LÍNH LÁI XE TRƯỜNG SƠN
Sau sự kiện vịnh Bắc Bộ ngày 5 tháng 8 năm 1964 đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chuyển sang giai đoạn mới. Phong trào đấu tranh cách mạng ở miền Nam phát triển sâu rộng với quy mô lớn hơn. Với khẩu hiệu Tất cả vì miền Nam ruột thịt, đồng bào miền Bắc thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người. Mỗi năm có ít nhất vài ba đợt tuyển quân bổ sung cho tiền tuyến. Tháng 8 năm 1965, thành phố Hải Phòng có đợt tuyển quân. Vũ Văn Hoà nói với vợ: “Anh sẽ xin đi bộ đội”.
Hoà có vóc dáng người cao lớn, da ngăm đen. Anh không phải người gốc làng Phi Liệt nhưng do duyên số đã kết hôn với chị Thảo rồi định cư luôn ở quê vợ. Chị Thảo không xinh nhưng bù lại cần cù, chịu thương chịu khó. Hai anh chị lấy nhau đã hơn bốn năm, sinh được hai cậu con trai kháu khỉnh.
Chị Thảo biết tính chồng đã nói là làm nên im lặng chưa nói gì . Anh nói tiếp: “Mình có hai thằng cúng cơm rồi, sợ gì!”. Thế rồi, anh làm đơn tình nguyện nhập ngũ không dài ngắn thêm câu nào nữa. Năm đó, anh đang ở tuổi hai mươi lăm.
Nhập ngũ, huấn luyện ba tháng, cuối năm đó anh đi B. Lúc biên chế vào đơn vị chính thức ở Quảng Bình, tổ chức điều anh đi học lái máy ủi. Ra trường anh về công tác ở một đơn vị công binh thuộc Đoàn 559. Từ năm 1966 đến 1969 đơn vị hoạt động chủ yếu ở vùng Hà Tĩnh và Quảng Bình. Anh lái máy ủi mở đường và san lấp hố bom sau mỗi trận oanh kích của máy bay địch đánh phá. Thế rồi có một lần đang vận hành thì máy ủi bị bom đánh hỏng không thể khắc phục được, anh thợ lái phải đi cuốc đường mấy tháng.
Năm 1970 đơn vị chuyển sang Lào. Có lần đoàn xe MNK chở hàng đi B2 thì một chiếc bị hỏng. Họ bốc hàng đi còn xe bàn giao cho đơn vị anh. Vũ Văn Hòa cần mẫn đi kiếm phụ tùng từ những chiếc xe bị bom đánh hỏng từ trước mang về thay thế. Xe hoạt động trở lại và anh bỗng nhiên trở thành tài xế bất đắc dĩ.
Từ đó, chuyển đơn vị này qua đơn vị khác, Hòa vẫn là chiến sĩ lái xe bất đắc dĩ ấy. Mấy năm cuối cuộc chiến tranh anh nghiễm nhiên là lái xe của D103 (xe téc) thuộc Cục Xăng dầu Đoàn 559. Nỗi nhớ miền Bắc, nhớ quê hương, nhớ gia đình luôn canh cánh trong anh. Nhất là sau đợt máy bay Mỹ ném bom ác liệt vào thành phố Hải Phòng. Lâu nay, anh chẳng nhận được mảy may tin tức gì của vợ con, gia đình. Mỗi lần vào kho lấy hoặc trả hàng, anh thường hay hỏi thăm số lính trẻ để tìm người cùng quê.
Tình cờ hôm đó Vũ Văn Hòa vào kho gặp đồng hương mới vào tuyến, họ nói rằng làng anh có hai người tên là Thành và Quang. Cùng lính xăng dầu cả nhưng nó ở tuyến hơi khó gặp…Hòa nghĩ thầm, bọn lính ở tuyến gặp nó khó như lên trời vậy.
Trưa ấy, Thành và Kiên đi công tác về đến km 124 thì họ rẽ vào trạm T28 báo cơm ăn. Mới vào được mấy chục mét Thành đạp phanh ô tô dừng lại trước một chiếc xe téc hiệu Hồng Hà có biển số đuôi là 109. Thành bảo Kiên vào trước để mình ở lại đây một lát. Lạ thật, rõ ràng số xe này là của ông Hòa nhưng sao xe nát bét thế này, Thành nghĩ bụng. Xe không kính, không tai, ba đờ xốc thì quấn một bối cáp, sàn xe đất bột như nền đường. Thành nghĩ, chắc anh em họ cho mình nhầm số xe. Đưa mắt nhìn dưới gầm xe có một người cởi trần, to lớn, da sạm nắng đen nhẻm đang chằng buộc gì đó ở chỗ hộp số phụ,
Thành cất tiếng hỏi:
- Ông anh quê đâu đấy?
