Hồi ký và thơ của Nguyễn Ngọc Bào
Ngày đăng:
02:42 30/10/2018
Lượt xem:
994
Hồi ký và thơ của Nguyễn Ngọc Bào
LỜI MỞ ĐẦU
Để có kỷ vật lưu niệm 5 sự kiện: Tết Kỷ Dậu năm 2019 tôi sẽ được mừng thọ 85 tuổi đời + Đón nhận huy hiệu 60 năm tuổi Đảng + Kỷ niệm lần thứ 70 ngày tòng quân bộ đội Cụ Hồ (1949 – 2019) + Kỷ niệm 60 năm ngày ra đời con đường Trường Sơn huyền thoại (19/5/1959 – 19/5/2019) mà tôi đã được trưc tiếp ham gia chiến đấu 10 năm và tôi mới được Nhà Nước tặng thưởng Huân chương bảo vệ Tổ Quốc hạng ba. Tôi tự nhủ và hạ quyết tâm từ nay (tháng 6 năm 2018) đến cuối năm 2018 sẽ viết xong những mẩu chuyện kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời và tuyển chọn một số bài thơ đã sáng tác có ý nghĩa. Trước hết là để lại di sản tinh thần cho con cháu sau này hiểu được sự nghiệp của ông cha để tự tu dưỡng rèn luyện học tập noi theo; Đồng thời lưu tặng đồng chí, đồng đội, bạn bè của tôi để qua đó có thể hiểu nhiều hơn, xâu hơn về chân dung của một con người .
Khi viết tập “Ký và Thơ một thời để nhớ” này, tôi có một thuận lợi cơ bán đó là:
Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu nước, khi tôi tái ngũ tháng 5 năm 1965 đang là Bí thư huyện đoàn Thanh niên huyện Đông Anh, tôi đã được đồng chí Bí thư Thành Đoàn Thanh niên Hà Nội tặng một quyển sổ tay lưu niệm. Qiuá trình sống chiến đấu ở tuyến đường Trường Sơn tôi đã tranh thủ những lúc nhàn rỗi để ghi chép nhật ký, trong đó có khái quát quá trình tham gia cách mạng từ lúc 15 tuổi tòng quân cứu nước tháng 2 năm 1949 trở đi trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tiếp theo cho đến thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Khi ghi chép hết quyển sổ tay được thành Đoàn Hà Nội tặng thì tôi mới tạm ngừng không viết hồi ký nữa. Năm 2010 vừa qua tôi đã in ấn xuất bản quyển hồi ký “Ghi để nhớ một thời chinh chiến” trong đó là toàn bộ nội dung trong quyển hồi ký trên. Đến nay tôi lựa chọn một số kỳ niệm xâu sắc trong quyển hồi ký trên để diễn đạt minh họa cụ thể tỷ mỷ hơn, cho nên những số liều về thời gian, về địa điểm, về tên các nhân vật trong các mẩu chuyện mới có cơ sở đảm bảo được tương đối chính xác. Nếu không có quyển hồi ký trên thì đến nay chắc chắn tôi không thể nào viết ra đời được quyển “Ký và thơ một thời để nhớ” này được.
Căn cứ vào thăng trầm quá khứ của cuộc đời và bối cảnh lịch sử của đất nước mà tôi đã đồng hành. Tôi tự sắp xếp quyển ký và thơ thành 2 phần lớn: Phần văn và phần thơ.
Trong phần văn có nhiều nội dung và dài nên tôi chia ra làm 4 giai đoạn phù hớp với bản thân và bối cảnh của đất nước :
- Phần thứ nhất : Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1946 - 1954-
- Phần thứ hai : Trong 10 năm Miền Bắc hòa bình xây dựng 1954 – 1964
- Phần thứ ba : Trong 10 năm đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược 1965 – 1975
- Phần thứ bốn : Đất nước hòa bình, thống nhất xây dựng XHCN 1975 đến nay
Với trình độ học vấn tốt nghiệp cấp II bổ túc văn hóa, lại chưa được học hỏi bồi dưỡng một lần nào về cách viết văn chương, về niêm luật thơ ca…. nên khi viết văn và làm thơ chắc chắn không tránh khỏi sự vụng về và khiếm khuyết. Vì vậy tác giả rất mong được các bạn đọc thông cảm và rộng lượng tha thứ .
TÓM TẮT THỜI THƠ ẤU
Tôi được sinh ra ngày thứ bảy mồng 8 tháng 8 năm 1934 (tức ngày 28 Tân Hơi, tháng 6 Tân Mùi, năm Giáp Tuất 1934 ) tại một làng quê bên bờ đê hữu ngạn sông Hồng, cách cầu Thăng Long khỏang 3 km phía trên thượng nguồn. Đó là thôn Sáp Mai, xã Võng La, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Quê hương tôi nghèo lắm, thẻ hiện qua câu ca dao truyền khẩu nhiều đời : “Rau lang ăn với củ lang – Không đâu sung sướng bằng làng Sáp Mai”. Gia đình tôi là một gia đình nghèo ở trong một làng nghèo, ngoài 1 sào đất thổ cư với một mái nhà tranh tre của ông Nội tôi để lại cho bố mẹ tôi ra không có một thước đất để cắm dùi. Bố mẹ tôi sinh hạ được 6 anh chị em ( 2 trai, 2 gái)) tôi là trai thứ hai sau Anh cả và trên 2 cô em gái, hiện nay 4 anh em vẫn đang sống khỏe mạnh. Bố tôi là viên chức nhà nước, mẹ tôi buôn thúng bán mẹt và cấy thuê làm mướn kiếm từng đồng xu để nuôi nấng chúng tôi nên người. Tôi luôn thấu hiểu và ghi lòng tạc dạ câu ca dao : “Công cha như núi thái sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra ….”. Bằng hành động cụ thể suốt cuộc đời tôi từ nhỏ đến lớn luôn tự giác cần cù chăm chỉ tham gia lao động giúp bố mẹ từ việc nhỏ đến việc lớn để bố mẹ được vui lòng, yên tâm không phải lo nghĩ vì mình là một đứa con hư. Đến nửa cuối đời bố mẹ được mát mặt vinh dự tự hào vì đã có đứa con hiếu thảo không ngừng tiến bộ, tận tụy cống hiến cho nước, cho dân. Bản thân tôi cũng rất đỗi tự hào là dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn quan tâm chăm sóc Cha Mẹ chu đáo. Cha mẹ đã ở với vợ chồng tôi cho đến lúc qua đời.
Đặc điểm đất nước và xã hội Việt Nam khi tôi được sinh ra và lớn lên trong bối cảnh dân tộc Việt Nam ta đã bị bọn thực dân Pháp xâm lược trở thành một nước thuộc địa , người dân trở thành dân nô lệ không có độc lập, tự do. Bị thực dân Pháp bóc lột đến tận xương tủy, hậu quả nặng nè nhất là năm Ất Dậu 1945 đồng bào ta đã bị chết đói trên 2 triệu người. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 8 năm 1945 toàn dân ta vùng lên tổng khởi nghĩa đánh đổ thực dân Pháp giành lại chính quyền về tay nhân dân Việt Nam, Nước Việt Nam dân chủ, cộng hòa – độc lập, tự do, hạnh phúc ra đời. Thế nhưng chẳng được bao lâu bọn thực dân Pháp lại tiến hành chiến tranh xâm lược nuớc ta một lần nữa. Nhân dân ta quyết không chịu để mất nước, quyết không làm nô lệ cho thực dân Pháp một lần nữa, nên tiếng súng mở đầu toàn quốc kháng chiến đã nổ ra đêm ngày 19/12/1946. Lúc đó tôi mới có 12 tuổi cùng gia đình chạy tản cư lên thôn Nội Đồng, xã Đại Thịnh, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên (Cạnh quốc lộ 23 từ Sáp Mai lên khoảng 12 km). Tại đây đầu năm 1949 khi tôi mới có 15 tuổi đã trốn gia đình tình nguyện xung phong tòng quân vào Tỉnh Đội Phúc Yên. Từ đó kết thúc thời tuổi thơ ấu của tôi, sớm chuyển sang một giai đoạn mới của tuổi trưởng thành và kéo dài trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm biến cố của bản thân và của đất nước….. cho đến ngày nay tuổi đã xế chều sắp đến chân dốc cuộc đời, vui vẻ sẵn sàng về với Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ bên kia thế giới tâm linh.
Ơn nhờ Tổ tiên, Ông Bà, Cha Mẹ phù hộ độ trì. Ơn nhờ được hưởng chế độ chính sách ưu đãi người có công của Đảng và Nhà Nước, cộng với sự nỗ lực tu dưỡng rèn luyện phấn đấu vươn lên của bản thân nên lúc này tuy đã 85 tuổi tôi vẫn có được một sức khỏe tương đối tốt, có được một trí tuệ vẫn còn minh mẫn để suy nghĩ ghi chép lại những mẩu chuyện kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời của tôi.
- 5 -
Phần thứ nhất
9 NĂM KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
Tháng 12 năm 1946 đến Tháng 7 năm 1954
- 6 -
NẾM MÙI GIAN KHỔ ĐỜI LÍNH CỤ HỒ
Sau thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền 19/8/1945. Lúc đó tôi mới có 11 tuổi đời, đã sớm tham gia làm đội trưởng Đội nhi đồng và thiếu niên cứu quốc. Năm 1947 tôi tham gia làm giao thông quân báo cho Xã Đội du kích và giao thông nghiệp dư cho Huyện đoàn Thanh niên cứu quốc huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên. (Lúc này tôi cùng gia đình đang sống ở nơi tản cư: Thôn Nội Đồng, xã Đại Thịnh, huyện Yên Lãng).
I
Ngày 22/2/1949 (25 tháng giêng sau tết năm Kỷ Sửu) tôi mới 15 tuổi tại nơi tuyển quân ở đình thôn Liễu Trì, xã Đại Thịnh tôi đã tình nguyện xung phong đi bộ đội, được biên chế vào cơ quan Tỉnh Đội Phúc Yên, lúc đầu trong đội thiếu sinh quân, sau chuyển sang làm chiến sĩ liên lạc, hàng ngày tiếp nhận công văn giấy tờ của Ban hành chính chuyến đến các bộ phận trong cơ quan Tỉnh Đội (đóng quân phân tán ra nhiều thôn trong 1-2 Xã liền kề nhau) thỉnh thoảng dù ban ngày hay ban đêm cũng phải chạy bộ chuyển các công văn mật và hỏa tốc xuống các Huyện Đội.. Nhớ nhất chuyến đầu tiên xuất phát lúc 6 giờ tối từ nơi đóng quân của Tỉnh Đội ở làng Phù Trì, huyện Kim Anh xuống Huyện đội huyện Đông Anh đóng quân ở xã Cổ Loa với một cung đoạn đường dài gần 30 cây số, chỉ có một mình bé nhỏ tí teo đi trong đêm tối mịt mùng không có đèn pin hay bật lửa đi theo các con đường mòn chạy dài giữa các cánh đồng mênh mông phải 5-7 cây số mới đi qua một làng xóm ven đường. Bên tai chỉ nghe toàn tiếng nỷ non của giun dế và mắt nhìn chỉ thấy lập lòe gần xa của những con đom đóm, khi qua những chỗ có nhiều mồ mả bên đường củng cảm thấy ớn lạnh sợ gập ma quỷ hiện ra cản đường, thế là vừa đi vừa chạy cho nhanh để vượt qua, tim thì hồi hộp trống ngực đánh thình thình. Cứ thế mãi tới hơn 2 giờ sáng mới tới nơi, lúc này cảm thấy thật sung sướng và hạnh phúc vì mình đã hoàn thành được nhiệm vụ, vượt qua được thử thách gian khổ đầu tiên trong đời người chiến sĩ. Sáng sớm hôm sau lại tiếp tục đi bộ quay trở về Tỉnh Đội, nhưng là ban ngày đàng hoàng không có gì phải hoảng sợ cả.
II
Đến tháng 7 năm 1949 quân lính của bọn thực dân xâm lược Pháp mới bắt đầu tiến quân từ Hà Nội sang đánh chiếm theo vết dầu loang cho đến hết năm 1949 thì chúng đã thôn tính, bình định lập chính quyền tay sai và xây xong đồn bốt gần hết 2 tỉnh Phúc Yên và Vĩnh Yên. Đầu năm 1950 ta đã tiến hành sát nhập 2 tỉnh Phúc Yên và Vĩnh Yên làm một gọi là tỉnh Vĩnh Phúc, vùng tự do chỉ còn nguyên vẹn có huyện Lập Thạch nối tiếp với một phần nhỏ của huyện Tam Dương và huyện Bình xuyên chạy dài sát chân dãy núi Tam Đảo xuống vùng chín suối, ba khe Thanh Lanh – Ngọc Bọi tiếp giáp với huyên Phổ Yên của tình Thái Nguyên. Địch phong tỏa bao vây chặt chẽ các kẽ hở tiếp giáp với vùng tự do, cắt đứt nguồn tiếp tế lương thực, thực phẩm, thuốc men, hàng hóa v.v… từ đồng bằng lên vùng tự do Thái Nguyên – Tuyên Quang – Phú Thọ. Lúc này đời sống của bộ đội và nhân dân ta cực kỳ khó khăn, thiếu thốn. Hàng ngày tiêu chuẩn bộ đội chỉ khoảng 2 lạng gạo, ngô, khoai sắn.
- 7 -
Vì vậy trong mỗi bữa ăn bình quân mỗi người chỉ được 2 lưng bát cơm hoặc 3 bát cháo
loãng, ăn nhạt vì thiếu cả muối, mà bộ đội Việt Minh lúc đó đều là quân tình nguyện xung phong vào bộ đội đi đánh giặc cứu nước hàu hết lả tuổi trẻ “Ăn không biết no – Lo thì chưa đến”, trong bữa ăn thường sẩy ra tình trạng: anh ăn nhanh thì được 2 bát, còn anh
ăn chậm chỉ được có 1 bát đã đói càng bị đói thêm. Vì vậy mới phát sinh tự quy định với nhau trong một mâm cơm sẽ cử ra 1 tổ trưởng điều hành đơm cơm thứ tự mỗi người một bát, anh nào ăn nhanh xong trước phải ngồi chờ, khi đồng loạt cùng xong lúc đó tổ trưởng mới đơm cơm tiếp đảm bảo tương đối đồng đều. Đồng thời quy định với nhau “Đã gắp rau thì không được chan nước canh – Đã chan nước canh thì không được gắp rau” mới đảm bảo hết bữa ăn.
