“Trường Sơn – Bản hùng ca vĩ đại”. TG: Đỗ Ngọc Thứ, Chủ tịch Chi Hội VHNT Trường Sơn TP Đà Nẵng
---------------------
TRƯỜNG SƠN – BẢN HÙNG CA VĨ ĐẠI
Đỗ Ngọc Thứ
Trường Sơn, nơi những con đường phơi mình dưới trùng trùng bom đạn, nơi mỗi cung đường như mang theo mồ hôi, nước mắt, máu và linh hồn của những người lính, thanh niên xung phong…để con đường ấy trở nên huyền thoại và bất tử.
(1).jpg)
Ai từng đến với Trường Sơn, ai từng đi qua Trường Sơn sẽ không thể nào quên. Không thể nào quên bởi nơi ấy có hình ảnh những con người “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hình ảnh những đoàn xe băng mình qua lửa cháy, kịp chi viện cho miền Nam. Nói về giá trị của tuyến đường Trường Sơn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng: “Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn là biểu tượng của tinh thần yêu nước, của ý chí kiên trung và lòng dũng cảm, của khát vọng độc lập và tự do”. Nhưng không phải ai cũng biết rằng, để có được con đường huyền thoại mang tên Bác Hồ kính yêu đó, đã có hơn 20 ngàn cán bộ, chiến sỹ Trường Sơn hy sinh; hơn 32 ngàn cán bộ, chiến sỹ Trường Sơn bị thương. Điều đó đồng nghĩa với chúng ta đang có hơn 52 ngàn gia đình thương binh, liêt sỹ thuộc Binh đoàn Trường Sơn đang cần sự xẻ chia cả về vật chất lẫn tinh thần. Hội Văn học Nghệ thuật Trường Sơn Việt Nam nói riêng, Hội Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh Việt Nam nói chung ra đời là để gánh vác một phần xứ mệnh đó.
Trong những ngày tháng Bảy – tháng tri ân những Anh hùng, Liệt sỹ, khắp các Nghĩa trang Liệt sĩ trên dải đất hình chứ S lại ngập ngừng những bước chân trở về thắp hương cho người thân, cho đồng đội. Lòng người, một lần nữa lặng đi trong những hồi ức chưa bao giờ nguôi ngoai. Giữa mênh mông những ngày tháng Bảy, những hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Trừng Sơn - những người lính Trường Sơn năm xưa may mắn được trở về lại bồi hồi thắp lên những nén hương được làm bằng chữ nghĩa để tỏ lòng biết ơn lớp lớp cha anh và những người đồng đội đã hiến dâng máu xương cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc, những người mãi mãi nằm lại ở các nghĩa trang hoặc còn nằm đâu đó giữa thăm thẳm Trường Sơn. Những “nén hương thơ” của họ cứ thầm thì như tiếng gọi từ quá khứ, nó không phải được viết ra bằng mực, mà bằng máu, nước mắt và cả linh hồn mình.
Phần lớn hội viên của Hội VHNT Trường Sơn thuộc lớp người “xưa nay hiếm”, những người đã đi qua đỉnh dốc cuộc đời, trên đầu là mưa gió, dưới chân là chông gai, đã nếm trải đủ cay đắng, ngọt bùi của cuộc sống. Do vậy, thơ của họ không chỉ là cảm xúc tức thời mà còn là sự trải nghiệm, suy ngẫm chín chắn về hạnh phúc và khổ đau, về nụ cười và nước mắt; là âm vọng của trầm tích được khai mở, soi rọi khi trái tim người lính rung nhịp cùng với lý trí quang minh và tinh thần trách nhiệm. Mỗi vần thơ của họ như được “chắt” ra từ những nỗi niềm suy tư, trăn trở. Với họ, những mảnh đất, những con người… đã in dấu trong những tháng ngày thăm thẳm Trường Sơn luôn réo gọi tâm hồn lãng mạn và bay bổng của họ một tình yêu cháy bỏng. Trước hết là tình yêu với những người đồng đội, với những cánh rừng, những cung đường ngày đêm mịt mùng lửa khói:
Là người lính Trường Sơn may mắn được trở về, trong những ngày tháng Bảy, đến với nghĩa trang Trường Sơn, nghe tiếng ve kêu, họ lại liên tưởng đến tiếng kèn chiêu tập:
“Ve kêu mất còn
Tiếng kèn chiêu tập
Ve kêu mỏi mòn
Nhắc thời máu ứa
Về chưa… về chưa?”.
(Ve kêu ở nghĩa trang Trường Sơn – Nguyễn Hữu Quý).
