Truyện ký "Vào chùa gặp lại" của nhà văn Minh Chuyên

Ngày đăng: 09:11 05/07/2023 Lượt xem: 1.291
VÀO CHÙA GẶP LẠI
Trích trong tập "Người lang thang không cô đơn của nhà văn Minh Chuyên

Sách Ngữ văn lớp 11, trong đó có tác phẩm "Vào chùa gặp lại" 

 
         Qua hàng chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quảng Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng 5 đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở Binh trạm 31 hơn 20 năm trước, giờ đây gặp lại đã chở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mắt chúng tôi.
       Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường.
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của Đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của Trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hy sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân từ trần vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bới với Thân, anh là một nửa của cuộc sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh  sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”.
       Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buốn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo, Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái nagyf tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên đến tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khí bom và đất đỏ tung bay mù mịt. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bôc cháy, xô đổ , lao xuống vực sâu.  Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô dược đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo: Ngày ngày đều dặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo Ân chân kinh và kinh Pháp Hoa.
       Thân bảo “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hóa tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi nằm điều trị”
        Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62 % thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường, Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khỏe dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu, Thân đã ấp ủ nguyện ước được phó thác cuộc đời nơi Tam Bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thủy chung với Hồng Quân, người là một nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn linh ứng ứng, ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội. Cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoaats, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:

 
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”

 
         Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở Động Hương Tích. Ông bắt Thân về “ xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mệ cô đành chập nhận.
         Những ai mơ  tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi sự nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là mong “đắc đạo hóa toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa Thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả và gian nan.

 


Bài Vào chùa gặp lại trong sách Ngữ văn lớp 11
 
         Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú Tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cây, tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm.. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên Sư bác và mấy năm nữa được phong Sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đồng Am, xã Quang Bình này.
         Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: Đó chỉ là ảo vọng và cho rằng càng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thế mà còn phải bằng hành thế. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
       Đàm Thân bảo:
      - Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia, sản xuất. Chín giờ tôi đến một giờ đêm tĩnh tâm niệm Phật. Sáng- chiều, tối- mộ là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
       Lên bậc Sư thầy, Thân cũng chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đồng Am, vừa lễ Phật, cầu kinh,  Sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang biến ngôi chùa này- một Di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đồng Am liên tục đạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Ủy ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đồng Am là chùa gương mẫu vì Sư thầy Đàm Thân không để các “tạp giáo”, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xó thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn...
          Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giưa nhà sư và khách dần dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
     - Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoàng buồn, người thừ ra, im lạng. Bích tiếp:
     - Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh, gió mát. Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
     - Mô Phật. Không ! - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
      Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiêng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di Đà và kinh Phổ Môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt một khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhân ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân- người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
      - Mô Phật - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm - Mô Phật, cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn, chết thiêng, phù hộ cho mẹ và Thân mạnh khỏe.
        Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
       - Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
        Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chắm nhìn, miệng nói líu lại.
      - Anh là...Quân thật ư?
      - Thật. Anh là Quân đây mà.
      - Trời ơi. Anh còn sống. Vậy mà...
       Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của Sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện với nhau qua cái bàn gỗ lim của chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
      Hôm ấy, đơn vi Quân tập kích một đại đội lính ngụy ở núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay đến  tơi bắn phá, hủy diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom, thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị tổ chức truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quaab về Tà Keo, chạy chữa thuốc men  rồi  giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
       - Vì thế khi giải pgongs miền Nam, phần thì phải chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
        - Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay Thân vẫn còn sống và đang ở chùa. Quân cảm động nói tiếp:
        - Người ta bảo Thân đi tu là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều, Nay biết Thân tu chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
         Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng, vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân dược nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
       - Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo Phật rồi, anh thông cảm cho cho em nhá anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, đôi mắt đẹp như mộng ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng. Quân bảo:
        - Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
       - Mô Phật! Không. Em hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
       Thân từ chối mãi. Quân vẫn van vỉ, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa từng thổ lộ cùng ai. Đó là do di chứng của chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân không còn khả năng… Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật , lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
       Nghe Thân giải bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong bom đạn, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, “tiếng bom” vẫn âm thàm nổ trong lòng họ. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
        Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
      - Ở cửa Thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
      Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
      Thân quay sang Bích bảo:
      - Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
       Bích nắm bàn tay bạn thở đài:
      - Vậy mà mình ngỡ … thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ Thân..
       Bích tiếp:
     - Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp anh ấy không?
     - Có! -Thân nói  - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chừa Bình Dương. Vừa đến cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?  Lúc đó anh ấy chẳng nói gì.
      Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật. Bích hỏi:
     Thân có biết tại sao Quân lại đi tu?
      Thân ngượng ngùng nói:
      Anh Quân bảo, anh ấy bị nhiễm chất độc Đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cũng bị nhiễm chất độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đá át hết, nên anh ấy mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
     Thân nói tiếp:
     - Khi Thân từ chối, ra về anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa.
     Bích nói như để an ủi bạn mình:
     - Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện Thân ạ.
      Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, Sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp Hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam Bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp Hoa và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa trong lòng người.
 
(In trong sách Người lang thang không cô đơn. Truyện ký, tái bản lần thứ 3. NXB Văn học, Hà Nội, 2018.)
 
 
 
tin tức liên quan