Tình trạng thiếu muối ngày một nghiêm trọng, nghe nói than của cây cỏ tranh có độ mặn có thể thay được muối nên các anh nuôi đã đi nhổ cỏ tranh về đem đốt thành than, hòa vào nước lã rồi chắt lấy nước đem nấu canh có phần nào tác dụng. Hoặc có những bữa đem giã ớt chỉ thiên hòa vào nước thay muối để chấm rau muống, rau tàu bay. Sau bữa ăn nhiều lính tráng phồng rộp hết cả lưỡi cả mồm.
Cả cuộc đời tôi nhớ mãi có một lần khi cơ quan chuyến quân đến một địa điểm mới thì trời bắt đầu tối. Các anh nuôi liên hệ xin được bà con tốt bụng cho xuống ao cắt rau muống về luộc. Lúc ăn anh em đều khen rau ngon quá, và nước luộc cũng ngon nên thi nhau múc chan cơm và uống hết, mãi cho đến khi cạn đến đáy nồi thì…eo ôi có xác một con đỉa trâu to bằng ngón chân cái cuộn tròn trơ ra. Một số anh em kinh hãi quá đã nôn mửa đến mật xanh, mật vàng.
III
Năm 1950 tôi bị sốt rét nhiều lần, ngày một gầy yếu nên phải đi nằm điều trị ở bệnh xá của Tỉnh Đội. Giai đoạn này thuốc men đều rất thiếu thốn, riêng về bệnh sốt rét thuốc tiêm không có, chỉ có viên ký ninh. Bệnh xá phát huy sáng kiến: Dùng chày cối giã nát viên ký ninh ra rồi hòa nuớc cho vào nấu trưng cất, lấy nước trưng cất đem tiêm vào mông các bệnh nhân, còn bã ký ninh đem rót ra các bát để bệnh nhân uống vì vậy thuốc đã đắng càng đắng thêm. Gạo thiếu, rau thiếu nên những bệnh nhân sắp khỏi có sức khỏe tốt hơn thì hàng ngày tranh thủ người thì vào rừng hái rau tàu bay,lá non ngọn cây sắn và củ ráy dại; Người thì xuống suối mò cua, bắt ốc hoặc be bờ tát cạn từng đoạn bắt cá tép đem về nấu nướng vừa tăng thêm no cái bụng. vừa cải thiện tăng thêm chất dinh dưỡng cho đến khi ra bệnh xá về đơn vị.
IV
Năm 1951 trong một lần cơ quan Tỉnh Đội đang lưu vong đóng quân ở khu vực Hoàng Đờm –Xuân Cốt thuộc huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyển. Ban chỉ huy Tỉnh Đội quyết định chuyển địa điểm từ huyện Phổ Yên Thái Nguyên hành quân đường dài từ phía Bắc vượt qua đỉnh núi Tam Đảo sang phía nam về đóng quân ở huyện Lập Thạch đang là vùng tự do duy nhất còn lại của Tỉnh Vĩnh Phúc lúc đó. Theo kế hoạch ngày đầu hành quân.qua huyện Phúc Thuận đến Lán Than, Quan Chu chân núi Tam Đảo sẽ dừng nghỉ, đến sáng hôm sau mới leo núi vượt dốc trèo lên đỉnh núi Tam Đảo . Thế nhưng phần lớn
- 8 -
đội hình mới 2-3 giờ chiều đã tới đích, thế là Tỉnh Đội Trưởng quyết dịnh tiếp tục tranh thủ vượt dốc lên đỉnh Tam Đảo để ngày hôm sau nghỉ chân vãn cảnh Tam Đảo. Mọi người đều đồng thanh hưởng ứng hăng hái vượt dốc, tốp đầu tiên khoảng 5 giờ chiều lên đến nơi, trong đó có tôi. Cán bộ ban tham mưu đã tìm được chỗ đóng quân là ở trong Nhà Thờ đạo Thiên Chúa đang bỏ hoang, anh em đã linh hoạt xuống nhà dân mượn được một nồi nhôm to ba mươi đem về, rồi kiếm 3 tảng đá đặt thay cho 3 ông táo, ra suối múc đổ đày nước vào nồi đặt lên bếp rồi đổ một bao tượng gạo duy nhất trong số người lên trước khoảng 2 kg gạo vào nồi rồi nhóm bếp nấu bằng củi và lá cây thông khô. Đến khi nồi cháo sôi lên loay hoay mãi không có đũa to để quấy, lúc này có một anh kêu to “ đũa đây rồi”, thì ra là một chiếc gậy ba toong chống khi vượt núi được đem ra lau chùi sạch rồi cho vào nồi cháo để quấy cho nhanh nhừ. Khi cháo chín thì quá loáng vì một nồi 30 lít nước mà chỉ có 2 kg gạo (bình quân 15 lít nước chỉ có l kg gạo). Lúc này cán bộ, chiến sĩ đem bát ra để đựng cháo thì hầu hết bát ăn đều được gò bằng sắt tây mỏng, múc cháo đổ vào nóng ơi là nóng, mà muối cũng không có, nhưng do dạ dày mọi người đều lép kẹp sau một ngày hành quân dài trên 50 km, chỉ có một nắm cơm ăn bữa trưa trên đường mà thôi.
Lúc này, khoảng 8 giờ tối một tình huống đột xuất sảy ra, đó là: Bộ phận nuôi quân do phải cõng, khiêng nồi niêu xoong chảo cồng kềnh nên lên đến đình Tam Đảo là bộ phận cuối cùng. Tổ trưởng nuôi quân tức tốc xin trực tiếp gập Ban chỉ huy Tình Đội để báo cáo một việc gấp: Qua tổ nuôi quân báo cáo thì hiện nay đang có 2 cán bộ là đồng chí Khang nhân viên Ban tham mưu và đồng chí Tình là nhân viên Ban quân báo, hai đồng chí này quản lý đem theo nhiều tài liệu lưu trữ tối mật và cực kỳ quan trọng, khi leo núi đến tảng đá bằng mới được khoảng trên nửa đường thì đói và mệt quá không thể đi được nữa. Hai đồng chí nhắn tổ nưôi quân lên báo cáo BCH Tỉnh Đội là đêm nay sẽ nằm lại ở đây nếu không may có bị hổ vồ ăn thịt hay thám báo biệt kích của địch đến bắt được thì cũng đành cam chịu. Thế là Tỉnh Đội Trưởng giao nhiệm vụ cho Ban Tham Mưu và Ban hành chính tổ chức ngay một bộ phận quay trở lại xuống dốc khu đá bằng để cứu đói và dìu đưa bằng được 2 đòng chì Khang và Tình lên đỉnh Tam Đảo ngay trong đêm. Bộ phận này có 5 người, được phân công: người đi đầu và đi thứ 4 sẽ đốt đuốc mở đầu, khóa đuôi, 2 đồng chí đem theo 2 súng trường đi thứ tự thứ 2 và thứ 5 được phép cứ đi được một quãng khoảng 100 mét thì bắn một phat súng để sua đuổi hổ đề phòng chúng vồ mất người. Còn 1 đồng chí đi giứa thứ tự số 3 thì sách đem theo một phạng sành mượn của dân đựng cháo bịt kín không để rơi vãi . Khi tổ cấp cứu xuống đến nơi thì thấy 2 đồng chí Khang và Tình vẫn đâng lăn ra ngủ li bì không biết gì. Sau khi được đánh thức tỉnh dậy nhận ra đồng đội thì 2 đồng chí rất mừng súc động khóc hu hu. Được đồng đội động viên an ủi và múc cháo ra mời ăn, thế là chỉ một loáng hai người đã húp hết phạng cháo loãng. Sau đó cùng nhau chia sẻ mang bớt tư trang, tài liệu của 2 đồng chí, cả tổ 7 người cùng nhau tiếp tục vượt dốc đèo núi cheo leo lên đến đỉnh Tam Đảo thì mặt trời đã hé mọc chân trời phía đông.
Sau khi được nghỉ ngơi đi xuống chơi thăm các nhà dân và đi vãn cảnh Tam Đảo một ngày, được hít thở không khí trong lành, mát dịu, sớm hôm sau toàn cơ quan Tỉnh Đội lại tiếp tục hành quân xuống dốc núi Tam Đảo theo con đường nhựa trải dài quanh co khúc khỷiu do thực dân Pháp xây dựng trước đây, đêm đó cơ quan tạm dựng chân ăn,
- 9 -
Nghỉ một bản người dân tộc sơn đầu ven chân núi Tam Đảo thuộc huyện Tam Dương. Tiếp theo ngày thứ ba thì kết thúc cuộc hành quân đường dài gần 150 km khi đã đến địa điểm đóng quân ở khu vực Bồ Tỉnh thuộc huyện Lập Thạch, là vùng tự do hoàn toàn còn lại của Tỉnh Vĩnh Phúc lúc đó.
HOẠT ĐỘNG TRONG LÒNG ĐỊCH
Tại địa bản tỉnh Vĩnh Phúc sau 3 năm địch tạm chiếm (1950-1953) thế trận giữa ta và địch ngày một thay đổi: Ta càng đánh càng mạnh, chiến tranh nhân dân càng phát triển. Còn địch thì ngảy càng suy yếu co cụm về đóng quân cố thủ trong các đồn bốt. Ta đã xây dựng được các căn cứ du kích và các khu du kích liên hoàn nối tiếp giữa các Huyện với nhau. Mỗi Huyện đã được thành lập một đại đội bộ đội địa phương phân tán về phối hợp với dân quân du kích các Xã phá tề, trừ gian, xây dựng cơ sở kháng chiến đào hầm bí mật nuôi dưỡng, cất dấu cán bộ về hoạt động, chống địch càn quét và bao vây đồn bốt địch. Toàn Tỉnh đã thành lập 1Tiểu đoàn chủ lực chủ yếu là hành quân từ vùng tự do vào đánh tiêu diệt các đồn bốt nằm xâu trong lòng địch xong rồi lại rút ra . Tổ chức đánh địch khi chúng càn quét ra vùng tự do của ta.,
Cuối năm 1952 Tỉnh Đội Vĩnh Phúc thành lập một Ban chỉ huy tiền phương từ huyện Lập Thạch phân tán theo giao liên dẫn đường hành quân ban đêm vượt qua vùng địch tạm chiếm và các đồn bốt từ chân núi Tam Đảo vào đến khu du kích huyện Yên Lạc ở trong và ngoài đê Sông Hồng như xã Nguyệt Đức, Trung Hà, Lưỡng quán, Kim Lân, Rau Tự. Bộ phận cơ quan phục vụ chỉ huy tiền phương chủ yếu là cán bộ tham mưu tác chiến, tình báo, trinh sát, địch vận, văn thư, đài vô tuyến 15 kw. Tôi vinh dự được tham gia với chức trách là nhân viên văn thư đánh máy mệnh lệnh, chỉ thị, mật khẩu gửi giao liên chuyển xuống các Huyện Đội và các đại đội địa phương đang đóng quân làm nhiệm vụ trong vùng tạm chiếm. Bộ phận tiền phương Tỉnh Đội có tính chất cơ quan tham mưu, không trực tiếp chiến đấu với địch nên qua nhiều lần bí mật di chuyển địa điểm để tránh các cuộc càn quét của địch và nhiều lần rút xuống hầm bí mật khi địch càn quét qua bảo vệ an toàn kéo dài được hơn một năm
Những kỷ niệm nhớ đời hơn 1 năm sống trong lòng địch :
Sống trong lòng dân
Cả một năm từ vùng tự do vào hoạt động trong lòng đich hầu hết các địa điểm đóng quân của tiền phương Tỉnh Đội đều phân tán sống trong từng gia đình cơ sở kháng chiến
Mỗi gia đình chứa 3-4 bộ đội. Chúng tôi đều được gia đình coi như con, em người thân ruột thịt trong gia đình. Gia đình đều nhường giường phản, chăn chiếu ưu tiên cho bộ đội, còn gia đình thì nằm bằng nong nia ở dưới đất. Cơm nước đều do gia đình nấu nướng, bộ đội ăn chung với gia đình, có những gia đình nghèo phải luộc ngô khoai ăn độn thì khi ăn gia đình cứ dành phần ăn độn nhiều hơn để nhường cơm trắng cho bộ đội. Khi địch càn quét đến thì phần lớn các gia đình đã có sẵn hầm bí mật đưa bộ đội xuống hầm, đậy nắp ngụy trang chu đáo xong mới tản cư hoặc ra tập trung cùng nhân dân ở một
nơi. Sau trận địch càn quét lại về mở hầm cho bộ đội lên sinh hoạt bình thường. Nhớ mãi
có một lần sau mấy ngày mưa to liên tục khi các gia đình rỡ hầm chứa thóc gạo (đề
- 10 -
phòng địch càn quét đến đốt phá mất) không may thóc gạo bị ngâm nước đã bốc mùi thum thủm như mùi tre ngâm. Tiếc của đem nấu ăn cả gia đình và bộ đội đều cố nhai nuốt, nếu không thì nhịn đói. Thỉnh thoảng các mẹ, các chị đi chợ về còn mua cho bộ đội
chúng tôi chiếc khăn rửa mặt, quần đùi, áo lót, khâu vá khi có quần áo cũ rách, …. tình cảm quân dân thật sâu nặng, ơn nghĩa biết bao.
