài, nên tôi leo lên thùng xe ngồi. Khi đến con sông phải đi qua bằng phà nhỏ. Xe từ từ lên phà thì bị tuột dây cáp buộc, mà hai bánh sau chưa lên phà. Thế là tụt xuống sông đẩy phà ra xa…
          Vậy là tiến thoái lưỡng nan. Lên phà không được. Mà lùi lên bờ cũng không xong. Chỉ còn cách duy nhất là về đơn vị báo cáo, cho xe đến kéo ngược lại để lên bờ… Chắc mất nhiều thời gian. Đành cuốc bộ về đơn vị, với quãng đường hơn chục cây số.
          Sáng hôm sau lại đi bộ từ đơn vị, trở lại xe; vì xe đêm qua đã kéo lên, vội ra Quân khu 3. Đi bộ từ Quân khu 3 ở Kim Bôi Hoà Bình về Hà Nội cũng không gần được là bao. Khi đến bến phà lúc đó vắng khách, phải chờ khá lâu. Vì thời chiến ít người đi lại. Đến trưa thì đến cầu Lèn Hà Trung. Nơi đây là địa bàn chiến đấu của tiểu đoàn pháo cao xạ 37 ly của chúng tôi. Nhìn quanh xơ xác hoang tàn. Những hố bom chồng chất loang lổ hai bên đầu cầu. Mới thấy sự ác liệt, nơi quan trọng thứ hai của Thanh Hoá, sau Hàm Rồng!
         (Bỗng tôi lại nhớ tới trận chiến tàn khốc  của lính cao xạ trận 4/4/1967… (Ngày 3/4 ta bắn rơi hai máy bay. Mà vẫn bảo vệ được nguyên vẹn cây cầu).
       Sang ngày 4/4 Mỹ thay đổi chiến thuật. Chúng tăng cường số lương máy bay. Cho bổ nhào tấn công ta từ mọi hướng. Pháo quay nòng về hướng nào cũng có máy bay. Chủ yếu nó nhắm vào các trận địa pháo ta giội bom, phóng rốc két, tên lửa. Bay với độ cao 4 km, quá tầm khống chế của pháo 37 ly. Tập trung đánh vào đại đội pháo 57 ly D1 chúng tôi và đại đội 100 ly của Bộ Quốc phòng vào tăng cường cho cầu Lèn ngày hôm qua.
       Từ trên sườn núi, cách cầu khoảng 1km, qua một cánh đồng, tôi quan sát. Nhìn rõ từng tốp, từng tốp… máy bay oanh tạc các trận địa pháo ta cùng một lúc, theo mọi hướng. Đồng thời cũng nhìn rõ ánh chớp đầu nòng của pháo ta bắn trả mãnh liệt từ các trận địa đang mù mịt khói bom. Vì vậy các đơn vị không thể hỗ trợ bảo vệ cho nhau được. Mà trong lòng tôi trào dâng cảm xúc, càng thương các đồng đội. Như một thước phim sống diễn ra liên tục suốt ngày 4/4/1967… Sau trận này D1 cao xạ không còn đại đội pháo 57 ly nữa. Chỉ còn 3 đại đội 37 ly thôi!… Có lẽ đó cũng là trận chiến tàn khốc và thảm hại nhất của lính cao xạ quân đội ta với không lực Hoa Kỳ, trong cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân Mỹ trên miền Bắc)…
          Nhìn cây cầu bị bom Mỹ đánh sập. Nhịp cầu mảnh bom xé toạc, gẫy gập. Một đầu cắm xuống sông. Mới thấy sức tàn phá của các loại bom, tên lửa, rốc két Mỹ khủng khiếp đến nhường nào…
          Còn cầu phao. Nhưng ban ngày cũng di chuyển đến nơi cất giấu. Chỉ còn thuyền, nhưng phải chờ qua giờ cao điểm, vì hay bị đánh phá. Chỉ còn cách tự bơi qua sông. Tôi cho ba lô vào mảnh áo mưa buộc lại làm phao bơi là tiện lợi nhất. Liền đi ngược lên một đoạn, nơi nước chẩy thẳng không có xoáy nước để bơi…
          Thế là tôi thả mình xuống dòng sông. Để ý thấy không có máy bay quần đảo. Tranh thủ bơi vượt sông ngay. Dòng sông mùa này nước còn chẩy khá mạnh. Nên sang đến bờ Bắc bị trôi xuống đến mấy chục mét mới tới bờ… Sau khi lên, lấy quần áo dài mặc chùm lên quần đùi đang ướt để đi. Vì tôi nghĩ, chỉ đi một lúc là khô thôi…
          Qua cầu Lèn khoảng hơn một cây số, ngay bên phải đường là đền bà Triệu. Nằm ngay trên những ngọn đồi thấp. Dưới tán rừng cây xanh um. Trông thấy đấy, nhưng đang tranh thủ về nên vội vã đi luôn. Quyết phấn đấu đến thị xã Ninh Bình trước khi trời tối. Đi hơn chục cây số, thì thấy lác đác nhà dân hai bên đường. Đoán là Bỉm Sơn, nhưng cũng vắng vẻ lắm. Rồi qua dốc Xây. Bên kia dốc là địa phận của tỉnh Ninh Bình. Nơi đây toàn rừng núi hoang vu, cây cối xanh rì, càng vắng vẻ. Nhìn sâu vào chân núi mới thấy vài nhà ẩn hiện xa xa.
