“Thăm bạn nơi chiến trường xưa” - Truyện ký của Lê Thuần

Ngày đăng: 06:59 08/09/2025 Lượt xem: 32
------------------------
 
THĂM BẠN NƠI CHIẾN TRƯỜNG XƯA
Truyện ký của Lê Thuần

       Tôi trở lại mảnh đất ấy vào một sáng tháng Năm, khi cái nắng vừa mới lên đã đủ làm mờ mắt người già. Cỏ dại phủ xanh rì, nuốt trọn những dấu tích từng có những ngày xa ngái, nhưng với tôi, nơi đây vẫn hiện rõ từng hang đá, từng bờ suối, hố bom, từng vệt lửa đạn. Dù đã hơn năm mươi năm, tôi gọi nơi này là “chiến trường xưa”, và hôm nay, tôi về để gặp lại bạn tôi. Đó là liệt sĩ Nguyên Văn Mão.
       Mão và tôi cùng sinh ra bên bờ sông Chu, trong một xóm nhỏ ở thị trấn Thọ Xuân. Nhà nó bán bánh cuốn, nhà tôi làm ruộng. Tuổi thơ của hai đứa là những ngày hái rau cải dưới bãi sông, chiều về đá bóng lá chuối tại sân đình, rồi những tối ngồi học chung dưới ánh đèn dầu leo lét. Nó học giỏi, viết chữ đẹp, đặc biệt là hay làm thơ. Còn tôi thì ham vẽ bản đồ và đọc sách. Thế rồi mùa hè năm 1967, mới mười bảy tuổi, chúng tôi nộp đơn cùng một lúc tình nguyện nhập ngũ.
       Tôi còn nhớ rõ cái buổi chiều khi hai tôi lên đường sang Xuân Tân, nơi địa diểm tập kết bộ đội mới của huyện, hai đứa đứng dưới gốc bàng ven sông Chu, nó rút trong túi áo ra mảnh giấy nhỏ, đưa cho tôi:
- Tớ viết cái này đêm qua, phòng khi vào chiến trường xa nhau không gặp lại.
       Tôi cười xòa:
- Còn lâu! Hai thằng cùng đi thì phải cùng về chứ!
       Nó chỉ cười, nụ cười mà đến tận bây giờ tôi vẫn không quên được: dịu dàng, hiền khô, thanh thản, như thể đã nhìn thấy trước cả định mệnh.
      Chúng tôi hành quân theo đơn vị lên Cẩm Thủy. Được biên chế vào Tiểu đội 2, Trung đội 4, Đại đội 1. E2, F338. Ở đây chúng tôi huấn luyện 6 tháng là được lệnh vào chiến trường B2 miền Đông Nam bộ
      Cùng chung tiểu đội, chung hầm hào, chung bữa cơm độn mỳ bắp và bình tông nước suối. Có những đêm hành quân xuyên rừng, trời tối như mực, mọingười phải giữ cự li hành quân, người sau đặt tay lên vai người trước để lần từng bước, và mỗi người chỉ nhìn lên ánh sáng Mi nơ bàng bạc sau chiếc mũ cối của người lính đi trước. Khi mệt, Mão thường ngâm khe khẽ những câu thơ tự viết:
“Mười bảy tuổi xuân chí lớn thừa
       Dáng tùng dáng bách giấc mơ xưa...”
       Nghe thơ nó, tôi thấy như gió rừng dịu đi. Rồi một ngày, nó bảo tôi:

-Tớ muốn sau chiến tranh, sẽ học văn chương. Viết về những người như cậu.
       Tôi gắt:
- Điên à? Chiến tranh chưa biết sống chết, đã tính chuyện sau này!
       Nó chỉ nháy mắt:
- Phải có một giấc mơ chứ!
       Còn tôi chỉ “Ừ”! Cho nó vui.
      Đường hành quân thì dài. Đêm đi, ngày nghĩ. Suốt ba tháng trời len lỏi trên dãy Trường Sơn, xuyên qua đất Lào, Nhịn đói nhịn khát, cuối cùng đơn vị cũng đến nơi cần đến.
      Nơi chúng tôi đóng quân là những hang núi sâu hun hút bên rừng Nam Lào. Nhiệm vụ của đơn vị là mở con đường 95, tránh ngầm Suyn Phan nối đường 128. Ban ngày, chúng tôi rời cửa hang đi xuống chân núi, men rừng đi bộ hàng giờ mới đến mặt đường.
       Rồi đến cái ngày định mệnh ấy...Hôm đó, trên đường đi làm về. Trên đường về phải qua một đoạn ngầm chưa lát đá xong. Tốp đầu vừa qua hết, còn lại tiểu đội tôi vì phải dọn cây đổ ven đường nên mới vừa đến đầu dốc ngầm phía Bắc, thì bỗng nghe tiếng máy bay rít trên đầu. Chúng tôi nhảy vội vào hầm ven đường. Chúng dội bom tọa độ xuống trận địa. Khói, đất, đá và tiếng la lẫn lộn. Tôi bị sức ép, ngất đi trong hầm. Khi tỉnh lại, người đầu tiên tôi tìm là Mão. Nhưng chỉ thấy một góc áo đã cháy xém và cuốn sổ tay ướt đẩm máu...Mão đã hy sinh!
       Tôi không khóc. Trong suốt một tháng sau đó, tôi vẫn không khóc. Tôi giữ cuốn sổ ấy như một báu vật. Trong đó có bài thơ mà Mão từng đưa tôi đọc một đoạn:
“Huyết thư đâu nhỉ viết đêm khuya
Từ xóm ven sông mẹ biệt chia...”
        Mão chưa bao giờ đưa nó cho ai. Có lẽ nó giữ lại để cho tôi. Như lời nhắn cuối cùng.
       Tôi nhìn bầu trời, những vệt mây trắng trôi chầm chậm. Tôi từng nghĩ: người đã khuất, hẳn sẽ chọn mây để cư ngụ, bởi vì thứ nhẹ nhất, phiêu diêu nhất, bay mãi không rời mặt đất. Có tiếng lá xào xạc. Chắc là gió. Nhưng tôi tin rằng có một linh hồn đang lặng lẽ về bên tôi, cùng đứng trên chiến địa, như thể chúng tôi chưa bao giờ rời nhau.
       Chiều xuống dần. Tôi lấy từ ba lô ra cuốn sổ tay của Mão. Vẫn còn nguyên vết máu loang nâu đã khô cứng theo thời gian. Tôi lần giở từng trang, đọc thành tiếng:
“Biết bao kỷ niệm dấu còn ghi
Hẹn ước hai trai một buổi đi...”
       Chúng tôi đã cùng đi, nhưng chỉ có tôi trở về!.
      Vào cuối năm 1972, sau những tháng ngày đơn vị phối thuộc chiến đấu ở Quảng Trị rồi hành quân lên rừng Trường Sơn. Đầu mùa mưa năm ấy, đơn vị tôi được lệnh chuyển quân ra Bắc để an dưỡng. Trên vai tôi lúc ấy không chỉ là chiếc ba lô sờn cũ, mà còn là một món nợ ân tình với Mão, với gia đình nó, đặc biệt là mẹ Mão là bà Ba Thục.
       Khu an dưỡng của đơn vị tôi là miền tây Thanh Hóa, cách quê tôi chừng 20 km. Sau nửa tháng, khi mọi điều kiện ăn ở công tác đã ổn định. Tôi được chỉ huy đơn vị cho về phép. Vừa đặt chân về nhà, tôi vội vả chạy sang nhà bà Ba ngay.
       Tôi đã từng chần chừ rất lâu mới dám bước vào căn nhà nhỏ bên xóm ven sông năm nào. Khi bà Ba mở cửa, nhìn tôi. Dáng lom khom dưới nắng chiều, thấy tôi, bà chỉ lặng đi một hồi lâu rồi òa khóc. Bà nắm tay tôi:

-Cháu về rồi à! Mão đâu sao chưa về?…
       Tôi gật đầu, “Dạ, Mão sẽ ra sau ạ!”.
       Tôi không dám nhìn vào mắt bà Ba.
       Bà gục vào vai tôi như gục vào bóng dáng đứa con chưa về. Từ giây phút ấy, tôi gọi bà là “mẹ”, như một điều hiển nhiên. Mẹ không bao giờ trách tôi vì sao không đưa Mão về cùng. Rất may mẹ cũng không hỏi gì thêm nhiều về Mão. Bà chỉ lặng lẽ nấu cơm, pha trà, lầm lũi ra vườn dọn cỏ. Rồi mẹ đem đôi dép cao su cho tôi đi cho đỡ đau chân. Từng hành động nhỏ của mẹ như những lát dao cắt vào lòng tôi, vừa đau, vừa ấm áp.
       Thời gian nghỉ phép ở bêm mẹ đã nhanh chóng trôi qua. Tôi xin phép Mẹ trở về đơn vị.
       Những năm sau chiến tranh, tôi về quê, ở hẳn cạnh mẹ Mão, chính quyền xã đã thông báo cho mẹ rằng Mão đã hy sinh và đã làm lễ truy điệu cho Mão.
       Từ nay tôi thay nó cuốc đất, dựng lại mái tranh xiêu vẹo, rồi giúp mẹ nhiều việc khác. Mỗi năm, vào ngày giỗ Mão, tôi đều cùng mẹ làm mâm cơm nhỏ, đơm bát chè nếp, thắp ba nén nhang trước bàn thờ trải lót bằng vải điều, đặt dưới tấm di ảnh đã bạc màu. Vách đất lở lòi cả hom rơm, nhưng khói hương không bao giờ tắt.
       Rồi đến năm 2001, tin vui đến trong một buổi chiều tháng Bảy. Chính quyền xã báo về:” Bà Ba được Chủ tịch nước ký quyết định trao tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng.” Vì có một con độc nhất là Liệt sĩ.
       Tôi đi làm trên xã về, vội vã báo tin cho mẹ. Mẹ lặng đi khi nghe tin. Bà vuốt tóc rồi nhìn lên ảnh Mão. Mẹ châm lửa lên chiếc đèn dầu, lặng lẽ rút nén nhang: “Con ơi, mẹ không mong gì hơn, chỉ mong người ta nhớ đến con”.
       Hôm nhận danh hiệu, mẹ mặc chiếc áo dài tôi may, tay run run nhận bằng, nước mắt rơi lên những dòng chữ vàng óng. Tôi đứng bên, không giấu được sự xúc động. Một phần vì vui, phần khác là nghẹn ngào cho tất cả những bà mẹ đã tiễn con đi mà không đón được con ngày trở về.
       Những năm sau đó, xã và huyện vận động xây nhà tình nghĩa cho mẹ. Mùa thu năm 2010, một ngôi nhà hai gian mái ngói đỏ tươi, được khánh thành, do Ban liên lạc bộ đội Trường Sơn và Uỷ Ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Chử thập đỏ huyện Thọ Xuân tài trợ. Tường sơn màu vàng nhạt, hiên rộng để mẹ ngồi đón nắng, nhìn lũ trẻ ngoài đường đi học về.
       Gian giữa nhà có một bàn thờ mới, nghi ngút khói hương, đặt trang trọng di ảnh của Mão đã được nhà ảnh Nguyễn Thống làm mới lại. Tôi cùng mẹ mua thêm một tấm phản gỗ nhỏ kê giữa nhà để khách thắp nhang ngồi uống nước. Hàng năm, cứ đến dịp 27/7, các cháu thiếu nhi, bà con xóm làng, các anh Cựu chiến binh lại đến dâng hoa, dâng hương trước bàn thờ liệt sĩ Mão.
       Có hôm, tôi ngồi rót nước cho đám trẻ:
- Các cháu biết không, chú Mão của các cháu lúc nhập ngũ vào Nam đánh Mỹ mới học dở lớp 7, chỉ hơn các cháu vài tuổi thôi đấy!.
       Một đứa gái nhỏ tròn mắt:
- Sao lại đi đánh giặc khi còn học lớp bảy ạ?
       Tôi xoa đầu nó, nghẹn ngào:
- Vì ngày ấy, khi nghe tiếng gọi Tổng động viên của Bác Hồ, thanh niên ai ai cũng hưởng ứng lên đường tòng quân giết giặc. Ai cũng nghĩ: nếu không đi diệt giặc thì đất nước không còn. Bác còn nói: "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn thì chúng ta cũng phải đánh thắng giặc Mĩ xâm lược, giải phóng miền Nam"
       Mẹ Mão, bà Ba Thục sống đến gần chín mươi tuổi. Đến tận năm cuối đời, bà vẫn lúi húi lau chùi bàn thờ con mỗi sáng. Bà bảo:
- Con tao về thăm tao mỗi đêm, tao thấy nó đứng cuối giường cười.
       Ngày bà mất, chính quyền tổ chức tang lễ chu đáo. Tôi đứng chịu tang như con trai trưởng. Trên di ảnh đặt cạnh ảnh bà là ảnh Mão. Hai mẹ con đoàn tụ trong một bức tranh yên bình sau gần sáu mươi năm cách biệt.
Giờ đây, mỗi dịp trở lại chiến trường cũ, tôi vẫn mang theo một nắm đất trong vườn nhà Mão. Tôi trải nó lên gốc cây Bồ Đề bên linh thờ Nghĩa trang Trường Sơn, nơi cậu đang yên nghĩ cùng mười ngàn đồng đội đã sống chiến đấu nơi đây. Tôi mong hình hài mẹ qua nắm đất đã trở lại với con, đưa bóng hình mái nhà tranh về giữa đại ngàn Trường Sơn.
       Tôi đã sống trọn một đời để giữ lời hẹn năm mười bảy tuổi ấy, câu thơ của Mão tôi vẫn ghi nhớ:
“Hẹn mai sau nhé chốn vô vi...”
       Tôi đọc lại câu thơ của Mão. Đó cũng là lời hẹn âm thầm giữa hai người bạn. Có thể, một ngày nào đó, tôi sẽ đi vào chốn "vô vi" như nó. Và nơi nào đó, giữa rừng, giữa mây, giữa đại ngàn Trường Sơn, chúng tôi lại ngồi bên nhau, đọc thơ, kể chuyện, mỉm cười, như chưa từng có chiến tranh.
       Và tôi tin, khi tôi khép mắt lại, Mão sẽ ra đón tôi nơi nghĩa trang Trường Sơn ấy. Vẫn dáng nhỏ thó nhanh nhẹn, nó nắm tay, cười hiền nhìn tôi và bảo:
- Mày đến rồi à?
- Ừ! nơi này tao đã đến 3 lần rồi. Hai lần trước là đến đây tìm mộ mày, nhưng chưa thấy. Lần này gặp mày đây, chắc toại nguyện rồi!
       Hai chúng tôi dắt tay nhau đi giữa bao đồng đội xếp thẳng hàng chào đón trên Nghĩa trang Quốc gia Trường Sơn. Chỉ có một điều họ thắc mắc: Tại sao một người tóc đã bạc phơ thế kia, còn một trẻ măng, vẫn tuổi Hai mươi?

Lê Bá Thuần
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn

 

tin tức liên quan