Lần đầu tiên xuống hầm bí mật
Khi tiền phương Tỉnh Đội đang đóng quân đầu tiên ở thôn Kim Lân ngoài bãi Sông Hồng huyện Yên Lạc, lúc đầu phần lớn cán bộ chiến sĩ chưa biết chiếc hầm bí mật nó ra sao cả, chưa có kinh nghiệm thích nghi với hoàn cảnh sống trong lòng địch thì vào một buổi sáng sớm gập ngay một trận giặc Pháp đưa quân đi càn quét đánh phá khu du kích của ta. Lập tức bộ phận của tôi có 3 người là Bào, Cao, Tửu ở trong một gia đình được chị Xâm là giao thông quân báo du kích thôn đưa đến nơi có hầm bí mật ở ngay sau nhà đang ở nằm phía dưới một con đường mòn đi từ ngoài bãi vào trong làng. Chị Xâm mở cửa hầm cho chúng tôi xuống ( chiếc cửa hầm được đóng bằng gỗ như chiếc máng cho lơn ăn hình chữ nhật) thỉ chỉ có tôi và đồng chí Tửu nhỏ người xuống ngon lành, còn đồng chí Cao thì người to lớn quá, lúc đầu không sao chui xuống được. Chị Xâm có kinh nghiệm bảo đồng chí Cao dơ cao hai tay lên đầu như đầu hàng, khi tụt được xuống đến nách thì vướng, lập tức chị Xâm đang mặc váy chống càn đứng hai chân lên hai vai chùm cả váy lên trên đầu đồng chí Cao lấy đà dặm mạnh hai chân, lúc đó đổng chí Cao mới xuống được hầm bí mật. Sau khi đậy nắp hầm cải trang chu đáo, lúc đó chị Xâm mới đến hầm bí mật tự mở, đóng cửa hầm của mình. Sau một lúc yên ắng thì nghe thấy tiếng chân quân địch đi con đường mòn từ ngoài bãi vào làng mỗi lúc một gần, lúc này ở dưới hầm 3 chúng tôi hồi hộp căng thẳng lo lắng liệu có bị địch sục sạo tìm hầm bí mật phát hiện ra hay không ? nghe phía trên thỉnh thoảng rộ lên từng tràng súng nổ, nghe tiếng lợn kêu eng éc, tiếng gà kêu quang quác và tiếng tre nứa các nhà bị địch đốt nổ lốp bốp. Trong lúc địch đang sục sạo ở trên thì ở dưới hầm đồng chí Tửu kêu buồn ỉa quá, chúng tôi động viên cố nhịn được một lúc thì nghe ủm ủm và mùi hôi thối nồng nặc của phân người sông lên, ông tướng này cố nhịn không nổi đành phải tống cả ra quần như đứa trẻ con. Chịu đựng một lúc rồi mũi chúng tôi cũng quen dần.
Khoảng 10 giờ sáng sau khi địch lùng sục không phát hiện được hầm bí mật nào, chúng bắt mất một số lợn gà, đốt mất vài nhà của dân rồi chúng rút lui. Những bước chân của địch lại đi thình thịch ngay trên đầu chúng tôi. Được một lúc yên ắng thì chị Xâm đến đứng trên nóc hầm nói nhỏ: “Các anh ngồi yên để em mở nắp hầm đấy nhé” (vì thực tế có trường hợp người đậy hầm đến mở không báo trước, anh em bộ đội ở dưới có súng tưởng địch đã nổ súng bắn lên làm người mở hậm suýt chết). Khi mở nắp hầm ra, chị Xâm kêu ới giời ơi thối quá, phải gió các anh này. Tôi và đồng chí Tửu lại chui qua cửa hầm lên ngon lành, còn đồng chí Cao không thể nào chui lên được, Cuối cùng buộc chị Xâm phải tháo rỡ khung cửa hầm ra thì đồng chí Cao mới lên đưowjc. Từ đó chúng tôi mới rút ra kinh nghiệm : Buổi tối hàng ngày phải rèn luyện thành thói quen là phải đi đại tiện để đề phòng sáng sớm hôm sau địch có càn quét sớm phải xuống hầm bí mật thì không sẩy ra sự cố bất đắc dĩ trên. Thứ hai là phải chuẩn bị có chiếc xẻng con để đào lấp
- 11 -
lỗ chứa phân khi chuyện bất khả kháng trên sảy ra, thứ ba là chuẩn bị có chiếc đèn pin đem theo để khi xuống hầm soi kỹ xem có rắn rết hay không ? Thứ bốn là phải mang theo ít tỏi tươi khi xuống hầm để ở gần lỗ thông hơi để phòng chó béc giê của địch đi lùng sục không phát hiện được hầm. Thứ năm là phải đem theo hoặc có dự trữ sẵn dưới hầm một ít gạo rang, ngô rang và một hũ nước uống đề phòng địch càn quét và đóng quân ở lại sang ngày hôm sau sẽ không bị đói, bị khát.
Ngoài chuyện hy hữu trên xảy ra, tôi cùng đồng đội xuống hầm chống càn đã 1 lần có con rắn hổ mang đang ở dưới hầm, khi thấy động nó ngẩng cao đầu bạnh cổ xà ra phun phì phì, may mà có đèn pin soi sớm phát hiện, con rắn bò vào góc trong cùng nằm đó, còn chúng tôi cũng yên lặng ngồi bó gối ở phía ngoài, hai bên cùng cảnh giác đề phòng lẫn nhau cho đến khi địch rút lui, bộ đội mình được lên hầm an toàn. Đồng thời đã 2 lần xuống hầm bị ngạt gần chết: một lần ở thôn Mạnh Trữ, huyện Yên Lãng. Lần thứ hai ở thôn Mai Châu, xã Đại Mạch, huyện Đông Anh ngày nay. Qua kinh nghiệm thực tế sau mỗi đợt mưa to kéo dài nếu lúc đó phải xuống hầm bí mật thì rất dễ bị ngạt thở do lượng thán khí cacsbônic dưới hầm tăng lên, lượng khí ô xy còn rất thấp, nhất là hầm nào không đào lỗ thông hơi đối xứng Đông-Tây hay Nam-Bắc thì lại cực kỳ nguy hiểm dễ bị chết ngạt dưới hầm như chơi.
NHẤT NHẬT TẠI TÙ – THIÊN THU TẠI NGOẠI
. Đến tháng 12 năm 1953 quân Pháp điều 2 binh đoàn lính Âu Phi cơ động về càn quét đánh phá, truy đuổi bộ phận tiền phương Tỉnh Đội Vĩnh Phúc kéo dài suốt từ huyện Yên Lạc qua huyện Yên Lãng, rồi xuống đến huyện Đông Anh, cuối cùng đến ngày 10 /12/1953 giặc Pháp đã cất vó được tiền phương Tỉnh Đội ở ngoài bãi sậy thôn Tráng Việt huyện Yên Lãng. Đồng chí Thế Đức tỉnh đội phó, đồng chí Phạm Hòe tham mưu trưởng, đồng chí Trúc My tham mưu phó và hàng chục cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Tôi và hàng chục cán bộ chiến sĩ đã bị địch bắt. Thế là cuộc đời tôi đến đây coi như bắt đầu chuyển sang một bước ngoặt mới mà phía trước là một tiền đồ tương lai mù mịt không bến bờ, đón nhận cuộc chơi “Lửa thử vàng – Gian nan thử sức “ giữa sống và chết, giữa trung thành và phản bội.
Thời gian tôi bị tù đày chỉ kéo dài gần 8 tháng đã trải qua các nhà tù thị xã Phúc Yên, căng 55 Hải Dương, Nhà Tiền Hà Nội, Đoàn Xá Hải Phòng và cuối cùng ra đảo Phú Quốc ( Từ 10/12/1953 đến khi quân dân ta đại thắng Điện Biên Phủ và ký kết hiệp định Giơnevo 20/7/1954) hòa bình được lập lại trên bán đảo Đông Dương, theo hiệp định 2 bên địch và ta tiến hành trao trả tù binh, tôi cùng anh em tù bình từ đảo Phú Quốc được giặc Pháp chở tầu biển về trao trả cho ta ở bãi biển Sầm Sơn tỉnh Thanh Hóa vào đêm 31/8/1954. Thế là bước ngoặt lịch sử đau thương, tủi nhục, khổ ải nhất trong đời tôi đã vượt qua . Những chuyện đáng nhớ hơn 8 tháng bị tù đày trong nhà tù đế quốc thì nhiều, nhưng tôi chỉ nêu lên một số dấu ấn đáng nhớ nhất dưới đây :
Chịu đựng cực hình tra tấn của địch
Ngay sau khi chúng tôi bị địch bắt, lúc đó chỉ có tôi là ít tuổi và trẻ nhất (19 tuổi). Địch đã tách riêng tôi ra rồi trói hai khuỷu tay ra đằng sau dẫn đến bờ một lạch nước trong bãi sậy, rồi chúng múc nước lên đổ vào mồm vào mũi tôi một lúc chúng dừng lại,
- 12 -
qua tên thông ngôn hỏi: “Mày biết hầm bí mật nào còn ở đây phải chỉ ra, nếu không quan lớn sẽ bắn chết”. Trước sau tôi chỉ một mực khai “Đêm hôm qua chúng tôi ở ngoài vùng tự do huyện Phổ Yên được lệnh đi vào để bổ xung cho đơn vị ở trong bãi xậy thì đến sáng sớm hôm nay các ông càn quét bắt được nên không biết hầm hố nào cả. Thế là chúng dựng tôi đứng dậy, bát ngờ 1 tên bóp cò hết 1 băng đạn súng tiểu liên làm một vệt đất cát bụi mù kéo dài sát vào chân và người tôi, lúc này tôi chỉ kịp nhắm mắt lại và đón chờ cái chết ập đến. Chúng bắn dọa tôi xong địch lại hỏi như trên, lúc này tôi vẫn một mực khai như vậy, mặc dàu tôi có biết còn 1-2 hầm bí mật của đồng đội, nhưng tự xác định dù có chết cũng không cung khai làm hại thêm đơn vị . Sau đó địch tin là tôi nói thật nên thôi không tra tấn và dẫn tôi về chỗ tập trung tù bình.
Đến chiều tối ngày 10/12/1953 địch dẫn giải tù binh chúng tôi đi theo cùng đội hình của địch rút về đóng quân ở thôn Hạ Lôi, huyện Yên Lãng. Chúng giam giữ chúng tôi vào trong một cái buồng nhà ngói, đóng khóa cửa buồng và luân phiên canh gác ở bên ngoài suốt đêm. Trong buồng giam chúng tôi đêm đó có đòng chí Nguyễn Văn Bích nguyên là Huyện ủy viên, CTV huyện đội Đông Anh mới được điều động lên Tiền phương Tỉnh Đội giữ chức đội trưởng đội trinh sát, đêm đó dưới sự chỉ đạo của đồng chí Bích chúng tôi thì thầm tranh thủ trao đổi và thống nhất với nhau là cùng đổi lại họ và tên
đang dùng (Tôi tên bí danh thường dùng ở cơ quan là TRẦN BẰNG chứ không phải là BÀO theo giấy khai sinh) trường hợp bị địch tra tấn dù có chết cũng chỉ một mực khai là mới ở vùng tự do Thái Nguyên vào bổ xung đêm hôm trước thì sáng hôm sau các ông càn
quét bắt được, không khai linh tinh dễ bị sơ hở là sẽ bị địch tiếp tục tra tấn khai thác. Cho đến sáng hôm sau địch dẫn chúng tôi ra cho lên xe ô tô cam nhông chạy về thị xã Phúc Yên, địch bàn giao cho bọn phòng nhì ở Thành Đỏ. Sau khi địch lấy lời khai từng người về thủ tục như: Họ và tên, năm sinh, quê quán, ngày nhập ngũ, tên đơn vị v.v…chúng đưa 6 chúng tôi vào giam nhốt ở một xà lim tối om, chiếc xà lim này bình thường chỉ giam nhốt 1-2 người thì có thể nằm được, Còn 6 người thì quá chật chội chỉ ngồi bó gối với nhau thôi. Thế là qua một ngày rưỡi bị chúng bỏ đói, đến chiều hôm đó dịch cho ra ngoài ngồi ăn cơm với muối. Sau đó chúng lại lùa vào ngồi bó gối với nhau suốt đêm.
Đến khoảng 8 giờ sáng ngày thứ ba (13/12/1953) tên Mậu to béo lực lưỡng mở cửa xà lim rồi gọi: tên Nguyễn ngọc Bào lên phòng khai cung. Anh em thì thầm động viên “Bằng cố gắng chịu đựng tra tấn nhé, thà chết không khai báo làm hại cách mạng đấy”, tôi chỉ kịp nói “Tôi xin hứa”. Khi lên đến phòng khai cung tên Đội Châu phòng nhì hỏi ngay: “Mày ở tiền phương Tỉnh Đội Vĩnh Phúc ?” – “Vâng” – “Thế tiền phương chúng mày thường đóng quân ở đâu ? những thằng nào là chỉ huy cao nhất hiện nay ? thằng Thế Đức và thằng Chúc My bị bắn chết ở đâu ?” – “Thưa ông anh em chúng tôi mới ở vùng tự do Thái Nguyên được lệnh hành quân vào bổ xung cho Tiền phương Tỉnh Dội đêm hôm trước, vừa vào đến nơi thì sáng hôm sau bị các Ông càn quét bắt được nên tôi không biết được những việc này “. Thế là tên Đội Châu kêu: “Mậu đâu ? đưa thằng này
xuống tra tấn cho tao”. Lập tức tên Mậu mệnh danh là tên chày vồ bước vào kéo tôi sang
phòng tra tấn ngay bên cạnh. Đầu tiên tên Mậu dùng một chiếc roi bằng dây điện 3 pha to bằng ngón tay quật liên hồi vào thân thể tôi bất kể là chỗ nào, mới đầu tôi vô cùng đau đớn kêu la, sau một lúc qúa đau rát, toàn thân ê ẩm khản cổ không kêu được nữa. Lúc này tên Đội Châu bước vào hỏi: “ Mày có khai không” ? – Tôi một mực lại khai như trên. Tên
- 13 -
Đôiị Châu ra lệnh tra tấn tiếp. Lúc này tên Mậu chày vồ tiến hành tra tấn tôi bằng nước
(Thời tiết đang mùa đông đầu tháng 11 Quý Tỵ âm lịch trời lạnh rét buốt). Tên Mậu múc
các xô nước đổ liên hồi vào mồm vào mũi tôi mặc cho tôi bị rét tê cứng chân tay sặc sụa kêu la, được một lúc bụng tôi đầy nước, đầu óc mê muội không còn biết gì nữa, có thể chết lúc nào không thể biết. – Tên Đội Châu lại vào quát: “Mày có khai không ?” – tôi chỉ lắc đầu không nói nên lời được nữa. Tên Đội Châu lại lệnh tra tấn tiếp. Lúc này toàn thân ê ẩm, đầu óc mơ màng như tiếng ong ve kêu trong tai. Tên Mậu chày vồ lấy một thanh củi bằng cổ tay cứ thế vụt tới tấp suốt từ ngực xuống đến hai chân, tôi ngắc ngoải sắp chết nên chẳng có cảm giác đâu đớn là gì nữa. Lần thứ ba tên Đội Châu vào thấy thân thể tôi như vậy nên nó bảo tên Mậu dìu đưa tôi vứt vào trong sà lim với đồng đội. Lúc này anh em dồn vào một xó, dành cho tôi một chỗ có thể nằm co quắp được, rồi anh em cởi quần áo ướt ra và mỗi người cời một thứ mặc cho tôi đỡ lạnh, lau chùi các vết rỉ máu ở những lằn roi điện 3 pha (sau này phải 3-4 năm da người tôi mới mất hết các vết đen của đòn dây điện 3 pha này). Mãi gần sáng hôm sau tôi mới dần dần hồi tỉnh lại, lúc này mới thấy toàn thân đau đớn, tê tái sót sa. Đồng chí Bích và anh em an ủi động viên, ca ngợi sự kiên cường, bất khuất trước cực hình tra tấn của kẻ thù, sứng danh bộ đọi Cụ Hồ. Còn tôi lúc này cũng cảm nhận được và lấy làm tự hào là cuối cùng mình đã chiến thắng được cực hình tra tấn dã man, tàn bạo của kẻ thù, Tự hào mình đã giữ được lòng trung thành với Đảng, với dân, với quân đội không khai báo gì có hại cho kháng chiến. Qua trận “Lửa thử vàng – Gian nan thử sức” này tôi giúp tôi càng vững vàng trưởng thành, sẵn sàng vượt qua mọi trông gai đen tối phía trước.