          Đến thị xã Ninh Bình. Nhìn đỉnh núi có chùa Non Nước. Chính trên chùa, anh hùng quân đội Giáp Văn Khương bị quân Pháp bao vây. Không còn đường thoát. Đã nhẩy từ trên đỉnh núi, xuống sông. Bọn lính tưởng anh đã chết. Nhưng anh vẫn ẩn nơi vách núi dưới sông. Đợi chúng đi hết, rồi bơi trở về đơn vị. Một hành động quá mạo hiểm và cũng hết đỗi anh hùng! Giờ ngó lên thấy cây cối rậm rạp che khuất, nên chả nhìn thấy gì.
           Vào thị xã hỏi bến xe, nay đã rời đi đâu… Thì một bà mẹ nhà gần đường bảo:
       Thị xã dạo này luôn bị máy bay đánh phá, nên chuyển đi cách đây mấy cây số. Nhưng giờ muộn rồi không còn xe nữa đâu…
           Tôi cám ơn mẹ. Rồi mạnh dạn hỏi:
           - Nhà mẹ có chỗ nghỉ không… Cho con ngủ nhờ một đêm, sáng mai đi. Mẹ nói:
       - Con vào nhà mẹ nghỉ tạm. Chờ sáng mai đi cho tiện.
       Tôi vào nhà thấy không có ai liền hỏi:
       - Mẹ ở có một mình à. Thế mọi người đi đâu hết cả rồi hả mẹ?… Mẹ bảo:
       - Cả nhà đi sơ tán hết. Mẹ chiều nay qua nhà cầm mấy thứ đem lên chỗ sơ tán dùng. Sáng mai lai lên trên đó…
       Tôi cám ơn mẹ! Rồi rửa ráy cho sạch sẽ lên giường nằm cho lại sức, để sáng mai đi tiếp. Vì nếu chờ ô tô, tối mai về Đồng Văn được mấy chục cây số, nhưng lại mất một ngày phép nữa. Mà chưa chắc đã có vé để lên xe…
       Vì đi bộ mấy chục cây số từ cửa Hới đến Ninh bình cũng khá mệt rồi. Nên nằm một chút đã chìm vào giấc ngủ ngon lành. Mờ sáng mẹ đã dậy gói ghém đồ đạc để lên nơi sơ tán. Vì sợ máy bay Mỹ chúng hay đánh sớm. Tôi cám chào mẹ, rồi đeo ba lô ra đường đi tiếp ngày phép thứ hai. Phải phấn đấu về qua Đồng Văn đến Lý Nhân, xa quốc lộ Một nghỉ cho an toàn.
       Đi trên đường buổi sáng nhưng thấy vắng tanh. Thỉnh thoảng lại có những hố bom gần đường nơi có trận địa pháo cao xạ của ta…
         Gần trưa thấy đói bụng rồi, mà chẳng có quán bán hàng nào để mua thứ gì ăn cho ấm bụng. May thấy mấy người từ trong làng đi ra tôi vội hỏi:
       - Các bác có biết nơi nào có quán bán thứ gì để ăn cho đỡ đói không ạ!.. Một bác đứng tuổi nói:
       - Dạo này máy bay Mỹ nó hay đánh phá. Nên hàng quán dọc đường không ai dám ra bán hàng. Chỉ rẽ vào làng gần đường, nhưng xa trọng điểm đánh phá, mới có người bán hàng. Tôi cám ơn rồi đi tiếp…
       Đến quá chiều đến Lý Nhân. Nơi đây tôi đã học lớp báo vụ của QK3, nên khá thành thạo địa hình từng xã ven đường. Vì khi ở đơn vị thứ bẩy tuần nào cũng phải tập hành quân rèn luyện trên dưới 30 km. Qua các xã xung quanh Lý Nhân đến ba bốn lần, nên đến nơi nào là rõ ngay… Tôi vào nhà dân xin nghỉ nhờ để đến sáng mai đi ra đò Yên Lệnh. Bên kia đò là Hưng Yên. Còn cách trên 30 km nữa là đến nhà thôi. Sắp được gặp bố mẹ, và em út, cùng họ hàng, làng xóm, thì vui biết bao!       Sáng ngủ dậy sớm. Chào cám ơn bác chủ nhà, sốc ba lô đi nhanh ra bến đò. Nhìn sông Hồng to rộng mênh mông. Mà thấy lòng chộn rộn khó tả. Lần đầu trong đời mới được đi đò qua sông lớn, nước sông mùa thu đã trong, mới cảm thấy thích thú làm sao.
