Nhà giáo Nguyễn Duy Dương - Một CCB – Một chàng lính thủy thuộc thế hệ kế thừa của đội quân hoạt động trên “Đường Hồ Chí Minh trên biển” năm xưa… Vốn yêu mến con đường của Bác – con đường mang tên Bác, có lẽ vì vậy mà Nguyễn Duy Dương tìm đến con đường cũng mang tên Hồ Chí Minh – “Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh” và anh muốn “ôm” cả hai con đường cùng mang tên Bác vào trong trái tim mình…
Nguyễn Duy Dương đã sớm tìm đến và gia nhập đội quân cầm bút Trường Sơn – Hội VHNT Trường Sơn và anh cũng đã có nhiều tác phẩm góp phần cho VHNT Trường Sơn ngày thêm phong phú. Nguyễn Duy Dương vừa tham gia làm trại viên của Trại viết văn Trường Sơn lần thứ 3 do Hội VHNT Trường Sơn tổ chức tại Trung tâm Bảo trợ Xã hội, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, xã Yên Bình, Thạch Thất, Hà Nội… Hiểu thêm về Trường Sơn cùng với tổng quan cảm xúc của mình – Sau mãn trại Nguyễn Duy Dương đã chia sẻ cảm nhận của mình với bài viết “Ấm áp nghĩa tình đồng đội”
Ban Biên tập Trường Sơn xin trân trọng giới thiệu cùng Bạn đọc bài viết này.

Giữa sắc phục xanh Trường Sơn là sắc phục của chàng lính thủy
ẤM ÁP NGHĨA TÌNH ĐỒNG ĐỘI
Tôi đến với Trại viết văn Trường Sơn 3 vào một buổi chiều cuối tháng 7/2025. Xuất phát từ bến xe Mỹ Đình trên chiếc Grab, vượt qua cái nắng như đổ lửa của mùa hè, cái gió và khói bụi; tới điểm hẹn trễ so với quy định tầm hơn 1 tiếng đồng hồ và cũng là một trong số những người có mặt muộn nhất dù tuổi đời thuộc hàng bé nhất…
Kéo chiếc valy vào khuôn viên trung tâm, tôi gặp các văn nghệ sĩ Trường Sơn đang ngồi trò chuyện dưới những tán cây xanh mát. Tất cả các anh chị đều hồ hởi chào đón thành viên mới đến như đón người thân trở về. Hầu hết họ đều là những người lính, những sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam thuộc đoàn 559 – Bộ đội Trường Sơn những năm chiến tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Thời bình, những người chiến binh ấy lại chuyển sang cầm bút. Chợt nhớ những câu thơ thật xúc động: “Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững/Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa/Trong và thực sáng đôi bờ suy tưởng/Sống yêu thương mà nhân ái chan hoà”. Phải chăng, chính tình yêu con người, yêu nước, yêu quê hương xứ sở đã hun đúc nên ở họ ý chí và tinh thần dũng cảm trong chiến đấu và bây giờ là cảm hứng sáng tạo qua những trang văn. Tôi thật sự ngượng ngùng khi nhiều văn nghệ sĩ đã sang tuổi bát thập vẫn xưng là anh chị. Nhưng không lạ, bởi vào cuối năm 1991 nhà thơ Hoàng Cầm (1922 – 2010) từng mắng và bắt tôi gọi ông là anh khi ông và tôi cùng dự đêm thơ ở trường Đoàn cao cấp Trung ương (nay là Học viện Thanh thiếu niên…), ông nói: “nhà thơ không có tuổi”!