Thế là trong số bị địch bắt trong trận càn này chỉ có một mình tôi là bị địch tra tấn hỏi cung (cả khi mới bị bắt và khi về Phòng nhì), còn không có ai phải trải qua như vậy. Có lễ bọn địch cho tôi là loại trẻ nhỏ, dễ bắt nạt nhất chăng ? và chúng đã nhầm to: Tuy bé nhưng dé hà tiêu, ớt chỉ thiên đấy. Đến ngày thứ năm, địch đưa tất cả chúng tôi xuống trại tù ở thị xã Phúc Yên.
Một nghịch cảnh nhớ đời ở trại giam thị xã Phúc Yên là số lượng tù nhân lẫn lộn cả bộ đội, dân quân du kích, cán bộ Dân Chính Đảng và dân thường rất đông, nhưng số nhà giam giữ thì ít, nên địch dồn anh em tù nhân số đỏ vào nhốt chật cứng trong mỗi căn nhà giam, đáng lẽ chỉ 100 người nhưng tăng lên đến trên 300 người, sàn 2 tầng chen chúc, phải nằm cả dưới đất trong gầm sàn lẫn cả lối đi…Mùa Đông tháng chạp âm lịch rét buốt là thế mà bên trong vẫn nóng chảy mồ hôi, hơi nóng bốc lên mái tôn gập khí lạnh đọng lại thành các giọt nước thỉnh thoảng rơi tý tách xuống bên dưới. Không ai được tắm giặt, phần lớn không có gia đình tiếp tế nên chỉ có một bộ quần áo mặc từ khi bị địch bắt cho đến lúc này, do đó không khí thật hôi hám nghẹt thở, không đủ cả nước nuống nên khi địch mở cửa hàng ngày cho ra ngoài một lần để chúng tổng vệ sinh trong nhà giam thì lập tức chen lấn ùa ra chạy ngay xuống khu nhà bếp để tranh nhau tận dụng nước thải rửa rau, đãi gạo của nhà bếp để uống,rửa mặt tay chân. Riêng tôi bộ quần áo đang mặc lại còn dính cả máu khi bị địch tra tấn loang lổ, dù hôi hám bẩn thỉu, sột soạt cọ sát vào da thịt cũng đành cam chịu, biết làm sao bây giờ ?
- 14 -
Do hậu quả bị địch tra tấn dẫn đến một trận ốm
Thập tử nhất sinh trong nhà tù đế quốc
Sáng ngày 27 tháng 1 năm 1954 (23 tháng chạp năm Quý Tỵ) cả tổ tù 6 người chúng tôi cùng trên 300 anh em tù nhân khác (lẫn lộn cả tù bộ đội, dân
quân du kích, cán bộ dân chính và cả dân thường bị địch bắt) được địch áp giải lên các xe
vận tải nhà binh, ở phía đuôi mỗi xe đã có 5-6 tên lính lê dương đứng túc trực tay mỗi tên lăm lăm 1 chiếc roi tre dài, khi tù nhân bước lên xe đều bị chúng quất roi tre tới tấp khủng bố phủ đầu, tôi nhanh trí chạy chéo luồn qua chúng nên chỉ bị dính có 1 roi. Ở đầu 2 hàng ghế mỗi xe có 4 tên lính ngụy binh súng lăm lăm trong tay sẵn sàng nổ súng nếu có tù nhân nhảy xe chạy trốn trên đường. Đội hình dẫn giải tù nhân cứ khoảng 4-5 xe tải trở tù nhân lại xen kẽ 1 xe bọc thép có lính túc trực trên tháp súng đại bác và súng đại liên sẵn sàng nhả đạn. Đội hình xe chạy từ thị xã Phúc Yên suôi theo đường quốc lộ số 2 qua bốt Phù Lỗ rẽ suôi chạy qua huyện lỵ Đông Anh xuống Cầu Đuống, rồi chạy theo đường quốc lộ số 5, đến khoảng giữa trưa thì xuống đến trại giam căng 55 thị xã Hải Dương. Trên đường đi, xe tôi ngồi chạy được một lúc thì 1 tên lính ngụy nói thế này : “Các bác ơi ! chúng em vì miếng cơm manh áo, vì càu an bảo mạng nên đành phải đi lính cho Pháp chứ chẳng sung sướng gì đâu các bác ạ. Chúng em xin các bác đừng dại dột mà cướp súng của chúng em rồi nhảy khỏi xe để trốn chạy đấy. Vì cách đây không lâu đã xảy ra như vậy, các bác chỉ chạy trốn được vài người còn phần lớn lại bị bọn lính Âu phi truy đuổi bắn chết và bị bắt trở lại, bị chúng đánh đập cho gần chết mới tha. Thôi chúng em vái xin các bác tha tội cho chúng em ”.
Sau khi 6 chúng tôi được địch sắp xếp cho về ở cùng 1 nhà giam, khu trại giam căng 55 thị xã Hải Dương ỡ giữa cánh đồng nên không khí thoáng đãng, lại được ở đủ mỗi người một giường trong giường 2 tầng , xa xa một bên là thĩ xã Hải Dương, một lên là con đường tàu hỏa Hà Nội – Hải Phòng chạy qua Hải Dương. Ngày đêm nghe tiếng còi ô tô và còi tầu hỏa vọng vào cũng thấy vui tai.
Riêng tôi số phận chẳng ra gì, ngay buổi chiều hôm đến căng 55 Hải Dương thì trong người bắt đầu thấy gai gai sốt và khúng khắng ho. Đến ngày hôm sau yếu mệt không thể đi lại được và bắt đầu ho nhiều, khạc đờm ra có cả máu, đi tiểu nước đỏ như máu và người sốt rét, sốt nóng run lên bần bật, bắt đầu không thể ăn được thứ gì vào mồm. Bọn cai tù cho tôi lên bệnh xá của nhà tù khám thì tại đây cũng toàn là bác sĩ, y tá bộ đội ta bị địch bắt vào đây chúng cho lên bệnh xá để tự phục vụ tù nhân với nhau, thuốc men chẳng có gì, chì có 6 cái chén thủy tinh, Y bác sĩ dùng cồn đốt nóng bên trong chén rồi úp xuống trước ngực và sau lưng để “Giác” hút các chất độc trong cơ thể ra bên ngoài da để đào thải đi. Bệnh tình của tôi kéo dài đúng l2 ngày, tuyệt đối không thể ăn nuốt được một tý gì vào bụng, hàng ngày tiếp tục ho ra máu, đái ra máu, trong người nóng đến nỗi nôn ra cả 2 con giun. Lại đúng vào những ngày tết âm lịch năm Giáp Ngọ1954, đón giáo thừa một cái tết tủi nhục có một không hai trong nhà tù đế quốc. Tôi đã nói thật với anh em Y bác sĩ (cũng tù binh) là tôi đánh máy chữ hơn 4 năm có lẽ nay bị bệnh thế này. Đồng chí bác sĩ hỏi tôi thế này: “Khi đồng chí bị địch bắt có bị chúng tra tấn đánh đập không ?”, tôi trả lời “Có, tôi bị chúng đánh bằng dây điện 3 pha và thanh gỗ bằng cổ tay” – Đồng chí Bác sĩ nói “Thế thì bây giờ đồng chí bị ho, nôn mửa, đi đái
- 15 -
ra máu là nó đào thải ra ngoài những tồn đọng cặn bã độc hại trong cơ thể đấy, nếu đồng chi còn sống thì sau này về già sẽ không bị di chứng đòn tra tấn của địch nữa”…..
Cảnh ngộ của tôi đã bi đát lại càng bi đát hơn: Tôi đau ốm kéo dại 7,8 ngày không ăn được một thứ gì vào dạ dày, người gày khô đét chỉ còn có da bọc xương, bù lại tôi đã được 5 đồng đội tận tình chăm sóc chu đáo, họ nhường những mảnh chăn, chiếc áo ca bốt cũ của đich dể lót cho tôi nằm và đắp cho tôi được ấm. Lức này tôi thấy sao mình thèm khát muốn được uống một cốc nước bia đến thế (thực tế tôi chưa được uống bia bao giờ) nhìn thấy anh em có tiền mua uống mà tôi chảy cả nước dãi ra. Tôi cố lê bò đến gập anh Nguyễn Quang T….…là du kích người cùng làng có họ hàng xa với tôi cũng bị địch bắt, do cầu an bảo mạng nên đã khuất phục theo địch, được địch cử làm cai sàn ngay căn nhà giam của tôi, anh được người nhà tiếp tế và đánh bạc có nhiều tiền. Tôi thều thào nói thế này: “Anh T…ơi 1 em thèm bia quá, anh làm ơn cho em vay ít tiền mua chai bia sau này em sẽ trả, nếu không may em có bị chết thì U em sẽ trả cho anh”, thế nhưng thật tàn nhẫn, anh ta mặt tỉnh bơ trả lời tôi “Không có tiền cho vay đâu”. Trong khi đó tôi có thều thào tâm sự với anh em trong tổ là thèm uống bia lắm, thế là mỗi đồng đội đi tìm người tù đồng hương để vay, để xin gom góp tiền lại mua cho tôi được 2 chai bia, Trời ơi tôi uống nước bia vào bụng đến đâu cảm thấy tỉnh táo đến đó, lòng đầy rạo rực hai hàng nước mắt chảy đẫm đìa vì quá súc động trước tấm lòng nhân ái của đồng chí, đồng đội sứng danh anh bộ đội cụ Hồ. Tôi dần dần tỉnh táo ra, thì lại gập cảnh ngộ không may mắn: 5 đồng đội của tôi cùng nhiều tù binh khác được địch chuyển ra Hải Phòng, xuống tàu biển chuyển vào nhà tù Cam Ranh hay đảo Phú Quốc. Cuộc chia tay thật đau đớn trong lòng: 5 anh em không ai nói ra nhưng trong lòng nghĩ có lẽ tôi ở lại sẽ chết nên vừa bắt tay vừa khóc rơi nước mắt chúc tôi ở lại nhanh khỏi bệnh, còn tôi thì nước mắt đầm đìa gửi lời ly biệt đồng đội nghĩa nặng tình sâu của đời tôi.
Nhưng thật may mắn tôi đã vượt qua được thần chết, có lẽ nhờ ơn âm đức của Tổ Tiên, Ông bà, Cha mẹ ăn ở phúc đức để lại ơn dày cho cháu, con được hưởng; Hoặc tôi đã được cứu sống bằng 2 chai bia của đồng chí, đồng đội đã đi quyên góp xin tiền để mua cho tôi ? Nhịn đói đến ngày thứ l2 thì tôi bắt đầu thấy thèm ăn, nhưng khi ăn được thì tôi lại bắt đầu phát ra một bệnh mới: Đó là tự nhiên hai má bị sưng vù lên, mồm đau chỉ húp được nước cháo loãng không thể nuốt nổi những sợi hành lẫn trong cháo. Lên bệnh xá nhà tù, bác sĩ chẩn đoán bảo tôi bị lên quai bị, mà bệnh quai bị thì dễ bị lây lan lắm, ngay bọn Tây cũng rất sợ. Thế là ngay chiều hôm đó bọn địch cho tôi ra nhà thương của tù ở trong thị xã Hải Dương nằm điều trị, ở đây có khá hơn ở trạm xá căng tù 55. Bác sĩ khám và phát thuốc cho uống mỗi ngày 10 viên Suyphamits, phát cho tôi bông băng tẩm nước nóng đắp vào 2 bên má đang sưng. Thế nhưng bệnh không thuyên giảm, tôi thấy trong tai bên phải hình như mưng mủ khi đổi thế nằm nghiêng cứ thấy lóc bóc bên trong tai. Thế rồi bắt đầu máu mủ lẫn lộn như máu cá ở trong tai bên phải chảy ra. Tôi phải nằm nghiêng sang phía bên trái, cứ khoảng sau 1 tiếng đồng hồ lại rút bông đút nút tai bên phải ra, rồi nghiêng tai cho máu mủ chảy ra ồng ộc, sau đó lại lấy bông đút nút lỗ tai bên phải lại…cứ tái diễn ngày đêm như vây. Lúc này tôi nghĩ nếu nó ăn lên đến óc thỉ mình sẽ chết.