          Khi đò đủ người thì xuất phát. Tôi ngồi bên mạn thuyền thò tay xuống dòng sông mát lạnh, lòng trào dâng bao cảm xúc khó tả. Nó cứ lâng lâng thế nào ấy. Lại xen lẫn niềm vui, sắp về nhà sau ba năm khoác áo lính, chiến đấu dọc đất Thanh Hoá như Hàm Rồng, cầu Lèn, cầu Tào, phà Ghép, Sầm Sơn…
       Chỉ một loáng mải suy tư, đò đã cập bến. Mọi người lần lượt lên đò. Đây giáp thị xã Hưng Yên, mà lần đầu tôi đặt chân đến. Nhìn hai bên đường, thấy rất nhiều nhãn. Cây cổ thụ đến hàng trăm năm tuổi, cành lá sum suê, trông mà sướng mắt. Nhưng niềm vui sắp về nhà lớn hơn, nên chỉ chăm chú đi sao cho thật nhanh thôi. Chả còn tâm trạng đâu mà ngắm cảnh nữa.
       Giữa trưa thì tôi về đến nhà. Lúc này đang giờ nghỉ nên vắng tanh. Nhà tôi ở ngoài đồng. Mới lập xóm được mấy năm, (từ 1960 đến 1967). Nên chỉ có vài chục nóc nhà của hai thôn Hầu Bổng làng tôi và phía đông là làng Đông Hào cùng chung sống. Gọi là xóm Trạm. Nơi đây có ngã tư Trạm Bóng. (Tôi chợt nhớ một lần cậu cháu ngồi chơi nói chuyện), ông Vũ Thanh hỏi tôi:
       Cháu có biết tại sao lại gọi đây là Trạm Bóng không? Tôi lắc đầu trả lời:
       - Cháu không biết. Ông cười bảo:
       Đây cách Hà Nội 50 km, theo đường chim bay. Thời đó chưa có đường như ngày nay. Mà lệnh vua là quan trọng. Mọi truyền đạt đều do người chạy bộ từ Hà Nội xuống các tỉnh. Thời đó gọi là phủ. Hải Dương ta gọi là phủ Hạ Hồng. Khi người lính chạy bộ từ Hà Nội xuống đã mệt. Vào giao công văn cho người trực ở Trạm Bóng chạy tiếp đến nơi nhận như Hải phòng chẳng hạn… Vì vậy mà ngã tư có tên là “Trạm”. Còn Bóng là tên chữ của làng Hậu Bổng, nằm trên địa bàn của làng Bóng… Nên ở địa phương nào có địa danh “Trạm”. Chính là các trạm liên lạc của lính nhà vua chạy bộ đến giao công văn khẩn vua gửi đi!… (Ông Vũ Thanh là cậu, trưởng đoàn chèo Hải Phòng, sau về hưu được công nhận là cán bộ Tiền Khởi Nghĩa)       
          Tôi vào đến sân thì thấy mẹ đang băm rau lợn ở trong bếp. (Mà quê tôi gọi mẹ bằng bu). Mẹ ôm thấy tôi mà nước mắt cứ giàn giụa. Vì mẹ biết tôi đóng quân qua thư ở Thanh Hoá, Hàm Rồng ác liệt mà. Nhìn mẹ vẫn nhỏ thó nhưng hơi gầy. Vì tôi và anh trai đều trong quân ngũ, em Thiếu cũng đi học trung cấp địa chất. Chỉ còn em út 14 tuổi ở nhà với bố mẹ, giờ không có chúng tôi ở nhà đỡ đần như khi chưa đi bộ đội…
       May sao hôm sau có anh rể là Nguyễn Minh Hoạ, đóng quân ở Tràng Bạch, Đông Triều, Quảng Ninh. Tranh thủ nghỉ chủ nhật thăm nhà. Anh em ôm nhau mừng rỡ!… Anh hỏi thăm tôi:
      - Cậu chiến đấu ở Hàm Rồng thế nào?… Có ác liệt lắm không. Tôi trả lời:
       - Những ngày đầu em nghe thằng F105, thần sấm của không quân Mỹ, nó quần đảo, rồi gầm rú cũng hơi chột dạ. Giờ thì quen rồi… Tôi hỏi anh:
        - Giờ anh ở đơn vị làm gì… Thì anh bảo:
       - Anh là quản lý của đại đội thuộc đơn vị đặc công nước. Đang huấn luyện, chuẩn bị đi B.
