------------------------
CHUYỆN VỀ “BÀ ĐẠI SỨ”
Đỗ Ngọc Thứ
“Khi phát hiện cháu bị nhiễm chất độc da cam, bố cháu khóc ghê lắm. Ông gục đầu xuống thành giường, đôi vai rung lên từng đợt: “Tại bố, tại bố”. Cho đến bây giờ, cháu cũng không thể quên những giọt nước mắt ấy. Nó kỳ lạ lắm, cứ đỏ bầm như máu và đọng dai dẳng trên khuôn mặt rám nắng của ông”.
Đấy là lời kể của cháu Vương Thị Quyên trong lần tôi gặp cháu tại Trung tâm bảo trợ xã hội Nạn nhân chất độc da cam/Dioxin Việt Nam – nơi Hội Văn học Nghệ thuật Trường Sơn tổ chức trại viết văn lần thứ ba.
Cái nắng cuối hè của Hà Nội dù đã bớt gay gắt nhưng cũng đủ làm những giọt mồ hôi vương trên mặt mọi người. Nhìn cháu nhỏ bé với đôi chân chim, lưng cõng khối u to như quả sầu riêng, liêu xiêu đi lại phục vụ trại viết, lòng mọi người như thắt lại. Hình ảnh ấy cứ ám ảnh và quẩn quanh trong giấc ngủ chập chờn của tôi. Sáng hôm sau, trại viết tổ chức giao lưu thơ ca giữa các hội viên, trong tiếng vỗ tay cổ vũ náo nhiệt, tâm hồn tôi trống rỗng. Tôi không đủ kiên trì và tâm trí để lắng nghe trước sự ám ảnh từ cháu. Tôi lặng lẽ rời hội trường, tiến đến phòng điều khiển âm thanh, ánh sáng do cháu phụ trách. Tại đây, tôi được cháu kể cho nghe chặng đường dằng dặc nỗi buồn đau của mình.
.jpg)
Vương Thị Quyên (bên trái) đang hướng dẫn một hội viên
cài đặt thêm phần mềm điện thoại thông minh(Ảnh Ngọc Thứ)
Vương Thị Quyên sinh năm 1989 tại xã Quảng Xuân, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình (nay là Quảng Trị). Cháu là con gái út trong gia đình có 4 anh em. Bố cháu, ông Vương Quốc Thuấn (1953), từng là một người lính chiến đấu trên chiến trường Trường Sơn và Đông Nam Bộ, nơi gánh chịu nhiều chất độc hóa học nhất trong kháng chiến chống Mỹ. Từ khi phát hiện bệnh, gia đình đã đưa cháu đi chạy chữa khắp nơi nhưng không khỏi. Cơ thể cháu bị những cơn đau hành hạ, thân hình ngày càng gầy gò ốm yếu, chỉ có khối u trên lưng là phát triển nhanh làm cháu đi lại khó khăn. 5 năm học tiểu học là 5 năm Quyên ngồi trên lưng bố mẹ hoặc các anh. Ngày Quyên biết ê a con chữ cũng là lúc Quyên bắt đầu nghe được những lời mỉa mai, miệt thị, khinh thường. Những biệt danh “con khuyết tật”, “con quái thai”…như những mũi dùi nung đỏ đâm vào da thịt. Quyên sợ hãi, tuyệt vọng. Đã nhiều lần Quyên tìm đến cái chết để giải thoát khỏi những lời cay nghiệt, để không làm gánh nặng cho gia đình. Nhưng rồi sự quan tâm, tình yêu thương của gia đình, bè bạn đã níu Quyên lại và trao cho Quên một động lực đủ lớn để vượt khó vươn lên. 4 năm Trung học cơ sở và 3 năm Trung học phổ thông là 7 năm Quyên ngồi sau chiếc xe đạp cà tàng của bố. Những năm Chín mươi của Thế kỷ trước, Quảng Bình quê Quyên còn khó khăn lắm. Những mái nghèo bạc phếch dưới nắng mưa. Tài sản của gia đình Quyên chỉ là mấy sào ruộng, một mảnh vườn với ít vạt khoai, luống cà, còn lại là tình người và lòng nhân ái. Tốt nghiệp THPT, Quyên quyết định chọn học Trung cấp Tin học, trường Đại học Quảng Bình. Bởi Quyên nghĩ, ngành đó phù hợp với điều kiện sức khỏe của bản thân. Bằng sự động viên, giúp đỡ của gia đình, bè bạn cùng sự nỗ lực vượt khó vươn lên của chính mình, Quyên đã tốt nghiệp Trung cấp Tin học. Quyên mang hồ sơ đi gõ cửa khắp nơi để rồi nhận lại những cái lắc đầu ngao ngán. Một lần nữa nỗi thất vọng lại dâng đầy.