Đến ngày thứ ba (khoảng 15/2/1954) thì thấy 1 xe hồng thập tự của địch chạy vào bệnh viện, sau đó chúng cho cáng tôi ra cho lên xe cùng với cáng của một ông nghe tài
- 16 -
xế nói là bị ho lao sắp chết, chúng chuyển chúng tôi lên bệnh viện nằm trong trại giam tù Nhà Tiền Hà Nội (là nhà máy in Tiến Bộ ngày nay). Địch không cần cho lính đi áp giải theo xe, khi xe chạy theo quốc lộ số 5 lên Hà Nội trong bụng chỉ mong sao lúc này gập được trận phục kích của quân ta để được giải thoát trở về với đồng đội thì sung sướng quá.. Ngay chiều hôm đó tên bác sĩ người Pháp đưa tôi lên bàn mổ, chúng chẳng gây mê hoặc tiêm thuốc tê gì cả mà cầm dao mổ rạch một nhát ở sau tai bên phải rồi dùng tay bóp hết máu mủ ra, tôi đau đớn đến ngất đi. Sau đó chúng bôi thuốc kháng sinh và dán gạc bông băng vào chỗ mổ rồi giao nhân viên phục vụ dìu đưa ngay tôi xuống bàn giao cho trại giam Nhà Tiền, tôi được bố trí ở trong 1 gian của khu nhà vòm, phía sau tường nhà tù là bến xe Kim Mã ngày nay. Có lẽ ở đây đã có sự lãnh đạo của tổ chức Đảng trong nhà tù nên phần lớn anh em tù trong gian nhà tôi ở đều là bộ đội của đại đội 476 Đông Anh và các Huyện trong tỉnh Vĩnh Phúc. Đầu tiên anh cai sàn xem giấy tờ rồi thốt lên “Thôi chết rồi lại là đồng hương Đông Anh của tôi rồi”, anh em tù đến vây quanh thăm hỏi tôi ở đơn vị nào ? quê quán…mọi người trông thấy tôi tiều tụy, sanh sao, gầy còm chỉ có da bọc xương, quần áo thì bẩn thỉu, hôi hám, đầu tóc bù xù (Thực tế là từ ngày bị địch bắt 10/12/1953 cho đến lúc này đã trải qua hơn 2 tháng không được tắm giặt, không có quần áo để thay). Thế là một số anh em tù đã được gia đình tiếp tế mỗi người cho tôi cái áo, chiếc quần, tất cả cũng được vài bộ cả quần áo dài và quần áo cộc. Anh cai sàn yêu cầu tôi đi tắm giặt ngay (Sau này được biết tên anh là Đậu là đảng viên, người thôn Vân Trì, huyện Đông Anh của tôi). Anh tuyên bố tiêu chuẩn mỗi người chỉ được có 1 thùng 20 lit nước thôi, nhưng hôm nay ưu tiên cho tôi được cấp 2 thùng nước. Người tôi lúc này da dẻ đang phủ bọc một lớp ghét dày, dội nước vào càng kỳ cọ thì ghét ra càng lắm, tắm gội hết 2 thùng nước vẫn chưa sạch, quần áo thay ra vứt bỏ không có nước để giặt. Tắm xong người thấy nhẹ nhàng lâng lâng, tâm trí sảng khoái thêm yêu đời, yêu cuộc sống dù đang trong ngục tù đế quốc. Các bữa ăn anh em nhường nhịn thức ăn cho tôi dù chỉ là canh cần, cá khô…những cử chỉ, hành động đó chỉ có trong đội quân cách mạng, được mang danh anh bộ đội Cụ Hồ. Mấy hôm sau có đồng chí Khôi quê ở thôn Xuân Canh người bạn tù nằm cạnh tôi chân thành tâm sự : “Tớ tù lâu hơn cậu, đã liên lạc và được bố mẹ thỉnh thoảng tiếp tế cho tiền, quần áo thuốc men, thấy cậu đang ốm yếu qúa, thôi tớ tặng cậu 20 đồng tiền Đông Dương để mua các thứ bồi dưỡng thêm (Giá trị mua được 20 chiếc bánh mỳ lúc đó), ôi thật là cảm động vói tấm lòng “Một miếng khi đói bằng một gói khi no” của đồng đội. (Sau này tôi đi tìm mãi mà không thấy, thời gian kéo dài trên 60 năm mãi đến năm 2014 tôi mới tìm được Ông Khôi đã 78 tuổi, nguyên chánh văn phòng Tòa án tỉnh Thái Nguyên nghỉ hưu cùng gia đình sinh sống ở thành phố Thái Nguyên, tôi cùng vợ con một chuyến xe con lên thăm vợ chồng ông Khôi để tri ân đền đáp tấm lòng vàng năm xưa).
Tôi ở trại giam tù Nhà Tiền Hà Nội được hơn 1 tháng thì lại nằm trong số mấy trăm tù binh chuyển tù của địch từ Nhà Tiền ra Đảo Phú Quốc, chúng đưa xuống tạm
giam giữ vài ngày ở căng tù Đoàn Xá Hải Phòng, rồi đưa lên tàu thủy trở vào giam giữ ở nhà tù đảo Phú Quốc.
- 17 -
Một cảnh tượng thật đau lòng
Khi ra nhà tù trại cây dừa đảo Phú Quốc chuyến tầu thủy của chúng tôi được địch giam giữ ở Trại 4, tù binh ở đây có tới hàng vạn người, được chúng chia ra giam giữ ở 4 trại, mỗi trại vài nghìn người. Do bọn sĩ quan và binh lính ngụy quân người miền Nam canh giữ. Lúc này ở bên ngoài quân ta bắt đầu mở chiến dịch Điện Biên Phủ.
Sau vài ngày anh em tù mới ra đảo đi lân la để tìm xem anh em tù cũ có ai là bạn bè, đồng đội, đồng hương không ? Tôi đã gập được anh Lê văn Tăng, nguyên là trung đội trưởng đội trinh sát của Tỉnh Đội Vĩnh Phúc. Anh Tăng báo cho tôi một tin giật gân : “Thằng Dũng nhà mày nó cũng bị giam ở đây, ngay bên trại 3 chỉ cách trại 4 có một cụm hàng rào dây thép gai (anh vừa nói vừa chỉ tay sang phía trại 3), mai tao đi làm sẽ tìm cách báo cho thằng Dũng nhà mày biết là mày đã ra đây””. Nghe được tin này trong lòng tôi rộn rạo cả lên bỗng hai hàng nước mắt chảy ra dàn dụa, bởi vì quá đau sót trong hoàn cảnh cảnh bố mẹ chỉ có 2 thằng con trai đều tình nguyện vào bộ đội đi đánh Tây lúc mới 15 tuổi, nay cả 2 anh em đều bị địch bắt đưa ra giam giữ ở hòn đảo Phú Quốc xa xôi này, tương lai mờ mịt. Anh trai tôi họ và tên khai sinh là Nguyễn Ngọc Diệp sinh năm 1932, đến năm 1948 lúc mới 16 tuổi đã xung phong tình nguyện đi bộ đội, ở đội trinh sát Tỉnh Đội Vĩnh Phúc cùng với anh Tăng, lúc này anh tôi đổi tên theo bí danh thường gọi là Việt Dũng (cũng như tôi thường gọi theo bí danh là Trần Bằng). Cuối năm 1949 giặc Pháp tấn công đánh chiếm tỉnh Vĩnh Phúc thì đầu năm 1950 anh Diệp tôi được Tỉnh Đội điều động xuống bổ xung cho tiểu đội trinh sát của Đại đội 476 huyện Đông Anh. Giữa năm 1950 anh tôi đang làm nhiệm vụ ở xã Nam Hồng thì bị địch càn quét và bị một tên phản động chỉ điểm nên đã bị địch cuốc hầm bí mật bắt được, sau mấy năm bị địch giam giữ qua nhiều nhà tù ở đất liền, cuối cùng cũng bị địch đưa ra nhà tù đảo Phú Quốc này.
Chiều hôm sau khi anh Tăng đi làm về đã gập ngay tôi báo tin vui “Tao đã gập thằng Dũng nhà mày, khi phô tin mày đã ra đây, thằng anh mày cũng đột ngột đau sót, cảm động quá nước mắt dàn dụa, tao cũng thấy cay cay ở mắt vì cảnh ngộ của hai anh em chúng mày. Tao thống nhất với thằng Dũng là khoảng 5 giờ chiều mai hai anh em chúng mày cùng ra đầu nhà vệ sinh của 2 trại để mà nhìn thấy nhau, mà nhận ra nhau.
Mày nhớ là phải đứng xa hàng rào dây thép gai vài mét, đừng có đến gần là lính canh trên tròi gác nó bắn chết đấy”. Chiều hôm sau đúng hẹn gần 5 giờ chiều tôi đi ra đầu dãy nhà vệ sinh nhìn sang đầu nhà vệ sinh bên trại 2 thì đã nhìn thấy anh Diệp tôi dơ tay vãy vãy….. vì hai anh em đứng cách xa nhau trên 50 mét nói nhỏ thì không nghe được, mà nói to thì sợ tên lính gác trên tròi canh nghi ngờ bàn bạc gì với nhau, nó mà nổ súng bắn xuống thì nguy hiểm chết người. Thế là hai anh em tần ngần đứng nhìn nhau một lúc rồi ra hiệu tạm chia tay nhau trở về nhà giam, thế là đêm hôm đó tôi không sao ngủ được suy nghĩ miên man về cảnh ngộ gia đình đang tan tác mỗi người một nơi: Bố đẻ thì đang công tác ở Ty giao thông công chính tỉnh Bắc Kạn xa sôi, Mẹ và 2 em gái thì đang phải bỏ làng Sáp Mai sang ở nhờ bà con bên Chèm Vẽ, Nhật Kiểu, vì ở quê hương Sáp Mai sợ bọn phản động đến hoạnh họe, ức hiếp do có chồng con đi tham gia kháng chiến, còn 2 anh em tôi bây giờ đang bị tù đầy ở đảo Phú Quốc xa xôi thế này, tin tưởng kháng chiến nhất định thắng lợi, nhưng trước cảnh đọa đày địa ngục trần gian sống chết sảy ra hàng ngày trong nhà tù đế quốc liệu có còn sống để mà về đoàn tụ với gia đình hay không ?
- 18 -
Ở trại giam trại Cây Dừa đảo Phú Quốc lúc này chắc chắn đã có tổ chức của Đảng lãnh đạo, mà anh Tăng là đảng viên chắc có tham gia sinh hoạt Đảng trong tù nên hoàn cảnh trớ trêu của hai anh em chúng tôi đã được cải thiện: vài ngày sau tôi được thuyên chuyển sang Trại 3 sống chung cùng một tiểu đội với anh Diệp của tôi. Hai anh em cùng tham gia vào đội lao động nội bộ của Trại 3 chuyên cuốc sới trồng rau muống để cải thiện ăn uống của Trại. Do anh Diệp tôi bị tù đày lâu hơn 4 năm, đã thuyên chuyển qua nhiều nhà tù ở đất liền nên đã viết bưu thiếp gửi cho U tôi, hai mẹ con đã liên lạc được với nhau nên vài tháng U tôi lại ra bưu điện Bờ Hồ Hà Nội gửi đồ tiếp tế cho anh Diệp tôi (chủ yếu là quần áo, thuốc men, trong đó có cả thuốc lào). Sau khi hai anh em được sống gần nhau, anh Diệp tôi có viết thư gửi về phô tin cho U tôi được biết việc này, để U tôi đỡ lo lắng đau khổ. Khoảng một tháng sau anh Diệp tôi nhân được thư của U tôi gửi ra (Chắc là nhờ ai đó thân cận viết hộ chứ U tôi có biết chữ nghĩa nào đâu), nội dung trong thư có đoạn viết “……Thằng Bào nó chết ở nhà tù Hải Dương rồi, thôi con không phải nói dối động viên an ủi U nữa” thế là hai anh em lặng đi không đọc tiếp được thư nữa và đều rơi nước mắt vì quá thương sót cho mẹ già chiụ đựng bao nhiêu đau khổ vì con cái.
Tại sao Mẹ chúng tôi lại biết được chuyện này ?: Vì trong tù bọn địch cho phép các tù binh được viết bưu thiếp in sẵn gửi báo gia đình biết tin để tiếp tế và quan hệ thư từ. Khi tôi xuống đén căng tù 55 Hải Dương có viết bưu thiếp gửi về cho U tôi biết là tôi đã bị địch bắt đang bị giam ở căng tù 55 Hải Dương, Trong thời gian 12 ngày đêm tôi nôn ra máu, đái ra máu không ăn uống được gì mong sao nhận được quà tiếp tế của Mẹ hỗ trợ vượt qua tử thần nhưng thất vọng. Buổi sáng ngày ốm thứ 13 tôi được địch đưa ra nhà thương tù binh ở thị xã Hải Dương, thì buổi chiều hôm đó có một tù nhân ốm nặng bị chết trong nhà thương, qua đó có thể một số người cùng làng xóm đang tù ở Hải Dương tưởng
là tôi đã chết, bằng cách nào đó đã nhắn tin về cho U tôi biết nên hậu quả mới có sự hiểu lầm của U tôi cho là tôi đã bị chết ở căng tù Hải Dương rồi. Sau này khi trao trả tù binh và được phục viên về quê U tôi có kể lại là có nhận được bưu thiếp của tôi, và sau tết âm lịch Quý Tỵ 1953 U tôi có đi tầu, xe lặn lội xuống Hải Dương để gửi hàng tiếp tế cho tôi, lúc đó không có người nhận vì tôi đã được địch chuyển về nhà thương trại giam tù Nhà Tiền Hà Nội rồi, lại nghe được tin tôi đã chết nên mẹ tôi đã quay về và tin là tôi đã chết ở nhà tù Hải Dương rồi.
Lúc này tháng 4/1954 ở ngoài miền Bắc quân dân ta đã mở chiến dịch Điện Biên Phủ, hai bên ta và địch đang đánh nhau to. Ở trong tù, nhất là ngoài Đảo Phú Quốc cách xa đất liền, địch càng tăng cường bưng bít tin tức chiến sự. Song dần dần chúng tôi mới được biết là do 2 nguồn tin tức. Một là: hàng ngày có một số tù nhân ở các trại được lên lao động khổ sai ở trung tâm bọn chỉ huy nhà tù Phú Quốc được nghe bọn binh lính và nhân viên của địch kể cho biết… Hai là: Hàng ngày đếu có tầu buôn nhỏ của tiểu thương ở trong đất liền Nam Bộ được địch thuê trở lương thực, thực phẩm ra đảo cung cấp cho các trại tù Phú Quốc. Một số anh em tù được địch cắt cử ra các tầu thuyền trên để vận chuyển lương thực, thực phẩm về trại, qua tiếp súc với dân họ báo tin, hoặc cho tù nhân các báo chí ở Sài Gòn đã đăng chiến sự ở Điện Biên Phủ, anh em dấu diếm đem về các Trại đọc rồi loan tin truyền nhau. Trong trại tù ngấm ngầm trào dâng lên một không khí
- 19 -
phấn chấn tin tưởng: Cuối cùng ta nhất định thắng, mơ tưởng hy vọng sẽ có một ngày được về quê hương đoàn tụ với gia đình…… Mơ tưởng hy vọng đó ngày một lớn dần và đã trở thành hiện thực khi được tin chính thức: Ta đã toàn thắng kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ vào chiều tối ngày 5/5/1954 một sự kiện lịch sử vang dội non sông, trấn động địa cầu. Tiếp đó là kết quả hiệp định Trung Giã 4/7/1954 giữa đại diện quân đội ta và đại diện quân đội thực dân xâm lược Pháp. Tiếp theo là Hiệp định Giơnevơ 27/7/1954 giữa hai bên là Ta và Pháp cùng một số nuớc có liên quan. Hai bên chấm dưt chiến tranh, lập lại hòa bình trên bán đảo Đông Dương. Nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền: Từ vĩ tuyến 17 trở vào phía Nam thì Pháp phải rút quân ngoài Bắc vào tập kết rồi rút quân về nước – Từ vĩ tuyến 17 trở ra phía Bắc thì lực lượng kháng chiến của ta ở trong Nam phải rút ra tập kết. Sau 2 năm hai bên tổ chức tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Theo hiệp định hai bên tiến hành trao trả tù binh cho nhau. Từ tháng 7/1954 cho đến khi chúng tôi được giặc Pháp trao trả về Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa đợt cuối cùng ngày 31/8/1954 tại trại giam tù Phú Quốc dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng trong nhà tù đã nổ ra 2 cuộc đấu tranh quyết liệt: Toàn trại tù binh đình công tuyệt thực buộc địch phải thực hiện 2 việc :
- Thứ nhất : Địch phải thực hiện hiệp định Trung Giã lập tức cải thiện chế độ ăn uống và phát quần áo, chăn màn tư trang như tiêu chuẩn của binh lính mỗi bên. Thế là chỉ nột thời gian ngắn đầu tháng 8/1954 địch phải tiếp tế ra đảo bao nhiêu lương thực, thực phẩm, không còn cảnh phải ăn gạo mục với cá khô đã kéo dài trước đây (cũng chỉ được hưởng chưa đầy 1 tháng cho đến ngày được trao trả), mỗi tù binh được phát một bộ quần áo cộc, xà phòng, bàn chải thuốc đánh răng…….