       Trưa hôm sau anh cùng tôi đi lên ao chợ Bóng cũ, để lấy rêu tóc tiên cho mẹ tôi và chị gái, vợ anh để dành nuôi lợn. Vì mấy ao ở ngoài đồng nên gọi là chuôm. Nhưng khá sâu. Muốn lấy phải lặn xuống. Túm cây rêu tóc tiên như túm cây mạ nhổ cả rễ lên, rũ sạch bùn, vứt lên bờ. Lúc đầu ở gần bờ lấy dễ dàng hơn. Sau phải ra xa, có chỗ sâu gần hai mét. Phải lấy hơi thật tốt, nhanh nhẹn, khẩn trương, mới nhổ được nhiều rêu hơn. Khoảng 2 giờ ngụp lặn liên tục, hai anh em cũng được mỗi người một gánh. Thế là có rau dự trữ cho lợn ăn cả tuần rồi…
       Hai anh em bơi ra giữa chuôm tắm rửa cho sạch sẽ xong gánh về. Chiều anh lại đạp xe đạp về đơn vị, cách nhà gần 40 km. Tôi được nghỉ một ngày nữa. Nhưng chỉ quẩn quanh ở nhà. Vì bạn bè cùng học đều đi cả. Chủ yếu vào bộ đội. Số rất ít đi học trung cấp, hoặc đi công nhân. Tôi tranh thủ làm giúp mẹ những việc mà mẹ còn để dở dang, chưa kịp làm hết…
       Hết ba ngày phép. Tôi chuẩn bị ba lô để sáng hôm sau cuốc bộ tiếp. Tối ấy tính toán đường đi. Một là vẫn đi đường cũ. Hai là đi bộ ra Hải Dương, bắt xe ô tô lên bến Phà Đen, ngay gần cầu Long Biên. Rồi hỏi xem có xe xuôi phía Nam không để đi. Hoặc ra quốc lộ Một vẫy xe tải chở hàng, may ra họ cho đi nhờ thì quá may mắn…
       Khi ra đến thị xã Hải Dương hỏi thì được biết, bến xe sơ tán mãi xã Tân Trường, cách Hải Dương hơn chục cây số. Đành đi bộ tiếp. Đến nơi đợi 5 giờ hơn xe mới xuất phát. Vào bến Phà Đen cũng khuya. Đành đi bộ ra bến xe phía Nam. Nhưng dạo này xe không chạy nữa. Đành ra đường Một xem có xe tải nào để vẫy xin đi nhờ. Nhưng đường vắng tanh. Chả thấy xe đi tầm nửa đêm nữa. Lúc này vừa buồn ngủ, lại mệt rã rời. Nên cố đi bộ một lúc nữa, ra ngoài ngoại thành, tìm có quán hàng nào bỏ không thì vào tranh thủ một giấc, sáng mai đi...
      Ở đây gần nội thành Hà Nội, rất nguy hiểm. Tôi đi qua ga Văn Điển một đoạn khá xa, chắc là sang đất Hà Nam. Nhìn thấy ven đường có quán bỏ không, vào làm một giấc.
          May quán có ghế dài đủ nằm. Đặt ba lô làm gối, để dễ bảo vệ gia tài một chú lính. Đang ngon giấc thì thấy tiếng người. Vội choàng dậy, quờ tay thấy ba lô còn nguyên, Vội vàng khoác lên vai đi cùng mấy người. Khi trời đã sáng hẳn. Tôi để ý ven đường có quán bán hàng vừa dọn ra. Vào thì thấy có bánh chưng. Mua môt cái ăn cho đỡ đói và một bát nước chè xanh để uống. Lại mua thêm một cái bánh chưng với quả trứng vịt luộc để ăn bữa trưa, với số tiền là 5 hào rưỡi.
       Cứ thất thểu dọc đường Một vắng vẻ, nhìn cảnh xơ xác, hoang tàn. Qua thị xã Phủ Lý cũng thấy vắng tanh… (Tôi lại nhớ bên kia sông nhỏ, phía bên tay phải. Khi mới học báo vụ xong, được điều về tiểu đoàn pháo cao xạ 37 ly, trực thuộc Bộ tư lệnh phòng không không quân, đang ở Mỗ Lao Hà Đông, thì cơ động về bảo vệ thị xã Phủ Lý. Được nửa tháng, nhận lệnh chuyển cả tổ đài về D1 cao xạ đang bảo vệ phía Nam cầu Lèn).
       Khi đến Ninh Bình, trời đã tối. Đành tự động viên mình. Phải đi qua thị xã đến khu vực nông trường Đồng Giao sẽ nghỉ, vì nơi đó an toàn, máy bay nó không đánh đến... Lúc ấy đã tối hẳn. Thỉnh thoảng có xe tải chở hàng bịt kín. Tôi đứng vẫy một lúc nhưng chẳng xe nào dừng lại. Chắc xe đã chở đầy hàng rồi, không còn chỗ để ngồi. Thế là tiu nghỉu đành cuốc bộ tiếp.
       Qua thị xã cách đường không xa. Nhìn thấy vắng vẻ, hoang tàn. Rồi qua Cầu Yên, nơi chúng tôi từng đến bảo vệ thị xã Ninh Bình, giờ thấy vắng vẻ đến lạ. Trên đường chỉ có một mình lủi thủi. Đi được gần chục km, nhìn hai bên đường, bắt đầu thấy núi rừng trập trùng. Nhìn xa xa phía chân núi, ngay thung lũng, từng đàn đom đóm chập chờn, khi ẩn khi hiện. Lại có lúc chúng cùng bật sáng trông như  lũ ma chơi, mà cảm thấy buồn và cũng hơi sợ. Chỉ mong có ai đi cùng giữa nơi núi rừng vắng vẻ và buồn tẻ đáng sợ này. Đoán là đã nửa đêm. Chắc đây là nông trường Đồng Giao. Nhưng nông trường ở cách xa đường. Chỉ có mấy quán nước, nhưng tối họ đã thu dọn về nhà nghỉ nơi khu dân cư trong núi.
       Tôi vào một quán có mái che, thấy cái ghế dài và một bệ đắp bằng đất, chắc là bàn để bán hàng. Lấy ba lô làm gối, cũng là cách tốt nhất bảo vệ gia tài của một người lính đeo quân hàm hạ sĩ thông tin.
       Đánh một giấc, đang mơ màng, nghe thấy tiếng nói lao xao. Thì ra các bà, các mẹ, các chị, các em đi rừng sớm. Tôi vội sờ ba lô thấy vẫn còn nguyên. Vì mệt nên ngủ quên cả trời đất. May mà không có tên trộm nào ghé vào hỏi thăm…
       Vội khoác ba lô đi theo, vừa đi vừa để ý hai bên đường, xem có suối nước nào gần thì xuống rửa mặt cho tỉnh táo. May quá phía tay phải có tiếng róc rách. Nước trong vắt. Liền cúi xuống lấy hai bàn tay vục nước rửa mặt, rửa chân tay. Rồi lội ra giữa suối lấy hai tay vốc nước uống ba bốn ngụm, sao nước suối ở đây vừa ngon vừa ngọt lại mát. Thật đã đời.
       Thế là cuộc hảnh trình chín ngày phép vô cùng vất vả, đáng nhớ của đời lính. Mãi khắc sâu, không phai mờ trong tâm trí. Cũng là một kỷ niệm nhớ đời. Bởi đoạn đường về chỉ khoảng trên 250 km. Nhưng đoạn vào đi vòng lên Hà Nội. Tưởng có xe đi được đoạn nào không thì chẳng có, thành thử đường dài ra thêm mấy chục cây số nữa.
       Sau này mới biết đợt về phép này. Ba ngảy đi, ba ngày phép và ba ngày về đơn vị. Đó cũng là thử thách. Nhưng tôi có mặt tại đơn vị lúc ấy là buổi trưa. Vậy sớm hơn tiêu chuẩn phép nửa ngày. Đó cũng là cách kiểm tra về ý thức chấp hành kỷ luật, rèn luyện sức khoẻ.  Coi như đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nên được anh Lại Hồng Tân là chi uỷ viên, kiêm bí thư chi đoàn tiểu đoàn bộ, thông báo tối nay (12/10/1967) đồng chí Phạm Huy Liệu được kết nạp vào Đảng. Hãy chuẩn bị lời tuyên thệ trước Đảng Kỳ!

          Phạm Huy Liệu
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn

tin tức liên quan