CÔNG BINH TRƯỜNG SƠN THEO BƯỚC CHÂN THẦN TỐC XUÂN 1975
Ngày 9 tháng 8 năm 1964, Trung đoàn 98 bổ nhát cuốc mở đường cơ giới ở Tây Trường Sơn đã được chọn là ngày Truyền thống của Bộ đội Công binh Trường Sơn. Đến đầu năm 1975, lực lượng công binh Trường Sơn đã trải qua gần 14 năm trưởng thành. Một hệ thống đường ngang dọc khắp Trường Sơn với 5 trục dọc và 21 trục ngang đã được xây dựng. Nhờ hệ thống đường ấy mà Tuyến chi viện hậu cần chiến lược đã chuyển từ gùi thồ sang vận chuyển cơ giới, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Sau hiệp định Pa Ri, tương quan lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi, phương thức hoạt động của Công binh Trường Sơn cũng thay đổi. Trước đây ta chỉ mở đường dã chiến, trên địa hình miền núi, cầu cống tạm, vượt sông bằng ngầm, hầu hết tuyến đường dã chiến chỉ cho phép xe chạy trong mùa khô. Từ năm 1973, công binh đã bắt đầu xây dựng cơ bản đường Đông Trường Sơn, mặt đường đá dăm, mặt đượng nhựa, cầu cống bán vĩnh cửu. Năm 1973-1974, Bộ Tư lệnh đã thành lập những Trung đoàn làm cầu thép. Ba cầu treo thuộc loại hiện đại lúc bấy giờ là cầu treo Bến Tắt (Quảng Trị), Đăk Rông (tỉnh Quảng Trị), cầu treo Bản Đông (Lào) đã được thi công. Điều đó khẳng định công binh Trường Sơn đã có bước trưởng thành nhanh chóng về trình độ kỹ thuật và trình độ tổ chức thi công.
Mùa Xuân năm 1975, theo yêu cầu nhiệm vụ mới, các đơn vị Công binh Trường Sơn đã rời “Chiến trường Trường Sơn” di chuyển xuống Quốc lộ 1 làm nhiệm vụ khôi phục và đảm bảo giao thông cho các đơn vị chiến đấu chủ lực theo bước chân thần tốc.
Chiến dịch Tây Nguyên mở màn thắng lợi, ngày 30 tháng 3 năm 1975, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cho Quân khu Trị Thiên và Quân đoàn 2 mở cuộc tiến công giải phóng Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng. Thực hiện ý định của Bộ Tổng Tư lệnh, Tư lệnh Trường Sơn đã cử một đoàn cán bộ Công binh do Cục phó Dương Đình Tạ phụ trách đi trinh sát nắm tình hình cầu đường dọc Quốc lộ 1 để lập kế hoạch đảm bảo giao thông và khả năng vận chuyển dọc quốc lộ huyết mạch này, trước mắt phục vụ Chiến dịch giải phóng Huế, Đà Nẵng.
Với sự nhạy bén, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã chỉ thị cho Cục trưởng Cục Tham mưu Công binh Phan Quang Tiệp điều động Tiểu đoàn Công binh 73 (Trung đoàn 99) với đầy đủ khí tài, vật tư đến các trọng điểm giao thông ách yếu như sông Thạch Hãn, Mỹ Chánh để đảm bảo vượt sông cho các lực lượng chủ lực và binh khí kỹ thuật. Đồng thời Bộ Tư lệnh điều động Trung đoàn 8 Công Binh (do Trương Việt Phúc là Trung đoàn trưởng) phối hợp với Lữ đoàn 219 Công binh của Bộ đảm bảo cho Quân đoàn tiến xuống cắt ngang đường Số 1.
Để trực tiếp chỉ huy lực lượng đảm bảo giao thông trên hướng dọc Quốc lộ 1, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên giao cho Cục Công binh thành lập Sở chỉ huy Tiền phương của Cục do Cục Phó Đỗ Xuân Diễn phụ trách.
Ngày 18-3-1975, địch rút lui khỏi thị xã Quảng Trị về Huế. Trung đoàn 99 đang thi công móng cầu treo Đăk Rông (Km45/ Đường 9) được lệnh bàn giao nhiệm vụ thi công tiếp cầu treo Đăk Rông cho Trung đoàn 509, hành quân về bắc Thạch Hãn để khôi phục cầu qua sông. Do đã chủ động chuẩn bị nên 18 giờ ngày 21-3 Trung đoàn 99 đã có mặt ở thôn Nhan Biều, xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Cả đêm đơn vị phối hợp với Công binh Quân đoàn 2 cho xe lội nước rà phá thủy lôi, bom từ trường của địch và khẩn trường bắc cầu. Rạng sáng ngày 22 tháng 3 chiếc cầu phao dài 220 m đã hoàn thành. Từng đoàn xe quân sự tiếp tục hành tiến vào phía nam. Đây cũng là chiếc cầu đầu tiên của Công binh Trường sơn khôi phục theo bước chân thần tốc. Tuy nhiên, trong đêm dựng cầu hai chiến sĩ của Trung đoàn 99 đã hy sinh khi rà phá bom từ trường.
Theo tài liệu nắm được của địch, từ Quảng Trị vào Xuân Lộc theo Quốc lộ 1 dài gần 1.000 km có tới 569 chiếc cầu lớn nhỏ, nhưng chưa rõ cái nào còn, cái nào đã bị địch phá hoại. Riêng đoạn từ Quảng Trị vào Huế địch đã phá hoại 5 cầu, trong đó có cầu Phò Trạch, An Lỗ, Thừa Lưu,Trung đoàn 99 tiếp tục khôi phục các cầu bằng các dàn Bel Lây lấy từ kho của Nha Công chánh Huế. Đến 16g ngày 23-3-1975, đường từ Quảng Trị vào Huế thông suốt.
Trong chiến dịch Đà nẵng, để phòng địch cố thủ ở đèo Hải Vân, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên giao cho Cục Công Binh nghiên cứu mở đường vòng theo đèo Mũi Trâu, phía tây đèo Hải Vân để vào Đà Nẵng. Cục trưởng Phan Quang Tiệp cùng các cán bộ đang lên kế hoạch bên tấm bản đồ thì nhận được điện của Cục phó Đỗ Xuân Diễn: “Chúng tôi đã có mặt ở Đà Nẵng”. Lúc đó là 11g ngày 29-3-1975. Mọi người bật dậy hò reo và vỗ tay: Đà Nẵng giải phóng rồi. Nhanh quá !
Đoạn từ Đà Nẵng vào Nha Trang dài 640 km địch đã phá hầu hết các cầu lớn như: Cầu Câu Lâu, Bà Rén, An Tân, Đà Rằng...
Tiền phương Cục Công binh ở Đà Nẵng bắt được tên Thế Long, Thiếu tá Công binh Ngụy, từng làm việc trong Bộ Tham mưu của Tướng Ngô Quang Trưởng tại Đà nẵng. Ta khai thác tên này về tình hình cầu đường và vật tư ở các kho quân sự. Sau khi nắm được tình hình, Cục Phó Dương Đình Tạ đến Sở chỉ huy Quân đoàn 2 đóng tại Hòa Khánh báo cáo với Tư lệnh Nguyễn Hữu An về tình hình khôi phục cầu đường và nhận giấy phép vào các kho quân sự để tiếp nhận các vật tư làm cầu dã chiến, trong đó quan trọng nhất là các dàn cầu Bel Lây. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 99 Vũ Như Thường cùng cơ quan Tham mưu đã khắc phục rất nhiều khó khăn để khôi phục cầu Câu Lâu bằng bộ cầu Bel Lây kép 3, chồng 3 tầng cho nhịp bị phá dài 50 m. Đây là nhịp cầu dùng kết cấu lắp ghép dã chiến lớn nhất mà Công binh Trường Sơn lắp dựng trong thời gian 4 ngày.
Sáng ngày 03-4-1975, cầu Câu Lâu đã thông xe, trong tiếng hò reo của của nhân dân hai bên đầu cầu. Hàng trăm xe chở bộ binh, pháo binh, thiết giáp của các đơn vị chủ lực qua cầu tiến vào phía nam. Hàng trăm xe di tản của dân quay về Đà Nẵng đã phải chờ đợi mấy ngày, khi qua cầu họ khâm phục khả năng bắc cầu của Công binh quân Giải phóng (E99).
Trên những chiếc cầu, những đoạn đường, các chiến sĩ công binh giữ nghiêm kỷ luật vùng mới giải phóng, nên được lòng dân tin yêu, quý mến. Thiếu ánh sáng làm đêm, dân cho mượn máy phát điện của gia đình, thiếu nhân lực lao kéo cầu, dân tập trung hàng chục người khỏe mạnh cùng dô hò kéo cầu. Rồi những trái cây, ly nước giải khát mang tận các chú bộ đội giải phóng, không tính thiệt hơn. Qua đó cũng cảm hóa được nhiều người đã từng ở bên kia chiến tuyến, lần đầu tiên tiếp xúc với bộ đội Giải phóng.
Những ngày sau đó chiến dịch phát triển nhanh như vũ bão. Các tỉnh, thành phố lần lượt được giải phóng: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết... Các đơn vị chủ lực vừa hành quân vừa đánh địch, các đơn vị Công binh vừa hành tiến vừa bắc cầu, sửa đường, đảm bảo giao thông.
Ngày 5-4, thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị giải phóng miền nam trước mùa mưa, cánh quân Duyên Hải gồm Quân đoàn 2 và Sư đoàn 3 Quân khu 5, được thành lập. Ðồng chí Lê Trọng Tấn được cử làm Tư lệnh. Ðồng chí Lê Quang Hòa được cử làm Chính ủy. Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên là Phó Tư lệnh trực tiếp phụ trách đảm bảo cầu đường và hậu cần cho cánh quân Duyên Hải.
Để đảm bảo cơ động cho cánh quân phía Đông dài hàng trăm cây số, ngay từ đầu tháng 4-1975, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã điều động các đơn vị Công binh của mình, gồm Trung đoàn 8, Trung đoàn 531, Trung đoàn 34 cùng Trung đoàn 99 làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông trên Quốc lộ 1, quốc lộ 19, quốc lộ 14 và các vùng phụ cận Sài Gòn, với quyết tâm: “ Thần tốc, thần tốc hơn nữa...”. Phó Tư lệnh Trường Sơn Phan Khắc Hy được cử vào Đà Nẵng để trực tiếp chỉ đạo nhiệm vụ phối hợp với Tổng cục Hậu cần, Bộ Giao thông vận tải, Quân khu Trị Thiên để khắc phục Cầu đường, bến cảng, sân bay Đà nẵng tạo thế và lực cho tuyến chi viện chiến lược.
Từ đầu tháng 4, toàn bộ Trung đoàn 99 dồn quân xuống phía đông, sửa chữa, bắc lại cầu trên Quốc lộ 1 vào đến Đà Nẵng, tiếp đó là đảm bảo giao thông các cầu Câu Lâu, Bà Rén, An Tân, Kế Xuyên bằng khí tài Bel Lây và các dầm thép thu được của địch. Các cầu mới bắc tạm bằng kết cấu dã chiến, mố trụ tạm, lưu lượng xe qua cầu rất đông, nhiều thiết bị có tải trọng lớn, nên nhiều sự cố phát sinh. Nếu lực lượng đảm bảo giao thông vắng mặt là sự cố ùn tắc dễ xảy ra. Khi Trung đoàn 8 vào đảm bảo giao thông, Trung đoàn 99 tiếp tục tiến về phía nam theo đội hình của cánh quân Duyên Hải. Trung đoàn đã cùng các đơn vị Công binh chiến đấu tiếp tục khôi phục các cầu trên đoạn từ Nha Trang vào Biên Hòa.
Cùng thời gian này, Trung đoàn Công binh 8 được chấn chỉnh, bổ sung quân số đã cùng 1 đại đội của Trung đoàn 509, Tiểu đoàn 73 (cầu nổi) và Tiểu đoàn 23 được Bộ Tư lệnh điều động vào đảm bảo giao thông trên Quốc lộ 1 từ Quảng Trị vào Quy Nhơn. Từ ngày 01-4, Trung đoàn 531 được điều động về đảm bào giao thông trên Quốc lộ 1 từ Quy Nhơn về Cam Ranh, sau đó theo bước chân bộ đội chủ lực đảm bảo giao thông đến Biên Hòa - cửa ngõ Sài Gòn.
Chiều ngày 30-4-1975, cơ quan Tiền phương Cục Công binh đã tới thành phố Biên Hòa. Tại cầu Ghềnh trên sông Đồng Nai, địch đã buộc 8 khối thuốc nổ vào thành cầu, nhưng do hoảng hốt bỏ chạy, không kịp kích nổ. Tổ Trinh sát do Đại úy Nguyễn Đình Tiếu chỉ huy đã tới từng vị trí để vô hiệu hóa các khối thuốc nổ của địch. Sau khi kiểm tra an toàn, đã phát lệnh thông cầu cho các đơn vị chủ lực và nhân dân qua cầu Ghềnh.
Trung đoàn 99 hành quân gấp từ ngã ba Dầu Giây về thành phố Biên Hòa vào chiều ngày 30-4-1975, đóng quân tại trụ sở Ủy ban Quốc tế giám sát 4 bên. Một đơn vị trực thuộc Trung đoàn lại được lệnh tiếp tục hành quân khôi phục cầu Cỏ May trên đường từ Biên Hòa ra Vũng Tầu bằng bộ cầu dã chiến Ép Phen. Đây là cây cầu lớn dài 150 m đã hoàn thành ngày 05-5-1975.
Tại cầu Mới trên sông Đồng Nai, Trung đoàn 99 phải dùng dàn Bel Lây kép 3, chồng 3 tầng để khắc phục nhịp cầu 50 m do địch phá hoại và hoàn thành ngày 10-5-1975. Đó cũng là cây cầu cuối cùng do Trung đoàn 99 thi công theo bước chân thần tốc tiến về sài Gòn.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Xuân 1975, lực lượng Công binh Trường Sơn đã huy động 4 trung đoàn gồm: Trung đoàn 8, Trung đoàn 531, Trung đoàn 34 cùng Trung đoàn 99 để đảm bảo giao thông trên Quốc lộ 1 từ Đông Hà vào Sài Gòn, đảm bảo cho cánh quân Duyên hải tiến vào sào huyệt cuối cùng của địch, giải phóng sài Gòn, thống nhất đất nước..
Ngoài 4 Trung đoàn công binh làm nhiệm vụ khôi phục, sửa chữa và đảm bảo giao thông trên trục Quốc lộ 1, con 4 Sư đoàn Công binh đảo bảo giao thông trên các trục đường huyết mạch cả đông và Tây Trường Sơn:
-Phía Tây Trường Sơn các đơn vị của Sư đoàn Công binh 565 đảm bảo Trục Đường 23, 24, 22, 128. Trong đó trục dọc từ Bản Đông đến Sê Xụ về Ngã ba biên giới vào Công Tum (Đường 22 và 128) là đoạn tuyến Sư đoàn ô Tô 571 cơ động Quân đoàn 1 từ Vĩnh Linh vào Đồng Xoài vào ngày 19/4/1975.
- Sư đoàn 473 bảo đảm giao thông trên các trục đường từ Đăk Rông (Quảng Trị) vào A Lưới (Huế), Công Tum (Đường 14) và các tuyến đường ngang xuống Huế, Đà Nẵng.
- Sư đoàn 472 bảo đảm giao thông khu vực từ Công Tum vào Buôn Ma Thuột các tuyến ngang: Đường 19 từ Play Cu xuống Quy Nhơn và Quốc lộ 1 từ Nha Trang đi Phan Rang
- Sư đoàn 470 bảo đảm giao thông các tuyến đường và từ Buôn Ma Thuật đến Đồng Xoài (Đường 14)
Trên các trục đường được phân công đảm trách, những người lính công binh Trường Sơn đã tận dụng khí tài thu được của địch, khai thác vật liệu tại chỗ, khôi phục và làm mới 96 cầu với chiều dài 3.300 m, sửa chữa và đảm bảo giao thông cho hàng trăm cầu khác. Trong đó có 68 cầu Bel Lây, 15 cầu dầm thép, 5 cầu phao trên các tuyến đường 1A, 14, 19, 21.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã huy động một lực lượng Công binh của mình cùng lực lương Công binh chiến đấu của Bộ, các Quân đoàn, Quân khu đảm bảo cầu đường cho 3 Quân đoàn chủ lực và các đơn vị binh khí kỹ thuật với hàng chục nghìn xe pháo các loại, cơ động trên các trục dọc và các trục ngang cả đông và tây Trường Sơn dài hàng nghìn cây số vào tham gia chiến dịch đạt thời gian quy định.
Công binh bắc cầu trên Đường 9
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng Công binh Trường Sơn đã đảm bảo giao thông 7 tuyến đường dài 2.577 km, khôi phục và bắc cầu mới 90 chiếc, tổng chiều dài 4.216 m, phá dỡ hàng trăm chướng ngại vật trên đường, bảo đảm cho các lực lượng cơ động thần tốc, an toàn vào giải phóng sài Gòn. Riêng trên Tuyến Quốc lộ 1, đoạn Đông Hà - Sài Gòn dài 800 km, công binh Trường Sơn đã khôi phục, sửa chữa và đảm bảo giao thông 800 km với 70 cây cầu vượt sông.
Ngày 12-9-1975, một trong các Trung đoàn tham gia chiến dịch đảm bảo giao thông cho cánh quân Duyên Hải là Trung đoàn 99 dược Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trong nhân dân.
Đại tá Vũ Như Thường
Nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 99