- hứ hai : Khi tiến hành trao trả tù binh, địch đã bí mật đưa số tù binh là người Nam Bộ đem đi dấu ở đâu không rõ và một số anh em tù nhân ham sống sợ chết nghe theo kêu gọi của địch chạy sang đi lính cho chúng (địch mới thực hiện tháng 6/1954 chúng giành riêng một nơi tập trung được vài trăm người loại này, được trang bị như binh lính, và đang luyện tập) . Sau cuộc đình công tuyệt thực lần thứ hai thắng lợi buộc địch phải tiến hành trao trả cho ta cả 2 đối tượng trên cùng xen kẽ lên tầu thủy về đất liền cùng với anh em tù binh khác.
Thăm lại đảo Phú Quốc
Phú Quốc đây rồi, chốn tù xưa
Giặc Tây giam giữ Trại Cây Dừa
Cá khô, gạo mục ăn cầm sống
Bất khuất kiên cường địch sợ, lo
Đại thắng Điện Biên vang thế giới
Hiệp định Giơ Ne Pháp chịu thua
Tù binh ta, địch cùng trao trả
Tung cánh, sổ lồng sống tự do ./.
(Đầu năm 2013 tôi cùng tham gia với đoàn cựu tù binh Phú Quốc thời Chống Mỹ
trở lại thăm Nhà tù xưa nhân dip kỷ niệm 40 năm (1973-2013) tù chống Mỹ
chiến thắng trở về. Trong lễ mít tinh Có Chủ tich nước Trương Tấn Sang ra dự.
Phần thứ hai
10 NĂM MIỀN BẮC HÒA BÌNH XÂY DỰNG
(THÁNG 8 NĂM 1954 ĐẾN THÁNG 8/1964)
- 21 -
Tất cả tù binh là bộ đội Cụ Hồ được giặc Pháp trao trả ở nhiều nhà tù trong cả nước đều tập trung về tập kết ở tỉnh Thanh Hóa, tiếp tục được ở lại Quân Đội, đều được biên chế thành các tiểu đội, trung đội, đại đội và tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 55 trực thuộc Bộ Quốc Phòng. Cán bộ chỉ huy từ trung đội trưởng trở lên là cán bộ khung được rút từ các đơn vị toàn quân về phụ trách. Hai anh em chúng tôi cùng được biên chế về tiểu đội 3, trung đội 1, đại đội 175, tiểu đoàn 17, trung đoàn 55 Thời gian tồn tại của Trung Đoàn 55 cũng chỉ kéo dài có hơn 1 năm (từ tháng 7/1954 đến tháng 8/1955). Sau đó Quân Đội giải quyết cho tất cả chúng tôi được phục viên về tham gia xây dựng quê hương, gia đình. Trong thời gian được ở lại quân đội chủ yếu là qua một đợt chỉnh huấn chính trị: Học tập quán triệt đầy đủ về “Tình hình nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới” và một đợt kiểm thảo tự phê bình và phê bình sâu sắc của mỗi người trong thời gian bị địch bắt giam giữ tù đầy.
Đến tháng 7 năm 1975 tất cả chúng tôi được giải quyết chính sách phục viên. Trên đường từ các địa điểm ở tỉnh Thanh Hóa về các ngả quê hương miền Bắc vẫn được tổ chức theo từng đại đội, trung đội do cán bộ khung chỉ huy hành quân đi bộ về bàn giao cho Ban chỉ huy các Tỉnh Đội. Sau đó Tỉnh Đội làm thủ tục bàn giao cho cán bộ chỉ huy từng HuyệnĐội lên nhận đưa về Huyện, Huyện Đội bàn giao tiếp cho các Xã Đội lên nhận đưa về từng địa phương…lúc đó chúng tôi mới được tự do trở về gia đình nhà mình.
Một bước ngoặt mới thứ ba lớn lao trong đời tôi bắt đầu.
GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ SAU 6 NĂM CHIA LY
Chỉ những người trong cuộc mới thấu hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của 2 từ đối lập “Chia ly và Đoàn tụ” trong một gia đình bé nhỏ của chúng tôi. Mốc đỉnh của sự chia ly trong gia đình tôi bắt đầu từ đầu năm 1950 : Khi địch đánh chiếm tỉnh Phúc Yên cuối năm 1949 lúc này 2 anh em chúng tôi đều đã xung phong đi bộ đội. Còn 2 gia đình nhỏ là Bố đẻ cùng Dì Hai và 1 em gái là Nguyễn thị Sở từ nơi cư trú ở thĩ xã Phúc Yên chạy tản cư lên vùng tự do Tiên Chu, Nam Lý huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Một điều bất ngờ đã sảy ra là trong lúc đó bộ phận của U tôi cùng 1 cô em gái là Nguyễn thị Tần từ nơi tản cư làng Nội Đồng xã Đại Thịnh, huyện Yên Lãng cũng chạy tản cư lên vùng tự do Thái Nguyên, phải chăng nhờ âm đức Tổ tiên, Ông Bà nhà tôi linh thiêng đã dẫn lối đưa đường cho 2 bộ phận của gia đình gập được nhau hợp nhất làm một . Trong thời gian này một may mắn đáng nhớ, là cứu sinh cho đời sống của U tôi kéo dài nhiều năm sau này, đó là Dì Hai của tôi có nghề thợ nhuộm quần áo, lúc này hàng ngày U tôi ghánh đôi quang đựng các loại phẩm nhuộm và chậu, kiềng, củi để đun nước nhuộm, hai chị em đi đến các làng xóm quanh vùng để nhuộm quần áo, tiền kiếm được cũng đủ nuôi sống cả gia đình. U tôi tinh ý đã học lỏm được nghề thợ nhuộm của Dì Hai tôi. Còn bố đẻ của tôi vẫn đang là cán bộ giám thị kỹ thật cầu đường của ty Giao thông công chính tỉnh Phúc Yên.
Cả gia đình đang yên ổn làm ăn thì Bố tôi nhận được lệnh của Trên điều đông lên nhận công tác ở Ty Giao thông công chính tỉnh Bắc Kạn trên chiến khu Việt Bắc xa sôi. Thế là bố tôi đành phải đem bán chiếc xe đạp là tài sản có giá trị lớn nhất lúc bấy giờ lấy tiền chia đôi để lại cho U tôi một nửa vì lúc này U tôi đang bụng mang dạ chửa sắp đẻ
- 22 –
không thể đi bộ theo bố tôi lên Bắc Kạn được, còn bố tôi giữ một nửa tiền cùng Dì Hai và em gái Nguyễn thị Sở hành quân đi bộ suốt từ huyện Phổ Yên lên đến thị xã tỉnh Bắc Kạn nhận công tác mới. U tôi đành phải cùng cô em gái Nguyễn thị Tần quay trở về quê hương làng Sáp Mai sống trong vùng tạm chiếm của địch. Đầu năm 1950 U tôi sinh được thêm cô em gái đặt tên là Nguyễn thị Minh, lúc này bọn phản động ở địa phương nổi lên theo địch thường đến hoạnh họe U tôi vì có chồng, con đi tham gia kháng chiến, thậm chí nó còn muốn bắt U tôi lên vùng tự do vận động anh em tôi về đầu hàng theo địch. Để tránh tai vạ có thể sẩy ra bất cứ lúc nào nên U tôi đành cùng 2 con gái lớn bé chạy sang ở nhờ người quen ở bên làng Nhật Kiểu, Chèm Vẽ bên bờ đê nam sông Hồng hàng ngày đi nhuộm quần áo đủ sống, còn tích lũy mua quần áo, thuốc men vài tháng đi tiếp tế cho anh Diệp tôi một lần. Tiếp theo đến anh trai tôi giữa năm 1950 đã bị địch bắt đưa đi tù đầy nhiều nơi. Rồi tiếp đến tôi cuối năm 1953 cúng bị địch bắt nốt. Thế là cả gia đình tôi tan tác mỗi người ở một nơi xa nhau vời vợi. Khổ đau, thương nhớ kéo dài theo năm tháng.
Nay đất nước ta kết thúc chiến tranh 9 năm đánh thắng thực dân Pháp. Bố và Dì Hai tôi từ chiến khu Việt Bắc trở về sinh sống ở thị xã Phúc Yên. U tôi cùng 2 cô em gái từ bên nam Sông Hồng trở về quê hương Sáp Mai sinh sống, đã thuê người làm được một căn nhà một gian hai trái bằng tre và cây sậy sơ sài để ở. Khi hai anh em chúng tôi từ cõi chết trở về giây phút trông thấy Mẹ và hai em gái thì chạy xô tới ôm mẹ và các em ai nấy đều mừng mừng, tủi tủi nước mắt cứ dâng trào giàn giụa. Có lẽ Mẹ chúng tôi là người vui nhất vì những đứa con mà mẹ mang nặng đẻ đau, tưởng đã chết trong nhà tù của Pháp thì nay bằng xương bằng thịt đang hiền hiện ra trước mắt của mẹ. Sau giây phút mẹ con súc động gập được nhau, thì Mẹ chúng tôi có lẽ cũng là người đầu tiên thấy sung sướng, rạng rỡ , tự hào vì đã có 2 con trai sớm giác ngộ tòng quân đi giết giặc, từng trải qua bao nhiêu đau thương cay đắng tưởng không có ngày về, thì nay đều lành lặn trở về với mẹ . Còn anh em chúng tôi đến lúc này đành chịu tội là những đứa con bất hiếu, vì chưa làm được một điều gì báo hiếu đền đáp công ơn sinh thành, giáo dưỡng của bố mẹ, nhất là với người Mẹ ngàn lần yêu quý của chúng tôi, cả cuộc đời Mẹ long đong vất vả khổ sở chưa một ngày được hưởng sung sường vì chúng tôi.
MỘT ĐÁM CƯỚI ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ
Sau khi phục viên về gia đình việc ưu tiên là tìm hiểu lấy vợ lập gia đình. Anh Diệp tôi đã tổ chức đám cưới với chị Nguyễn Thị Nhung vào ngày mồng 4 tết âm lịch năm Bính Thân, tức ngày 15/2/1956.
Còn tôi sau nửa năm tìm hiều yêu đương cô Nguyễn Thị Tý người thôn Đại Độ, “Má lúm đồng tiền sinh duyên dáng – Đen nhánh hàm răng tựa hạt na” đã được hai gia
đình đồng thuận, đám cưới được tổ chức vào ngày mồng 2 tháng 6 âm lịch Bính Thân, tức ngày 9/7/1956.. Điều đáng nói đây là một đám cưới hiếm có trên đời này :
- Lúc bấy giờ xã hội ta sau cải cách ruộng đất phong trào cưới đời sống mới đang phát triển : nhiều đám cưới tập thể , đơn giản tiết kiệm tối đa cho phù hợp với hoàn cảnh đời sống kinh tế xã hội đang vô cùng khó khăn, túng thiếu cơm ăn chưa đủ no, áo mặc chưa đủ ấm vì mới trải qua cuộc chiến tranh 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược. Đám
- 24 -
cưới hai chúng tôi đã bỏ qua hết các thủ tục dạm ngõ, ăn hỏi, xin cưới. Hai gia đình thống nhất chọn ngày tổ chức lễ cưới xong, hai bên đều tự túc không có tiền, hiện vật dẫn cưới như ngày nay. Trước ngày cưới tôi đi ra chợ Đồng Xuân và Hàng Ngang, Hàng Đào mua được một mảnh vải trắng Popalin và một mảnh vải láng đen Trung Quốc để may bộ quần áo mới cho vợ mặc trong ngày cưới, mua 5-6 bịch thuốc lá điếu cuốn tay thủ công và 5-6 bánh chè ép toàn cẳng và lá chè già về dùng trong ngày cưới. Đám cưới của tôi được Đoàn Thanh Niên đứng ra tổ chức, cùng cưới chung với cặp đồng đội phục viên và tù đầy về là Phan Hồng Thanh và Nguyễn Thị Kiểu, hai cặp đều giống nhau chồng người Sáp Mai, vợ người Đại Độ.
- Điều đáng nói là một sự kiện đột xuất đã sảy ra: Đó là chiều và đêm trước ngày cưới (8/7/1956) thời tiết bất ngờ bị một cơn bão mưa to, gió lớn chưa từng có từ ngày đó đến nay đã đổ bộ chạy qua vùng Hà Nội – Đông Anh. Căn nhà gia đình tôi một gian hai trái làm bằng tre và cây sậy, tường trát dứng bằng bùn và rơm dạ mỏng manh không sao chịu nổi gió quật của cơn bão nên trên nóc thì dạ lợp bay đi tung tóe trống hoác,, khung nhà thì bị siêu vẹo thảm thương, vách đất trát dứng đổ sập, U tôi và anh chị em chúng tôi dồn vào ngồi bó gối ở một góc nhà chịu ẩm ướt suốt đêm, khổ nhất là cô em gái Nguyễn thị Tần của tôi cả đêm cứ ngồi cúi người xuống để che đậy chiếc phích nước và vài bộ ấm chén mà tôi mới lên mượn của Bố và Dì hai trên thị xã Phúc Yên về dùng trong đám cưới, thỉnh thoảng lại khóc tức tưởi vì sợ gió bão đổ nhà làm vỡ mất của quý nhất lúc bấy giờ. Đến gần sáng thì cơn bão đi qua. Bước chân ra ngoài sân điều đầu tiên đập ngay vào mắt là cây cối xung quanh đểu bị bật gốc đổ nghiêng ngả hết, các nhà hàng xóm xung quanh cũng đều chung cảnh ngộ như nhà tôi. Cả nhà tập trung dọn dẹp, lấy rơm rạ cũ - mới chèo lên lợp tạm trên mái nhà che mưa che nắng.