Người dưới gầm xe không dừng tay mà vừa làm vừa văng tục:
- Đ.. mẹ, ở đâu hỏi làm gì!
Thành cũng không kém cạnh, cũng văng lại:
- Đ... mẹ, hỏi xem có phải đồng hương không!
Người ở gầm xe:
- Ở đâu mà hỏi đồng hương?
- Hải Phòng.
- Hải Phòng ở huyện nào?
- Thủy Nguyên.
Lúc này, Hòa (đúng là Vũ Văn Hòa) dừng tay và hỏi tiếp:
- Xã nào?
- Lại Xuân.
Hòa vội vàng chui ra chạm đầu vào xắt xi xe khá mạnh. Chắc đau lắm, Hòa đưa một bàn tay đen nhẻm dầu mỡ xoa vào chỗ vừa bị va. Nhìn thấy Thành, anh lại văng tục luôn:
- Đ...mẹ, thằng Thành hả? Tao tìm mày mãi mà không gặp. Nghe nói mày ở công trình xa. Xe mày đây à?
- Vâng!
- Đi một mình?
- Hai người, một thằng vào đơn vị báo cơm.
- Đơn vị mày đây sao?
- Vâng! Xe chú sao vậy?
- Hỏng lung tung cả, cứ như con bò già. Mày có vòng bi trục chữ thập nào không ?
- Cháu đầy, vừa tháo ở cái xe cháy hôm trước, trục chữ thập chắc có vài chục vòng đó. Đồ còn tốt như mới luôn.
Hòa cười hề hề :
- Hay quá, để cho tao.
Thành lật đệm phụ cho Hòa lấy đồ.
- Vậy là xe tao sống rồi không phải chờ đội trả hàng xong nó ra kéo.
Thành hỏi:
- Chú lấy làm gì nhiều thế?
Hòa đếm từng vòng bi xong cười nói:
- 24 vòng bi đâu đã đủ mà nhiều.
Thành cười như ma làm rồi nói đùa:
- Tôi chắp tay lạy bố, xe pháo thế mà các bố đi được. Mấy thằng đơn vị chú khi cho biển số xong nó bảo xe nào đẹp nhất D103 là xe bác Hòa.
Hòa cười hấc hấc:
- Cả cái D103 chẳng thằng nào không biết tao. Vì tao già hơn, liều hơn, hay vượt cung tăng chuyến nhưng cũng may chưa dính trận nào. Mấy cha chính trị viên nhát như thỏ đế, mình vượt cung tăng chuyến về họ bẽ mặt, bảo mình vô kỷ luật hô kiểm điểm lên xuống. Điều chuyển hết lượt. Điên tiết, tao chửi um nhiều lần suýt bị kỷ luật. Nổi tiếng vì vậy thôi.
Mải chuyện, giờ anh mới nhớ đến chuyện vợ con và gia đình.
Hòa hỏi:
- Năm mày đi chiến trường tình hình vợ con tao với các cháu ở nhà có khỏe không?
- Cô khỏe như voi, bọn trẻ con lớn rồi, thằng lớn đã vào học cấp 2. Được cái là địa phương họ quan tâm ưu tiên giúp đỡ các hộ có người đi B.
Hai người ngồi im lặng nhìn xa xăm như đang nhớ về điều gì đó.
Chợt Hòa chậm rãi buông một câu:
- Thế mà, đã gần 8 năm rồi còn gì.
Nói xong câu đó, hai giọt nước mắt ứa ra từ từ lăn xuống trên gò má đen nhẻm của người lính lái xe Trường Sơn. Thành thở dài nói cho qua chuyện:
- Thôi chú ở đây cháu vào xem bảo anh em sắp cơm trưa.
Hòa:
- Ừ, mày vào đó đi, chú cháu gì anh em thôi mày.
- Kệ đi chú, gọi vậy quen rồi.
Thành vào trạm bơm T28 kể chuyện với anh em mối quan hệ giữa ông anh xe téc ở ngoài kia với mình. Mọi người nghe xong bàn tán sôi nổi. Thằng Nam vẹo, người Hà Nội bảo: “Tiện Thành gặp ông đồng hương ở đây ta thịt vài con gà ăn tươi nhé!”. Thế rồi, năm anh em trong trạm mỗi người một việc bắt gà, hái rau. Chẳng mấy chốc bữa trưa chuẩn bị xong.
Lam, Trạm trưởng bảo Thành ra gọi đồng hương vào rửa chân tay, chuẩn bị ăn cơm là vừa. Hòa nghỉ việc đi ra suối tắm. Vào lán, thấy bữa ăn đã dọn xong liền bảo:
- Chà, món ngon thế này các đồng hương có rượu không?
Nam vẹo:
- Lấy đâu ra chứ.