Nhà thơ Hồ Văn Chi chia sẻ: “Tôi có người em trai là liệt sỹ Hồ Ngọc Tình, đơn vị của em bị bom và pháo địch, nhiều người hy sinh trong điều kiện thịt xương trộn lẫn đất bùn, không ai còn nguyên vẹn. Đơn vị đành chia đều từng phần rồi mai táng. Sau nhiều năm tìm kiếm, gia đình đã tìm thấy em được an tang tại Nghĩa trang Cây Bàng, Vĩnh Hòa, U Minh Thượng, Kiên Giang (nay là An Giang). Nhưng gia đình không nỡ đem em về quê bởi trong phần mộ của em còn có cả xương cốt đồng đội”. Anh viết:
“Máu xương trộn với bùn non
Bom vùi, pháo dập sao còn nguyên thân
Mộ em đồng đội góp phần
Mộ đồng đội cũng có phần của em”
(Mãi mãi trọn tuổi Hai mươi - Hồ Văn Chi).
Những người lính Trường Sơn năm xưa, nay có thể xa Trường Sơn nhưng Trường Sơn chưa bao giờ xa rời tâm hồn họ. Bởi ở đó là một trời ký ức, ăm ắp những kỷ niệm về thời hoa lửa:
“Nặng lòng với chiến trường xưa
Chung cơn sốt rét, đêm mưa rừng già
Trời chiều lệch bóng quê xa
Bưởi bòng san sẻ mặn mà trong nhau”
(Hương bưởi da xanh – Đinh Văn Hởi).
Và quan trọng hơn, ở đó có những người đồng đội đang còn nằm lại:
“Bây giờ sông suối rõ rành
Bạn tôi vẫn gác rừng xanh chưa về
Để người con gái thôn quê
Nắng mưa tóc bạc vụng về ngóng trông”
(Đò trên bến đợi – Nguyễn Quốc Lập).
(1).jpg)
Nghĩa trang Liệt sỹ Quốc gia Việt Nam
Nhắc đến Trường Sơn, người ta nghĩ đến những cung đường bom đạn, đến những đoàn quân ra trận, đến những người con của Tổ quốc lặng lẽ đi vào cõi bất tử để rồi những người mẹ, người vợ cứ vò võ, đỏ mắt chờ trông:
“Cha không về
Mẹ bao năm đỏ hoe con mắt
…
Mẹ chỉ biết
Khu rừng kia khô khốc
Cha hướng về Tổ Quốc
Máu xương loang kín mặt cờ”
(Tiếng cỏ non – Lê Thúy Bắc).
Hoặc:
“Chiều nay mới được đón con
Ẵm trong tay mẹ như còn bé thơ
Nắm xương bọc tấm vải cờ
Mẹ ngồi như tượng bên bờ nhân gian”
(Ngọn đèn canh khuya – Nguyễn Đức Bình).
Rồi:
“Lúa đông xanh mướt ven đê
Lặng nghe biển gọi vọng về mênh mông
Chị không hóa đá chờ chồng
Vai gầy trĩu nặng gánh gồng nước non”
(Đợi – Đinh Văn Hởi).
Thơ của những người lính Trường Sơn năm xưa không cao siêu, không cách tân phức tạp, nhưng lại day dứt bởi tính chân thực và chiều sâu xúc cảm. Đó là tiếng lòng của người lính may mắn được trở về, viết để tưởng nhớ những đồng đội đã ngã xuống, để giữ lấy một phần nhân tính giữa cuộc chiến tàn khốc, để truyền cho nhau ngọn lửa niềm tin giữa sống chết cận kề:
“Những cái ngạc nhiên giữa chiến khu đưa ta đi mải miết
Theo những âm thanh của đêm Trường Sơn
Cái ngạc nhiên và niềm vui bay lên
Khi cả rừng Trường Sơn không ngủ”.
(Đêm trên đường giao liên Trường Sơn – Phạm Thành Long).
Hoặc:
“Một thời ăn gió nằm sương
Từng là “cô gái mở đường” Trường Sơn
Đạn bom, sống chết không sờn
Thông đường, đâu tính thiệt hơn về mình”
(Lính Trường Sơn- Nguyễn Ánh Dương).
Hay:
“Sắt son gói ghém nguyện cầu
cho bao đồng đội rừng sâu yên nằm
Khắc ghi lịch sử ngàn năm
Chùa nay còn có quân nhân tu hành”
(Dòng trôi – Trịnh Lan Oanh).
Đặc biệt, Trong những ngày tháng Bảy – Tháng tri ân các anh hùng liệt sỹ, những cựu binh Trường Sơn lại đến với các địa danh lịch sử như Truông Bồn, Thạch Hãn, đến với các nghĩa trang để thắp nén hương thơ dâng lên hương hồn liệt sỹ và cúi đầu biết ơn:
“Đến Truông Bồn ta thấu hiểu vì đâu
Đất nước mình mấy ngàn năm sống mãi
Bão đạn, mưa bom… trưởng thành vững trãi
Máu và hoa cho Tổ quốc mùa xuân”
(Chiều Truông Bồn – Lê Ngọc Thiện).
Hay:
“Thả hoa con sóng đưa đi
Lạy trời khấn phật thầm thì cầu mong
Bạn tôi nằm ngủ đáy sông
Nhận hoa nhận cả tấm lòng của tôi”.
(Thả hoa đăng – Trần Thị Nhật Tân).
Hoặc:
“ Bảy mươi năm vẫn lặng im
Bên kia thổn thức đi tìm nơi nao
Nghĩa trang trải rộng biết bao
Tâm hương em thắp nơi nào thấy anh”
(Thăm chiến trường xưa – Nguyễn Thị Minh Cử).
Rồi:
“Hàng hàng bia mộ nghĩa trang
Chim rừng nghẹn nấc, mây ngàn tím tê
Linh thiêng bóng lộng Bồ đề
Từ nơi đất Phật, cây về rừng cây”
(Ru hồn Trường Sơn – Vương Văn Kiểm).
Từ hậu phương ra với tiền tuyến, Trường Sơn trở thành nhịp cầu nối Bắc Nam, nối liền sức mạnh của dân tộc thành một khối thống nhất không gì lay chuyển nổi. Hoa vẫn nở giữa bom rơi, nở trong ký ức của những người đã đi ngay trên nhịp cầu đầy gian khổ, khốc liệt Trường Sơn. Mỗi dòng thơ của người lính Trường Sơn năm xưa đều mang đến một cái nhìn chân thật và lòng tri ân sâu sắc:
“Chúng tao vội đưa mày về trạm phẫu phía sau
Tiếp máu cho mày – những cánh tay xanh xao vì sốt
Không kịp rồi Khánh ơi! Tim chúng tao quặn thắt
Quay mặt vào liếp lá giấu lệ rơi”
( Khánh ơi – Đỗ Ngọc Thứ).
Hay:
“ Chiến tranh nay đã lùi xa
Đón anh về với quê nhà thân thương
Bao năm nằm lại chiến trường
Máu đào nhuộm đất, thịt xương nhuộm bùn”
(Đón anh – Nguyễn Đô Lương).
Hôm nay, chiến tranh đã lùi xa, thậm chí là rất xa nhưng những ký ức về những năm tháng hào hùng đó vẫn luôn canh cánh bên lòng. Những người lính – thi sĩ Trường Sơn vẫn cặm cụi ghi lại những câu thơ như một cách giữ lại chút lặng im giữa bao la khốc liệt. Họ đã viết bằng tất cả những gì chân thật nhất của cuộc đời người lính – không màu mè, không trau chuốt, mà giản dị, thấm đẫm khí chất anh hùng và đầy xúc cảm nhân văn. Trường Sơn hôm nay không còn bom đạn, những người lính năm xưa may mắn được trở về vẫn tiếp tục con đường của mình: Viết. Nhưng nay họ viết trong lặng thầm, như một lời tưởng niệm cho đồng đội, như một nén hương bằng thơ cho những linh hồn còn nằm lại giữa thăm thẳm Trường Sơn. Họ viết không vì danh lợi mà vì một món nợ thiêng liêng với những người đã nằm xuống. Có bài thơ mãi không in, chỉ được chép tay, chuyền tay giữa bạn bè đồng đội, như cách người ta giữ gìn một kỷ vật không thể gọi tên.
Trường Sơn là một bản trường ca vĩ đại, nơi từng hòn đá, từng gốc cây, từng vết chân in đều là một câu thơ chưa kịp viết ra. Và chính những người lính đã biến cuộc chiến gian khổ ấy thành một bản hùng ca bằng thơ. Chân thật, bay bổng nhưng không hề sáo rỗng, mà sống động như chính mạch đập của Trường Sơn. Đó là những câu thơ mang hình ảnh của thực tại trần trụi, không cần hoa mỹ, bởi bản thân cuộc chiến đã đủ làm thơ bằng chính sự thật của nó. Những vần thơ ấy không chỉ là tiếng lòng người còn sống với đồng đội đã mãi mãi nằm lại Trường Sơn, mà còn là một lời nguyện ước – rằng Trường Sơn sẽ mãi là một phần máu thịt trong những người đã từng sống, chiến đấu và yêu thương trên mảnh đất ấy.
Tháng Bảy này, khi đứng trước những nấm mộ không tên, trước dòng tên khắc đá lạnh lẽo giữa những nghĩa trang, người ta thấy thơ lặng lẽ bay lên trong gió. Không cần được đọc thành tiếng, không cần ánh đèn sân khấu, những vần thơ ấy vẫn sống trong lòng những người đã, đang và sẽ bước tiếp con đường gìn giữ hòa bình cho Tổ quốc. Những vần thơ đó là những nén tâm nhang, là một di sản tinh thần thiêng liêng, một bản hùng ca bất tử, được viết nên bởi những trái tim không bao giờ ngừng rung động, không bao giờ nguội lạnh lòng biết ơn./.