- Tôi đang phân vân là có nên tiếp tục tổ chức cưới vào chiều và tối hôm nay không ? hay là tạm hoãn để chọn ngày khác vậy? Lúc này khoảng 8 giờ sáng ngày 9/7/1956 anh Thanh vào gập tôi, hai anh em trao đổi tiếp tục hay hoãn đám cưới ? cân nhắc, suy đi tính lại thuận lợi, khó khăn cuối cùng 2 anh em nhất trí là sẽ tiếp tục tổ chức đám cưới vào chiều và tối hôm đó. Việc đầu tiên là 2 chúng tôi lập tức xuống gia đình nhà gái để bàn bạc thống nhất, thật may mắn cho chúng tôi quá cả hai gia đình nhà gái đều rất dễ tính, rất thông cảm đều đồng ý cho nhà trai tiếp tục tổ chức đám cưới. Thế là chúng tôi về tìm gập ngay đồng chí Bí thư chi đoàn Thanh niên của thôn báo cáo lại việc trọng đại trên và đề nghị chi đoàn tận tình giúp đỡ. Ngay lập tức Ban chấp hành chi đoàn huy động lực lượng thanh niên tạm hoãn việc dọn dẹp nhà cửa của gia đình lập tức đến giúp đỡ hai gia đình chúng tôi dọn dẹp lại nhà cửa, riêng căn nhà ở của gia đình tôi anh chị em phải về nhà đem đến cho mượn một số chiếc cót để buộc che kín xung quanh nhà, vì tường bằng dứng trát bùn với rơm dạ đã lở xuống hết, không có thời gian để khắc phục lại được. Một bộ phận thanh niên phải đi bộ lên Trường cấp I thôn Mai Châu để mượn vác các ghế băng và 3 cái bàn mang về sân nhà thờ Họ Nguyễn xóm Đồng Sáp Mai là địa điểm tổ chức đám cưới hai cặp chúng tôi chiều tối nay. Đúng là phong trào thanh niên lúc đó khí thế quá mạnh mẽ, tình thương yêu giai cấp của cải cách ruộng đất để lại quá sâu sắc đã giúp 2 đám cưới của chúng tôi khắc phục được khó khăn lớn nhất lúc bấy giờ.
- 24 -
- Như kịch bản hai anh em Bào – Thanh đã bàn bạc thống nhất buổi sáng: Đúng 4 giờ chiều 2 họ nhà trai ở hai nơi lên đến mặt đê sông Hồng thì gập nhau sát nhập làm mộ, khi đi xuống đến đầu làng Đại Độ thì lại tách ra làm hai để đi đến 2 nhà gái xa cách nhau khoảng 200 mét. Sau khi làm nghi thức thủ tục xin đón dâu xong cả 2 đám đón dâu lên đến mặt đê lại gập nhau sát nhập làm một. Khi về đến xóm đồng Sáp Mai lại tách ra thành hai để về từng gia đình. Khoảng 6 giờ tối đại diện Chi đoàn Thanh Niên thôn đến từng gia đình mời tất cả họ hàng, bạn bè thân quen của hai gia đình ra sân nhà thờ Họ Nguyễn xóm đồng Sáp Mai để dự lễ thành hôn chính thức cho 2 cặp vợ chồng chúng tôi.
Tại lễ thành hôn trang trí thật đơn giản, chè uống ,thuốc lá cũng rẻ tiền, đam cưới do Ông Nguyễn Quốc Tão làm chủ hôn. Sau khi tuyên bố lý do và giới thiệu xong, chúng tôi được Ông Lê thế Lợi chủ tịch Ủy ban hành chính Xã lên phát biểu và công nhận, có thư ký Ủy Ban Trần văn Kham làm giấy giá thú ngay tại đám cưới cấp cho 2 cặp vợ chồng chúng tôi. Tôi nhớ mãi suốt đời là đến mục văn nghệ ông Nguyễn Quốc Tão đến bàn cô dâu chú rể, yêu cầu tôi đọc câu “Mời em xơi chén nước này” và vợ tôi đọc tiếp câu “Đôi ta chung sống đến ngày rụng răng”, chúng tôi thì ngượng ngùng. mà xung quanh thì vỗ tay rầm rầm tán thưởng.
- Một điều làm tôi vô cùng súc động và nhớ mãi không quên: Với tấm lòng nhiệt huyết của nam nữ thế hệ thanh niên lúc bấy giờ tận tình thiết thực giúp đỡ chúng tôi khắc phục khó khăn của cơn bão kinh khủng gây ra và tổ chức đám cưới cho chúng tôi thật chu đáo hết minh. Một điều không thể ngờ là khi chúng tôi đi đón dâu lại có nhiều ông bà nông dân và bạn bè nam nữ thanh niên hưởng ứng tham gia đông đến thế. Buổi tối tổ chức lễ thành hôn của chúng tôi cũng không ngờ lại được đại diện các ban ngành, các đoàn thể của Xã và bạn bè, hội viên nông dân và nam nữ thanh niên ở cả 3 thôn Sáp Mai, Đại Độ và Võng La xã Việt Thắng lúc bấy giờ nhiệt tình đến tham dự đông đảo đến thế. Đám cưới thành công tốt đẹp ngoài sự mong muốn vì lo hậu quả của cơn bão kinh khủng để lại trước đám cưới có 12 tiếng đồng hồ.
MỐC SON CỦA LÝ TƯỞNG ƯỚC MƠ THÀNH HIỆN THỰC
Sau Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8 năm 1945, lúc dó tôi mới có 11 tuổi tham gia đội nhi đồng cứu quốc, với đầu óc tò mò nghe chuyện của người lớn dần dần tôi đã hiểu đang có một Đảng cộng sản Đông Dương đã tổ chức thành lập hội Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh để công khai lãnh đạo nhân dân cả nước ta tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đến đầu năm 1949 lúc này tôi mới có 15 tuổi sớm giác ngộ cách mạng đã xung phong tình nguyện vào bộ đội để được đi đánh nhau với thực dân Pháp. Thế nhưng vì còn bé, ít tuổi nên được Ban chỉ huy Tỉnh Đội Phúc Yên cho vào đội thiếu sinh quân cùng 5-6 bạn nhỏ tuổi như tôi. Đến tháng 7 năm 1949 quân Pháp từ Hà Nội tiến quân sang đánh chiếm và bình định tỉnh Phúc Yên
thì chuyển từ đội thiếu sinh quân sang làm đội giao thông liên lạc của Tỉnh Đội. Sau đó riêng tôi được một anh lớn tuổi là Nguyễn văn Âu người gốc Hà Nội đẹp trai, thư sinh đang là thư ký đánh máy chữ cho Ban Tham mưu Tỉnh Đội đã đỡ đầu nhận tôi làm em nuôi, anh Âu đã tận tình dạy tôi biết đánh máy chữ thành thạo cả 10 ngón tay và giữa năm 1950 tôi đã được thay thế anh Âu trở thành thư ký đánh máy khi anh được Tỉnh Đội
- 26 -
Cho đi học trường đào tạo sĩ quan Lục Quân của quân đội ta. Đến cuối năm 1950 tôi lại được điều lên là thư ký đánh máy trong bộ phận ban bí thư của Ban chỉ huy Tỉnh Đội, quá trình được tiếp súc đánh máy sao chép những tài liệu bí mật của Đảng từ Quân Khu gửi xuống, từ Tỉnh Ủy gửi sang và những Nghị quyết, những báo cáo của Đảng bộ Tỉnh Đội Vĩnh Phúc, lại được sống với các anh lớn tuổi xung quanh đa số đều là đảng viên. Tôi ngày một hiểu nhiều hơn về Đảng, trong tâm trí ngấm ngầm tự hạ quyết tâm tu dưỡng rèn luyện phấn đấu để sớm được kết nạp vào Đảng (Sau đại hội Đảng lần thứ II năm 1951 Đảng đã đổi tên từ Đảng CSĐD thành Đảng Lao Động Việt Nam và ra công khai lãnh đạo nhân dân). Có lần tôi được đồng chí Nguyễn Đông là Thường vụ Tỉnh Ủy, bí thư Đảng ủy kiêm chính trị viên Tỉnh Đội Vĩnh Phúc thân tình nói với tôi : “Chú biết hết về Đảng rồi đấy, nhưng chú chưa đủ tuổi nên chưa được kết nạp vào Đảng, chú hãy kiên trì phấn đấu đi”, trong lòng tôi vô cùng phấn khởi, cuối năm 1952 tôi được điều vào làm văn thư đánh máy kiêm văn thư hành chính cho Tiền phương Tỉnh Đội ở trong hậu địch, đến cuối năm 1953 thủ tục kết nạp Đảng đang tiến hành gần xong thì tôi bị địch càn quét bắt được. Thế là lý tưởng, ước mơ đã tuột khỏi tầm tay, biến thành mây khói . Lúc này suy nghĩ day dứt tấm lòng trung thành, trung kiên bất khuất của mình trước quân thù liệu ở bên ngoài Đảng có hiểu được cho mình không ?.
Thấm thoát cho đến khi được phục viên về xây dựng quê hương, gia đình. Lý tưởng, uốc mơ phấn đấu trở thành người Đảng viên cộng sản trong tôi lại bất đầu nhen nhóm âm thầm và hy vọng. Thế là tôi tiếp tục hăng hái tham gia ngay vào đội viên dân quân du kích, đoàn viên thanh niên cứu quốc, tham gia làm cán bộ thông tin tuyên truyền của thôn hàng ngày vác chiếc loa bằng vỏ quả bầu leo lên cây cao đọc các tin tức, triệu tập họp nhân dân, kẻ khẩu hiệu ở các tường quanh làng v.v…Kết thúc cải cách ruộng đất tôi được bầu vào Ban chấp hành nông hội Xã, rồi được bầu là đại biểu Hội đồng nhân dân Xã, được bầu là Ủy viên Ủy ban hành chính Xã, phân công phụ trách công tác văn hóa-xã hội Là thành viên tích cực trong ban vân động thành lập 3 ngọn cờ hồng : HTX nông nghiệp – HTX tín dụng – HTX mua bán v.v mọi nhiệm vụ tôi đều phấn đấu hoàn thành xuất sắc ngoài việc tôi được tặng Bằng khen của Ủy ban hành chính Tỉnh và Ty Giáo dục tỉnh Vĩnh Phúc, giấy khen của Ủy ban hành chính huyện Đông Anh ra, một vinh dự lớn lao là ngày 16 tháng 8 năm 1959 tôi đã được kết nạp là Đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam ngay trong đợt đầu Đảng mở cửa, sau khi gần 3 năm Đảng dừng kết nạp để chấn chỉnh củng cố lại đội ngũ đảng viên được kết nạp trong các đợt cải cách ruộng đất. Lý tưởng, ước mơ của tôi phải trái qua 8 năm thử thách đầy gian lao vất vả, trải qua trông gai xương máu mới thành hiện thực. Vì vậy danh hiệu người Đảng viên cộng sản chân chính với tôi nó thiêng liêng lắm, là báu vật được ban tặng nên tôi nguyện suốt đời tu dưỡng rèn luyện nâng niu giữ gìn báu vật đó. Đến giờ phút này ngồi viết lại mốc son lý tưởng, ước mơ của cuộc đời, thì tôi sắp được nhận huy hiệu 60 tuổi Đảng (16/8/1959 – 16/8/2019). Tôi có quyền rất đáng tự hào là từ khi vào Đảng cho đến nay bất cứ ở đâu, làm nhiệm vụ gì từ nhỏ đến lớn tôi luôn luôn phấn đấu hoàn thành và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, đều được các cấp khen thưởng. Cho đến nay 84 tuỏi tôi vẫn đang tiếp tục tham gia sinh hoạt Đảng chưa xin miễn sinh hoạt như nhiều đồng chí khác. Vẫn tiếp tục cống hiến bằng trí tuệ, kinh nghiệm và bằng hành động cụ thể chẳng kém gì hồi còn đang tuổi thanh xuân.
- 26 –
Dưới cờ Đảng
Theo Đảng ta đi tuổi thiếu thời
Đảng viên ngày ấn tuổi đôi mươi
Vui đời quân ngũ đầy tâm huyết
Chí vững lòng son dạ sáng ngời
Nay về hưu trí còn lưu luyến
Tâm tư vương vắn nỗi đầy vơi
Tay cầm thẻ Đảng lòng suy nghẫm
Giữu vững lòng son nguyện xuốt đời ./.
(Sáng tác đầu năm 2014 nhân dịp 55 tuổi Đảng và 80 năm tuổi đời)
Trải qua hơn 4 năm trước khi tôi được điều động lên Huyện Đông Anh công tác, lúc bấy giờ hoàn cảnh kinh tế gia đình tôi vô cùng khó khăn thiếu thốn. Để tăng thêm thu nhập cho gia đình và bản thân có tiền, gạo đóng góp mỗi khi đi họp hành và học tập bồi dưỡng trên Huyện cũng như có đồng tiền mua đồng quà tấm bánh về biếu mẹ già và làm quà cho em gái út cùng con trai bé nhỏ đầu lòng, ngoài thời gian “Vác tù và cho hàng tổng” ra tôi đã cần cù chịu khó lam lũ lao động chân tay như từng đi gánh đất đấu dưới đáy sông cửa cống Liên Mạc bị cạn leo lên vượt qua đê đổ đất vào phía trong đê sông Hồng . Từng sáng sớm đi bộ lên chợ Yên Nhân, Hạ Lôi đong thóc về say sát làm hàng sáo, hoặc buôn cà chua, bầu bí, rau cỏ rồi gánh chạy bộ qua đò ngang sông Hồng đi ra chợ Bưởi, chợ Bắc Qua, chợ Đồng Xuân để bán. Lúc đó gia đình nghèo túng nên ngày chỉ ăn có 2 bữa chính là trưa và tối, không đủ gạo phải ăn độn thêm ngô, khaai cho thêm no. Thức ăn cũng chỉ rau muống, rau khoai lang với tương cà mắm muối là chính, thỉnh thoảng mới được miếng thịt, miếng cá cải thiện. Quần áo thiếu thốn vài ngày mới thay một lần, mặc dù mồ hôi muối lúc khô thành các vệt trắng loang lổ trên quần áo, khi bị rách phải vá chằng vá đụp ở hai đầu gối, 2 khuỷu tay, sau lưng và mông đít.