Những cựu binh Trường Sơn nhập “trại viết” đều cùng hồ hởi, phấn chấn. Mọi người đang mang trong mình những khát khao sáng tác, những cảm xúc đang nảy mầm, chỉ chờ dịp là “bùng nổ”, là cháy lên theo sức sáng tạo của con tim. Các anh khoẻ khoắn trong bộ quân phục màu xanh, sang sảng đọc thơ, hát những bài ca thời chiến trường rực lửa. Các chị e ấp, dịu dàng, mềm mại với những chiếc váy thướt tha; lại có lúc rất trang nghiêm trong màu xanh áo lính… Gặp nhau là cười thay cho lời chào. Nhà văn, nhà báo Phạm Thành Long - Chủ tịch Hội VHNT Trường Sơn nhẹ nhàng, chậm rãi nhưng khúc chiết trong từng lời nói; lại cũng rất “quy lát” trong công việc chung và đong đầy cảm xúc qua những câu thơ tình cháy bỏng. Anh Phạm Sinh phụ trách Hậu cần nhỏ nhẹ, chi tiết trong công việc chung, lo cho anh em từng chút một. Các nhà thơ: Nguyễn Hữu Quý, Thuý Bắc, Phạm Cao Phong, Trịnh Lan Oanh, Hà Kim Quy… mỗi người đều có chất giọng của riêng mình khi chuyển tải tiếng nói của con tim qua từng con chữ. Các nhà văn: Mai Tiến Nghị, Trương Ngọc Hùng khai thác đề tài chiến tranh vừa hiện thực, vừa huyền ảo tạo nên sự phong phú mới mẻ về cách nhìn, cách cảm nhận của người đã từng xông pha lửa khói. Những người từng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy đã làm đẹp cho đời bằng những trang văn. Tôi còn gặp một Đỗ Ngọc Thứ ân tình, hiền từ, dễ gần (luôn bị tôi “bắt nạt”) mà rưng rưng qua từng câu chữ trong những bài bút ký về số phận người lính và hậu duệ của họ… Tôi thực sự thán phục các văn nghệ sĩ về tính kỷ luật, sự lao động miệt mài trên cánh đồng văn chương. Ngày nào cũng “quy lát” như thời quân ngũ… Họ sống và viết bằng cả trái tim, khối óc. Các bậc “tiền bối”, “đàn anh” say sưa, nhân hậu và không kém phần tếu táo như anh Hồ Bá Thược, Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Bổng, Minh Phú… Anh Lê Huân - phụ trách truyền thông đã ngoài “bát thập” nhưng vẫn trẻ trung nhanh nhẹn và “khó tính” như kiểu ông Chánh tổng ngày xưa… Sau bữa ăn vào buổi chiều ngày 31/7, anh Lê Huân gặp tôi cứ hầm hừ: uống say đấy! Nhưng, bữa nào ông ấy cũng khều khều tôi ngồi cùng (thú thực lúc đầu bị ông ấy bảo uống say thấy “chợn”, nhưng rồi hiểu ra ông ấy chỉ đùa vui)…
Tôi không ngồi cố định ở 1 mâm với các anh chị đã quen biết, hay từng ngồi lần nào đó, mà luôn thay đổi chỗ ngồi theo từng bữa. Và cứ tếu táo như lẽ thường với anh Hồ Bá Thược, anh Nguyễn Văn Dũng và bạn Nguyễn Xuân Hùng (trẻ nhất trong số Văn nghệ sỹ nam). Có lúc trao đổi về thơ thật nghiêm túc như kiểu của Đại tá Nguyễn Hữu Quý, có lúc khôi hài vận thơ vần “khó nói” rồi ha ha, hi hi… Quan trọng nhất là tình đồng đội không hề phai mờ theo năm tháng. Có lúc anh tôi, lúc mày tao, đúng chất lính năm nào. Cụ Vương Văn Kiểm dù U90 vẫn say mê sáng tạo, vẫn hăng hái như thời Thanh niên… Em Trịnh Lan Oanh cháy đến tận cùng qua từng con chữ với khát khao rất đời thường của người phụ nữ; lại rất tận tình, hăng hái, tỉ mỉ vì công việc chung. Cũng không thể không nhắc tới nhà thơ Nguyễn Xuân Hùng, mặc dù mắc bệnh hiểm nghèo tới gần chục năm, mới xạ trị và truyền máu về, nhưng vẫn sẵn sàng “nhập trại” có sự tháp tùng của chị. Ban Chủ nhiệm trại viết sau khi biết được tình cảm và tâm huyết của anh chị đã quyết định tài trợ một phần chi phí cho cả hai người. Sự có mặt của chị đã làm cả trại viết văn Trường Sơn 3 ấm lòng! Bởi, còn gì hơn thế? Người lính đâu phải chỉ biết căm thù mà còn có một trái tim biết yêu thương, biết đồng cảm sẻ chia?
Còn rất nhiều điều muốn nói, còn rất nhiều anh, chị, em chưa được gọi tên… Song, trong tôi, họ luôn hiện hữu, họ đã làm tôi vui hơn, khát khao viết nhiều hơn, để làm đẹp cho cuộc sống con người. Chia tay các anh, các chị mà bồi hồi xao xuyến. Lại nhớ những câu thơ đầm ấm bao lâu nay tôi từng ngâm nga khi giã bạn: “Bao cuộc đời ở nơi đây trọn vẹn/ Bao niềm vui tôi chẳng được xẻ chia/Tôi là kẻ chỉ một lần đi qua/Nên bâng khuâng cứ theo hoài nỗi nhớ…”
Hẹn gặp lại nhau ở trại viết TS4.
Nguyễn Duy Dương