Hòa:
- Mọi người chờ chút nhé, tôi đi mua rượu. Thành, mày đưa chìa khóa xe cho tao.
Trời ạ, Hòa lái luôn xe ra thị trấn Phăng Đen hơn ba giờ sau anh mua được một bi đông 5 lít rượu mang về. Lúc này đã bốn giờ chiều, ai cũng đói meo ruột. Rượu nếp, gà tơ, cánh “giặc lái” vừa ăn vừa nói chuyện rôm rả.
*
Thời gian sau đại đội của Hòa chuyển sang chạy bên đường 14 phía đông Trường Sơn, hai người họ không gặp lại nhau nữa. Năm 1981, Thành mới ra quân về quê. Hôm gặp lại nhau, Thành hỏi Hòa:
- Chú về lâu chưa, giờ làm gì?
Hòa nói:
- Mình về cuối năm 1975. Ít lâu sau xin đi làm công nhân ở Xí nghiệp đá số 2.
Thành hẹn:
- Lúc nào rảnh cháu qua chú chơi nhé, giờ cháu đi có việc chút đã.
Hẹn hò là vậy nhưng lâu lắm họ mới gặp lại nhau. Chú cháu hàn huyên chuyện hôm qua, chuyện bây giờ. Nhắc lại thời ở Trường Sơn ai cũng xôn xao lắm. Hòa thủng thắng kể cho Thành nghe chuyện công việc của mình bây giờ:
- Làm nghề bổ đá hộc mày còn lạ gì, nai lưng bán sức kiếm mấy đồng lương, ba cọc ba đồng. Tính tao nóng, cán bộ ăn chặn tao không chịu được phải lên tiếng. Thế là bị vạ miệng. Nghề bổ đá mưa thì công nhân cứ việc ở nhà nghỉ rồi cán bộ đội tự chấm công. Còn tao phải vác búa đến xí nghiệp trình diện nếu không thì lại ăn một công nghỉ tự do, cuối năm cắt hết. Chán lắm mày ạ, tao cố gắng vài năm đủ tuổi sẽ xin nghỉ.
Thành cắt ngang:
- Cháu nghĩ, thời gian chú đủ rồi chứ.
- Không, tao về rồi đi công nhân chứ không chuyển ngành nên họ không tính thời gian liên tục. Thiệt đơn thiệt kép.
Thành cười buồn:
- Chú đi công nhân còn có lương, có gạo thịt chứ bọn cháu ở nhà làm bửa mặt mà chả có chế độ gì hết. Thôi thế còn hơn ối người.
Hòa cười:
- Thế mày kiếm được gì không. Cán bộ hợp tác xã mà không giầu thì còn ai giầu.
- Nhiều chứ chú, ăn đủ thứ phức tạp…
Lần đó, xí nghiệp của Hòa tổ chức đại hội Công đoàn. Họ mời đại diện địa phương và hợp tác xã vào dự, Thành cũng có mặt. Ngồi trên hàng ghế dành cho khách mời nhưng ngoái lui đã nhìn thấy Hòa nên Thành đi xuống ngồi với Hòa ở hàng ghế cuối. Họ thầm thì với nhau.
Thành:
- Chú về sinh thêm được mấy đứa nữa?
Hòa thở dài:
- Buồn lắm mày ạ, vợ tao hai lần sinh non, con lại bị khuyết tật. Có lẽ tao bị dính da cam nặng.
Thành im lặng. Hòa cũng thế. Hai người không nói gì thêm.
Sau lần gặp đó thì cuối năm Hòa nghỉ chế độ về làm ruộng nương giúp vợ con. Cũng là lúc con lớn của anh lại nhập ngũ lên biên giới nối cái nghiệp súng đạn của cha nó ngày xưa đi giữ nước. Năm 2007, Phòng Lao động & TBXH huyện cùng Ban Chính sách xã hướng dẫn làm chế độ chính sách cho một số người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc da cam, trong đó có Hòa và Thành.
Thấy Hòa xanh xao quá, Thành lo lắng hỏi:
- Chú sao dạo này nhìn yếu vậy?
- Mình bị K gan mất rồi.
- Chú chọc sinh thiết chưa?
- Chọc rồi, đang ở giai đoạn 2. K gan thì nhanh thôi. Mà mình nghĩ nhanh cũng tốt, tiền nong không có, nằm đó bắt tội vợ con cũng khổ mà đằng nào chẳng chết. Các cháu đã lớn có gia đình rồi, coi như mình đã hoàn thành nhiệm vụ với con. Thế cũng được. Thời ở Trường Sơn có ai nghĩ đến tuổi này còn được ngồi với nhau đâu.
Anh nói rồi cười. Nụ cười nhẹ bẫng. Hình như anh Hòa chẳng chú ý gì đến lời người hướng dẫn đang sang sảng trên bục.
Trần Đức Trấn
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn