(QBĐT) - Bao thế hệ người dân dọc đôi bờ sông Gianh hàng trăm năm qua vẫn luôn tự hào và nhắc nhớ về những vị tướng Cần Vương như những tấm gương trung trinh về lòng yêu nước. Nhiều câu chuyện huyền tích về họ cho đến bây giờ vẫn được người dân nơi đây kể mãi, trong đó có những câu chuyện được nghe như là huyền thoại ở chốn dân gian...
Vị tướng biết... bay!
Ẩn mình bên dòng sông Gianh, thuộc làng Thanh Thủy, xã Tiến Hóa (Tuyên Hóa) có một di tích lịch sử quốc gia là nhà thờ và khu mộ Đề đốc Lê Trực, một thủ lĩnh nghĩa quân Cần Vương lừng danh bên dòng sông Gianh.
|
Ông Lê Duy Từ, cháu trực hệ đời thứ 4 đang chăm sóc đền thờ và mộ Đề đốc Lê Trực. |
Lần đầu đến thăm làng Thanh Thủy, chúng tôi đã sững sờ trước vẻ đẹp của hình thế núi sông, cảnh vật mà tạo hóa đã đem lại cho mảnh đất này. Sự kỳ vĩ hài hòa của một vùng thủy tú sơn thanh, núi giăng hai bên, sông trôi ở giữa.
Bóng núi, bóng lèn mờ trong hơi sương, phủ lên dòng sông Gianh một màu tím nhạt tạo nên bức tranh thủy mặc, non nước hữu tình. Không chỉ có vậy, đến thăm làng Thanh Thủy, chúng tôi còn được ông Lê Duy Từ, cháu trực hệ đời thứ 4, người đang coi sóc nhà thờ và phần mộ của Đề đốc Lê Trực kể những câu chuyện huyền tích về vị danh tướng Cần Vương này.
Lật lại gia phả và sử sách, ông Từ cho biết, Lê Trực đỗ tiến sĩ võ, sau đó được cử đi nhiều địa phương làm quan, năm 1880 triều đình điều ông về Huế nhận chức mới, nhưng Tổng đốc Hoàng Diệu tiến cử ông ở lại Hà Nội với chức Đề đốc thành Hà Nội. Khi Hà Nội thất thủ, ông bị triệu hồi về kinh nghị tội chém đầu, nhưng vua Tự Đức nghĩ tình ông cương trực mà cho về quê an trí.
Ở quê, Lê Trực nhận chiếu Cần Vương vào năm 1885, từ đó ông kêu gọi sĩ phu, thân sĩ trong vùng theo Hàm Nghi chống Pháp. Chỉ sau hai tháng Lê Trực đã chiêu mộ được hơn 500 lính, rồi phát triển dần lên đến hơn 2.000 binh sĩ. “Ông cụ đánh quân Pháp ở Quảng Bình khiến nhiều phen Pháp khiếp vía. Điển hình là đêm 9 rạng ngày 10-5-1886, nghĩa quân đột nhập thành Đồng Hới, đốt trại lính Pháp, làm chủ toàn thành, cắt đứt giao thông liên lạc Bắc-Nam gần 2 tháng.
Ở vùng bắc Quảng Bình nghĩa quân của cụ luôn làm cho quân Pháp thất kinh cả đường bộ và đường thủy. Trận lớn nhất là tháng 6-1986, khi quân Pháp ngược sông Gianh xây đồn bốt, nghĩa quân Lê Trực nghênh chiến, đánh tan hơn 200 thuyền Pháp và tay sai, giành thắng lợi lớn. Cụ có địa bàn hoạt động rộng từ thượng nguồn sông Gianh đến hạ nguồn, kết hợp với nhiều nghĩa quân các tướng lĩnh trong vùng khiến quân Pháp và tay sai thiệt hại rất lớn.
Với nhiều chiến tích lẫy lừng, trong dân gian ở vùng sông Gianh kể rằng Lê Trực là một vị tướng rất giỏi võ nghệ, đặc biệt có thuật khinh công, có thể bay từ dưới đất lên đỉnh núi và từ lèn núi này qua lèn núi khác một cách nhẹ nhàng...” - ông Từ kể.
Ông Lê Duy Từ hiện đang còn lưu giữ cẩn thận nhiều kỷ vật của Đề đốc Lê Trực như bát hương được ông đưa từ Hà Nội về thờ tự gia tiên, khẩu súng ông cướp được ở thành Đồng Hới, đao kiếm của nghĩa quân... Những kỷ vật đó nhắc ông Từ và con cháu hậu thế luôn nhớ về Đề đốc Lê Trực như một niềm tự hào về lòng yêu nước của tiền nhân.
Căn cứ địa giữa rừng sâu
Xuôi về xã Quảng Sơn, thị xã Ba Đồn, chúng tôi được ông Mai Xuân Quế, một người lính về hưu, cũng là cháu trực hệ đời thứ 4, chèo đò vượt dòng Rào Nan (một nhánh sông Gianh) thăm khu lăng mộ của Lãnh binh Mai Lượng dưới bóng thông reo bên chân núi Cấm. Từ bến sông lên mộ là hàng tam cấp được con cháu các đời họ Mai xây đắp, mộ của vị Lãnh binh theo chiếu Cần Vương này đã được xếp hạng di tích quốc gia, tọa lạc giữa một không gian sơn thủy hữu tình.
Lãnh binh Mai Lượng (1838-1890) quê ở làng Thọ Linh, xã Quảng Sơn, ông giỏi cả võ lẫn văn. Năm 1865 ông đậu cử nhân võ với chức Hiệp quản. Ở kinh thành, thấy triều đình Huế lúc bấy giờ dâng 6 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp, ông từ quan về quê. Gặp lúc vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, Mai Lượng đã tập hợp lực lượng, tạo thế nghĩa dũng đánh giặc.
Căn cứ hoạt động từ thượng Rào Nan qua đến vùng Troóc (Bố Trạch), kiếm soát từ Cao Mại qua Hóa Sơn, Cổ Liêm, Ngọc Lâm, Minh Cầm, Khương Hà và xuống cả đồng bằng hạ lưu Sông Gianh...
Đặc biệt tại rừng sâu ở vùng Cao Mại, ông cho lập một căn cứ địa cho nghĩa quân đồn trú. Ở đó có cả xưởng sản xuất vũ khí, nơi tập luyện binh sĩ rộng lớn. Đặc biệt, Lãnh binh Mai Lượng còn cho quân sĩ, người dân khai hoang lập ruộng nương gieo trồng, cày cấy để lấy lương thực để kháng chiến lâu dài... Ông Mai Xuân Tuyên, Chủ tịch UBND xã Cao Quảng cho biết, hiện dấu tích về căn cứ địa đặc biệt đó vẫn còn, người dân đi rừng vẫn thường xuyên lấy lá chè xanh ở đó nấu nước uống.
Khi vua Hàm Nghi bị bắt, nghĩa quân của Mai Lượng vẫn tiếp tục chiến đấu, để đối phó với bao nhiêu khó khăn của phong trào, Mai Lượng một mặt cho sử dụng lối đánh du kích tiêu hao lực lượng địch. Đồng thời cho người ra Hà Tĩnh tìm cách bắt liên lạc với nghĩa quân Phan Đình Phùng để phối hợp kháng chiến.
Nhưng ngày 24-3-1890, ông qua đời tại căn cứ Cao Mại sau một trận sốt rét. Sau khi Lãnh binh Mai Lượng qua đời, nghĩa quân hoạt động thêm một thời gian nữa thì tan rã. Trong hành trình đi thăm lăng mộ của Lãnh binh Mai Lượng, ông Mai Xuân Quế còn kể cho chúng tôi nghe câu chuyện đầy tự hào về dòng họ Mai ở làng Thọ Linh. Không biết có phải được kế thừa từ dòng máu anh hùng, hào kiệt của ngài Lãnh binh mà rất nhiều con cháu của họ Mai cùng theo binh nghiệp, đánh giặc giữ nước.
Một trong những người họ Mai thế hệ sau thành danh với nghiệp binh đó là Phó Đô đốc, nguyên Tư lệnh Hải quân, Anh hùng LLVT Mai Xuân Vĩnh, ông được biết đến như một vị tướng biển đảo. Ông Mai Xuân Vĩnh là chắt nội của Lãnh binh Mai Lượng...
Được phong Thành hoàng bổn thổ
Có lẽ đây là vị chỉ huy duy nhất trong phong trào Cần Vương được người dân xưng tụng là Thành hoàng bổn thổ, tuy không có công lập làng nhưng có công lớn chiến đấu để giữ làng và nhiều vùng đất khác dọc sông Gianh. Vị tướng ấy là Tán tương quân sự Lê Mô Khởi (1836-1895) quê ở làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, (Bố Trạch). Ông còn có tên là Lê Tuấn và Lê Ngọc Thành.
Khi phong trào Cần Vương nổ ra, ông tích cực tham gia, được vua Hàm Nghi phong là Tán tương quân sự Cần Vương. Ông lấy vùng Trại Nái lập căn cứ, hoạt động rộng lớn khu vực miền tây huyện Bố Trạch, là tâm phúc của các nghĩa quân Lê Trực, Mai Lượng và triều đình kháng chiến.
Ông đánh nhiều trận gây tổn thất lớn cho Pháp. Giặc càn quét mãi, nghĩa quân Lê Mô Khởi vẫn vững vàng ở căn cứ. Khi vua Hàm Nghi sai ông ra tìm cụ Phan Đình Phùng để đưa vua ra vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh tiếp tục kháng chiến, đường rừng vạn dặm, ông đến thì cụ Phan đi vắng thời gian dài, lúc trở về ngặt lúc vua Hàm Nghi bị bắt. Về lại nơi ấy, chẳng còn gì ngoài đống tro tàn và vũng máu khô.
|
Ông Mai Xuân Quế, cháu trực hệ đời thứ 4 của Lãnh binh Mai Lượng đang thắp hương bên Di tích quốc gia, khu lăng mộ Lãnh binh Mai Lượng. |
Ông khắc lên cây cổ thụ bên rừng nỗi lòng với nước non: “Ta là Lê Tuấn. Trời sinh ta trong thời loạn, làm tôi một đấng quân vương giang hồ. Ta vứt bút, cầm gươm, nhằm non xanh mà đi vào, thờ vua trong một túp lều con xiêu vẹo. Than ôi! Vận nước còn suy. Cơ trời chưa sáng. Vua tôi đêm nằm ngoài sương ngậm tuyết, kết cục vẫn giam hãm trong vòng thất bại. Ta nguyện đi theo con đường cứu nước của đấng quân vương, dù có chết mòn nơi rừng xanh núi đỏ cũng cam lòng.”
Những tháng ngày còn lại, ông kết tụ với các nghĩa quân ở nam Quảng Bình như Đề Én, Đề Chít, Hoàng Phúc... Lúc 60 tuổi ông lâm chung, trối lại với cháu con: “Chớ làm điều gì xấu đến truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ”.
Theo các cụ cao niên, am hiểu lịch sử ở xã Hạ Trạch (Bố Trạch), bao thế hệ người làng Cao Lao Hạ rất tự hào và quý mến ông Lê Mô Khởi. Cho đến ngày nay, khi nói đến tên ông, người làng vẫn thường nói chệch đi, chẳng hạn như Khởi thì nói là Khải, chữ Tuấn nói ra chữ Tớn, Thành ra Thiềng. Và cũng vì quý trọng ông mà làng Cao Lao Hạ đã tôn ông là Thành Hoàng bổn thổ dù ông không phải là người lập làng.
Mới đây chúng tôi đã có chuyến viếng thăm lăng mộ của ông ở trên vùng núi Lệ Đệ, Ba Trại. Nhưng ở đó hiện chỉ còn lại dấu tích của lăng cũ.
Ông Lưu Văn Tác, Chủ tịch UBND xã Hạ Trạch cho biết, mộ của cụ đã được dòng họ đưa về với cháu con họ Lê. Nhưng chứng kiến cảnh khu lăng mộ bị cây dại mọc um tùm chiếm hữu, chúng tôi không khỏi chạnh lòng. Nơi ngôi mộ cũ này nhìn xuống có hồ Vực Sanh, ngó ra có sông Gianh... đẹp như một bức tranh thủy mặc. Giá như nơi ấy vẫn được trùng tu và chăm sóc thì chắc chắn vẫn là một địa chỉ để cho người dân đến thắp hương viếng thăm ông, một danh tướng lỗi lạc của phòng trào Cần Vương.
Lâm An