Nghe câu chuyện của Quyên, tôi thầm nể phục và trân trọng. Chẳng biết cháu lấy sức lực ở đâu để có thể vượt qua những tháng ngày mà sóng gió cứ liên tiếp dập vùi. Dường như đọc được những suy nghĩ trong tôi, Quyên khẽ khàng:
- Cuộc đời này có nhiều tấm gương để mình soi, có nhiều tấm lòng giàu sự cảm thông và sẵn sàng sẻ chia lắm chú. Cháu có việc làm ổn định như hôm nay cũng chính là nhờ những tấm gương đó, những tấm lòng đó. Tình cờ cháu biết đến “Hiệp sĩ” Nguyễn Công Hùng quê Nghệ An. Anh là người khuyết tật bị bệnh nhão cơ, thân hình gầy gò, ốm yếu không thể đi lại được, phải ngồi xe lăn nhưng hàng ngày anh vẫn đến lớp để dạy, đào tạo phổ cập tin học và ngoại ngữ cho người khuyết tật và trẻ em mồ côi. Từ đó cháu nghĩ, những người như anh Nguyễn Công Hùng còn khó khăn hơn cháu mà vẫn làm được những việc có ích cho đời, tại sao cháu lại không? Vậy là cháu tiếp tục vác hồ sơ đi gõ cửa các nhà tuyển dụng. May mắn cháu được ông Đặng Ngọc Văn – Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin huyện Quảng Trạch nhận vào làm văn phòng tại Huyện Hội.
- Quyên này, sao chú thấy mọi người ở đây gọi cháu là “Bà Đại sứ”?
- Họ gọi vui mà chú. Chẳng là năm 2019, cháu được chọn làm Đại sứ Da cam trong chương trình nhắn tin “Chung tay xoa dịu nỗi đau da cam”. Họ có biết đâu để có danh xưng ấy cháu phải trải qua một chặng đường ăm ắp nước mắt.
Lời của Quyên như đến từ một nơi rất xa. Tôi thấy trong đôi mắt cháu có cái gì như là giọt nước ứa ra. Quyên đưa bàn tay xanh gầy gạt ngang mắt, rồi tiếp:
- Sau hơn 1 năm làm việc tại Hội Nạn nhân chất độc da cam/Dioxin huyện Quảng Trạch, cháu nhận được học bổng du học ngành Báo chí – Truyền thông tại trường Đại học NIILM – Bang Haryana - Ấn Độ theo chương trình “Tìm kiếm tài năng nữ sinh trẻ” của Trung ương Hội Nạn nhân chất độc da cam/Dioxin Việt Nam do Bộ Ngoại giao Việt Nam và Ấn Độ phối hợp.
- Trời! Cháu đã đi du học nước ngoài về ư?
- Dạ chú. Đó là 3 năm kinh hoàng nhưng cũng là 3 năm mang lại cho cháu nhiều niềm vui và hạnh phúc. Chú biết không, lần đầu tiên cháu rời xa gia đình đến một đất nước xa xôi, không một người thân quen. Lúc mới sang, cháu chưa biết tiếng Anh nên khó khăn nhân đôi khi mọi thứ đều mới lạ, khác biệt. Ấn Độ là quốc gia đa văn hóa, đa tôn giáo, khí hậu khắc nghiệt, họ chủ yếu ăn chay. Vì vậy, nhiều hôm cháu phải nhịn đói đến lớp dẫn đến sức khỏe ngày càng ốm yếu và phải vào bệnh viện.
- Thế còn cái gọi là niềm vui, hạnh phúc?
- Vâng. Tuy sức khỏe yếu, nhiều lần phải vào bệnh viện trong điều kiện không có người thân chăm sóc. Vất vả lắm, nhưng cháu quyết không bỏ cuộc. Sau 3 năm, trải qua bao khó khăn, vất vả, với sự giúp đỡ của nhà trường, bạn bè quốc tế, anh chị em Việt Nam sinh sống tại Ấn Độ và sự nỗ lực, cố gắng học tập của bản thân, cháu đã hoàn thành khóa học và nhận được tấm bằng loại giỏi. Cháu đứng thứ Tư trong lớp. Đó là niềm vui. Còn hạnh phúc ư? Chỉ là khái niệm tương đối thôi chú. Có thể với mọi người đó là điều bình thường, nhưng với hoàn cảnh của cháu thì đấy là hạnh phúc. Trong thời gian học ở Ấn Độ, cháu cũng có tình cảm với một bạn trai Ấn. Có lẽ đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trái tim cháu được đập những nhịp đập khác thường; lần đầu tiên trái tim cháu được sưởi ấm bởi tình yêu lứa đôi. Cho đến bây giờ cháu vẫn luôn trân trọng tình yêu đó, dù nó không trọn vẹn.
- Lý do gì vậy cháu?
- Chú biết đấy, cháu là nạn nhân chất độc da cam, sức khỏe yếu, khoảng cách địa lý giữa hai đứa thì cách trở, văn hóa cũng khác biệt…cháu sợ không vượt qua định kiến của xã hội và áp lực từ mọi người, sợ gây thêm khó khăn cho gia đình nên cháu đành khép những ước mơ đó lại, vượt qua nỗi đau, cố gắng học tập, nỗ lực phấn đấu trong công việc hơn để có thể giúp được nhiều nạn nhân chất độc da cam/dioxin khác.
.jpg)
Vương Thị Quyên (thứ ba từ phải sang) đang dạy Tin học văn phòng
cho các nạn nhân da cam thế hệ thứ hai (Ảnh do nhân vật cung cấp)
Để biết thêm thông tin về Quyên, tôi đến gặp ông Nguyễn Thăng Long – Giám đốc Trung tâm. Thấy tôi muốn tìm hiểu về Quyên cũng như tình hình của Trung tâm, ông Long vui vẻ mời tôi vào phòng uống trà và trò chuyện. Ông chia sẻ:
- Quyên là một nhân viên tuyệt vời của Trung tâm chúng tôi đấy. Thông minh, chịu khó, nhiệt tình và trách nhiệm. Ai cũng quý. Anh biết rồi đấy, chiến tranh bằng vũ khí hóa học của Mỹ đã để lại cho đất nước ta 4,8 triệu người bị phơi nhiễm chất độc hóa học, trong đó có hơn 3 triệu người là nạn nhân chất độc da cam/Dioxin. Hiện nay, cả nước còn trên 2 triệu nạn nhân như thế. Họ là những người nghèo nhất trong những người nghèo nhất, đau khổ nhất trong nhưng người đau khổ. Bởi vậy rất cần sự chung tay của toàn xã hội. Trung tâm chúng tôi có sứ mệnh là huy động nguồn lực chăm lo cho các nạn nhân da cam. Từ năm 2019, có cháu Quyên về làm việc, Trung tâm chúng tôi có thêm một người góp phần đắc lực trong việc hoàn thành sứ mệnh này.
- Ông cho biết cụ thể hơn được không ạ?
- Tuy chỉ trong thời gian ngắn nhưng cháu Quyên đã tham gia nhiều chương trình, hoạt động, hội nghị, diễn đàn. Ví như tham gia giao lưu với nạn nhân bom nguyên tử Nhật Bản và sinh viên trường Đại học Hà Nội nhằm truyền tải thông điệp “Yêu chuộng hòa bình và phản đối chiến tranh” đến thế hệ trẻ của 2 nước Việt – Nhật. Được chọn làm Đại sứ Da cam trong chương trình nhắn tin “Chung tay xoa dịu nỗi đau da cam 2019” nhằm kêu gọi các tổ chức, các bộ, ban, ngành, nhà hảo tâm, toàn thể nhân dân, bạn bè trong nước và quốc tế nhắn tin cùng chung tay giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam; tham gia phát biểu chia sẽ về thảm họa da cam, về quá trình vượt lên nỗi đau da cam và nổ lực vươn lên của bản thân để hòa nhập cộng đồng trở thành người có ích trong Hội nghị “Không gian mở” với chủ đề “Nạn nhân chiến tranh” trong khuôn khổ diễn dàn nhân dân Á – Âu; tham gia Hội nghị trực tuyến của Hội Nạn nhân chất độc da cam/Dioxin Việt Nam – Hội đồng chống bom A & bom H Nhật Bản với chủ đề “Vì sao chúng ta phải phối hợp hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam Việt Nam và đấu tranh đòi thủ tiêu vũ khí hạt nhân và các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt” đến với bạn bè quốc tế…Thế đấy, chẳng có sự thấu hiểu, sẻ chia nào chân thành, hiệu quả bằng chính những người trong cuộc, những người cùng chung cảnh ngộ, cùng chung nỗi đau như Quyên.
.jpg)
Vương Thị Quyên đang trình bày Dự án ứng dụng “Vượt lên chính mình”
tại Trường Đại học Cơ Tin ở Australia (Ảnh do nhân vật cung cấp)
Tôi chia tay ông Nguyễn Thăng Long khi hoàng hôn đã nhuộm tím trời chiều. Gió ngoại ô cứ thổi mênh mang, mang theo hương cỏ cây dịu nhẹ, vấn vương. Trên đường về, tôi cứ suy nghĩ về câu nói của Quyên và cầu mong nó sớm thành sự thật: “Cháu mong muốn mình sẽ là người tiếp nối truyền thống của các nạn nhân chất độc da cam/Dioxin như anh Nguyễn Công Hùng, cô Trần thị Tố Nga, chị Phạm Thị Nhí…là người truyền lửa cho đông đảo công chúng và thế hệ trẻ ngày nay biết đến, hiểu, đồng cảm và sẽ chia nỗi đau cùng với nạn nhân chất độc da cam, giúp họ có nghị lực vượt qua số phận, vươn lên trong cuộc sống. Còn xa hơn, cháu muốn mọi người được sống trong một thế giới hòa bình, hợp tác, phát triển; không có chiến tranh, không có vũ khí hóa học để không còn phải nhìn thấy cảnh đổ máu, mất mát, đau thương… để thế hệ mai sau trở thành những con người đúng nghĩa được sống trong tự do, bình đẳng, hạnh phúc, yêu thương và đầy lòng nhân ái”./.
Đỗ Ngọc Thứ
Chủ tịch Chi hội VHNT Trường Sơn Đà Nẵng