MỘT BƯỚC NGOẶT MỚI CỦA CUỘC ĐỜI
Tháng giêng năm 1960 tôi nhận được quyết định của Ủy ban hành chính tỉnh Vĩnh Phúc tái tuyển lên làm văn phòng Ủy ban hành chính huyện Đông Anh. Ngồi chưa ấm chỗ tôi lại nhận được quyết đình của Huyện Ủy Đông Anh điều động và bổ xung tôi sang làm Ủy viên thường vụ BCH huyện đoàn Thanh niên lao động huyện Đông Anh, trong khi tôi chưa có trình độ nghiệp vụ chuyên môn gì cả. Lúc này một khó khăn vất vả nhất kéo dài gần 2 năm đó là chưa được phân phối xe đạp, nên đi công tác xuống các Xã trong Huyện đều phải đi bộ. Phải ăn ở tập thể trên cơ quan Huyện, mỗi tuần thậm chí 2-3 tuần mới tranh thủ về nhà một lần. Dù đi ngược về suôi nhưng sáng thứ hai và sáng thứ năm hàng tuần phải về cơ quan Huyện để học tập bổ túc văn hóa (lúc này trình độ văn hóa của tôi mới lớp 3) ấy thế mà tôi phấn đấu đến năm 1963 cũng thi tốt nghiệp hết cấp II bổ túc văn hóa ( bằng tốt nghiệp tôi vẫn lưu giữ cho đến bây giờ). Qua Đại hội Đoàn Thanh niên huyện Đông Anh lần thứ III tháng 11 năm 1961 tôi được bầu làm phó bí thư BCH huyện đoàn ( do đồng chí Nguyễn Văn Anh làm bí thư Huyện đoàn). Đến đầu năm 1962 tôi mới
- 28 -
được đi học bổ túc về công tác Thanh vận ở Trường Đoàn Trung Ương, sau đó qua đại hội Đoàn tòan Huyện lần thứ IV tháng 01 năm 1963 tôi được bầu là bí thư BCH huyện đoàn thanh niên Đông Anh. Đồng thời qua dại hội đại biểu Đảng bộ huyện Đông Anh lần thứ VII ngày 10/3/1963 tôi được bầu là Huyện ủy viên BCH Đảng bộ huyện Đông Anh, cho đến cuối tháng 4 năm 1965 tôi nhận lệnh lên đường tái ngũ trở lại Quân đội nhân dân Việt Nam .
Trong thời gian 5 năm tôi làm công tác Đoàn thanh niên có nhiều phong trào và cao trào góp phần “Xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961-1965”. Với lực lượng dời non và lấp biển của thanh niên nông thôn tập trung vào ứng dụng khoa học kỹ thuật cải tiến công cụ lao động nông nghiệp, phong trào đào đắp xây dựng các công trình thủy lợi, phát triển chăn nuôi, trồng trọt v.v từ một điển hình nhanh chóng nhân lên đại trà trong toàn Huyên ..Đậm nét nhất là thanh niên Đông Anh đã là nòng cốt trong việc đào kênh đại thủy nông Ấp Bắc – Nam Hồng dài trên 8 km cùng các kênh mương dẫn nước dài trên 14 km góp phàn cơ bản khắc phục được nạn hạn hán kinh niên trước đây, trong việc đắp đê quai chống úng cho thôn Vân Điềm xã Vân Hà, cho thôn Mạch Tràng xã Cô Loa v.v….
Những kỷ niệm đáng nhớ trong 5 năm làm công tác Đoàn thanh niên ở huyện Đông Anh thì nhiều, nhưng có 2 sự kiện đáng nhớ nhất lưu giữ trong đời tôi, đó là :
XÂY DỰNG PHONG TRÀO THANH NIÊN 3 SẴN SÀNG
Tiền đề của phong trào “Thanh niên 3 sẵn sàng”: Đó là Đế quốc Mỹ dàn dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ vu khống tàu chiến của hải quân Việt Nam bắn vào tầu chiến Ma Đốc của Mỹ ngày 2/8/1964. Thế là cả ngày 5/8/1964 đế quốc Mỹ đã cho nhiều tốp máy bay tấn công đánh phá vào các căn cứ hải quân của quân đội ta từ Quảng Bình, Nhgệ An, ra Thanh Hóa và Quảng Ninh. Do quân ta cảnh giác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu cao nên lực lượng phòng không dưới các tàu chiến và trên đất liền đã anh dũng kiên cường chiến đấu. Kết quả quân dân ta đã bắn rơi 8 chiếc máy bay của Mỹ, bắt được một số giặc lái. Sau sự kiện này, với sự nhạy bén của Thanh niên. Ngày 8/8/1964 Ban Thường vụ Thành Đoàn Thanh niên lao động thành phố Hà Nội đã phát động một phong trào :
“THANH NIÊN 3 SẴN SÀNG” với nội dung “Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm – Sẵn sàng lên đường nhập ngũ – Sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần”. Sau đó Huyện Đoàn Thanh niên Đông Anh là Huyện đầu tiên ngoại thành Hà Nội đã nhanh chóng triển khai xây dựng phong trào ‘Thanh niên 3 sẵn sàng” sâu rộng trong toàn Huyện, đặt ra 2 yêu cầu cụ thể là: Thứ nhất vận động đoàn viên, thanh niên viết đơn tình nguyện thực hiện “3 sẵn sàng”. Kết quả rất nhiều lá đơn hưởng ứng,, trong đó có những đơn viết bằng máu xin được lên đường nhập ngũ ngay. Thứ hai Đoàn Thanh niên mỗi Xã thành lập ngay một trung đội “Thanh niên 3 sắn sàng” chuẩn bị khi có lệnh là lên đường nhận nhiệm vụ được ngay.
Lúc này huyện Đông Anh có một sự kiện hào hùng, xúc động: Trong trận lực lượng hải quân ta đánh máy bay Mỹ ngày 5/8/1964, đã có một thanh niên ưu tú quê hương Đông Anh là đồng chí Đỗ Duy Tiền người thôn Oai Nỗ, xã Uy Nỗ là pháo thủ
- 29 -
phòng không trên tầu chiến của quân chủng Hải quận, quá trình trực tiếp chiến đấu bắn máy bay Mỹ, đồng chí Tiền đã bị thương nặng ở bụng, nhưng lấy tay bịt vêt thương tiếp tục kiên cường dũng cảm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng trên mâm pháo (Qua kể lại của đoàn cán bộ Đơn vị Hải quận khi đem giấy báo tử và tư trang của đồng chí Đỗ Duy Tiền về tận gia đình trao lại, có đại diện lãnh đạo Xã cùng Lãnh đạo Huyện trong đó có tôi về dự).
Đồng thời thêm một sự kiên thứ ba là cùng thời gian lúc này Huyện Đông Anh nhận được lệnh tuyển chọn lực lượng đoàn viên thanh niên ưu tú đã đăng ký “3 sẵn sàng” thành lập 1 đại đội Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước đầu tiên của huyện
Đông Anh rồi tổ chức hành quân lên tỉnh Yên Bái để tham gia mở đường chiến lược từ Việt Nam sang Trung Quốc.
Ban chấp hành Huyện Đoàn Đông Anh đã quyết định sẽ tổ chức một buổi bí mật ra lệnh tổng động viên tập trung lực lượng “Thanh niên 3 sẵn sàng” về Huyện nhằm 3 mục đích : Thứ nhất đánh giá kết quả thanh niên huyện Đông anh hưởng ứng phong trào “Thanh niên 3 sẵn sàng” – Thứ hai: Mít tinh nêu tấm gương sáng kiên cường dũng cảm chiến đấu hy sinh và làm lễ truy điệu liệt sĩ Đỗ Duy Tiền , phát động thanh niên Đông Anh hãy hoc tập và biến căm thù thành hành động . Thứ ba : Làm lễ tiễn chân đại đội TNXP lên đường làm nhiệm vụ.
Sau một thời gian chuẩn bị và phân công trách nhiệm cụ thể khâu tổ chức thực hiện, vào lúc 19 giờ ngày 14/9/1964, tôi nhân danh bi thư Huyện Đoàn phát lệnh tập hợp lực lượng Thanh niên 3 sẵn sàng trong toàn Huyện hành quân về tập trung tại bãi chiếu bóng cố định của huyện Đông Anh vào 5 giờ sáng ngày 15/9/1964 (Có báo cáo và mời Thường vụ Huyện Ủy, thường trực Ủy ban hành chính huyện Đông Anh và điện thoại trực tiếp mời Thường vụ Thành Đoàn thanh niên Hà Nội về dự). Sau phát lệnh được vài tiếng đồng hồ thì một sự cố thiên nhiên bất thường sảy ra hầu như góp thêm phần thử thách đối với thanh niên Đông Anh : Một trận mưa to gió lớn, sấm chớp ầm ầm kéo dài hơn 2 tiếng đồng hồ đã sảy ra, lúc này nhìn ra ngoài đường và cánh đồng một màu nước trắng xóa… Tôi và anh Nguyễn văn Mộc phó bí thư Huyện Đoàn tâm trạng lo lắng bồn chồn than thở với nhau “có lẽ buổi tập dượt bị thất bại mất thôi”. Hơn 2 giờ sáng cơn mưa giông tạnh, anh em thường trực Huyện Đoàn chúng tôi kéo nhau ra ngay sân bãi chiếu bóng để trang trí khánh tiết lại và phân công nhau chuẩn bị ra đón các đại biểu đến dự, đón đoàn quân các Xã hành quân về địa điểm. Một thành công ngoài sự mong đợi không thể ai ngờ được đó là: từ 4 giờ đến 5 giò sáng trên các ngả đường đổ về Huyện các đội hình hành quân rầm rập của 22 xã, mỗi thanh niên trên lưng đeo ba lô hoặc túi đựng quần áo, khoác bên ngoài vòng lá ngụy trang, trên tay mỗi thanh niên là một chiếc gậy tre thay súng. Buổi lễ mít tinh được thực hiện đúng giờ, đúng như kịch bản đã bàn bạc. Được đón tiếp đồng chí Lưu Minh Châu bí thư Thành Đoàn Hà Nội và một số trong Ban thường vụ Thành Đoàn về dự. Được đón tiếp đồng chí Phạm Dẫn bí thư Huyện Ủy và đồng chí Võ Dư Đồng chủ tịch Ủy ban hành chính Huyện cùng trưởng các ban ngành, đoàn thể của Huyện về dự. Sau khi kết thuc mít tinh, là các đại biểu cùng hành quân với
đại đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước ra ga xe lủa huyện Đông Anh tiễn đưa anh chị em lên tầu hỏa ngược lên tỉnh Yên Bái, cảnh tượng chia tay kẻ ở người đi thật là súc động, nhưng trong lòng mỗi người thấy thật đáng tự hào và sung sướng .
- 30 –
ĐƯỢC TRỒNG CÂY VỚI BÁC HỒ
Để thiết thực hưởng ứng Tết trồng cây do Bác Hồ phát động. Ban thường vụ Huyện Ủy Đông Anh đã giao trách nhiệm cho Huyện Đoàn Thanh niên Đông Anh huy động lực lượng thanh niên tập trung 2 ngày 29 và 30 tháng chạp âm lịch năm Giáp Thìn 1964 (Tức ngày 31/1 và 1/2/1965) đào hố và trồng cây hai bên đường trên một đoạn đường quốc lộ số 2 từ thôn Tiên Hội xã Đông Hội xuống đến ngã ba Đống Lủi rồi rẽ theo đường đi vào Đền Cổ Loa. Tôi bí thư huyện đoàn cùng đồng chí Văn huyện ủy viên kỹ sư nông nghiệp được đồng chí Phạm Dẫn bí thư Huyện Ủy giao trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo tổ
chức thực hiện nhiệm vụ trên. Ngày 29 tháng chạp có trên 400 đoàn viên thanh niên rải ra đào xong hố trồng cây 2 bên đường, chiều tối nhận xe chở cây đem giải hết cây đặt vào trong từng hố đẫ đào sẵn để sáng sớm ngày hôm sau sẽ lấp đất, tưới nước vun trồng xong.
Một dấu hiệu đặc biệt là buổi chiều 29 tháng chạp một số đồng chí Thường vụ Huyện Ủy và trưởng ban nông nghiệp Huyện trực tiếp xuống khu vực thôn Tiên Hội để tìm và đã xác định được một nơi ở trên dải đất cao bên cạnh đường quốc lộ số 2 đối diện với thôn Tiên Hội để đào một hố trồng cây tương đối rộng, vào làng xin vài thúng phân trâu bò đã qua ủ tơi sốp ra đổ cạnh hố trồng cây, một số cán bộ nông nghiệp Huyện đi tìm mãi đến tối mịt mới đem về một cây đa còn nhỏ tươi tốt cao khoảng 1 mét để sẵn bên cạnh hố, đêm hôm đó có một số Công an Huyện xuống canh gác tuần tra. Qua đó tôi cứ đoán già đoán non chắc chắn sáng mai sẽ có một lãnh tụ của Đảng hay Nhà nước về trồng cây đa này, nhưng là ai đây ?. Tôi không nghĩ Bác Hồ sẽ về trồng cây đa này, vì tết năm 1962 Bác Hồ đã về trồng cây đa ở khu vực Cầu Đôi Vực Dê rồi, có thể là đồng chí Lê Duẩn, hay Trường Chinh, hoặc Phạm Văn Đồng sẽ về trồng cây đa này ?. Thế nhưng dự đoán của tôi lại hoàn toàn sai hết.
Sáng sớm hôm sau 30 tháng chạp (1/2/1965) trong lúc tôi cùng anh Văn ra mặt đường kiểm tra đôn đốc và động viên anh chị em thanh niên khẩn trương trồng cây, nhất là phải múc nước tưới đậm để đảm bảo trồng cây nào sống cây ấy như lời Bác Hồ đã căn dăn. Khoảng gần 7 giờ sáng một đoàn xe ô tô toàn xe con chạy nối đuôi nhau, đi đầu có xe của Công An dẫn đường, đoàn xe đã dừng lại khi chạy đến khu vực có hố cây to chuẩn bị tối hôm trước. Thật bất ngờ không thể tưởng tượng nổi đối với tôi khi thấy Bác Hồ từ trên xe bước xuống. Bác giơ tay vẫy chào mọi người rồi từ từ đi lên chỗ trồng cây. Lúc này tiếng hô Bác Hồ muôn năm, Hồ Chủ Tịch muôn năm cứ như sấm rền lan truyền suốt dọc đường trồng cây, thế là tất cả anh chị em thanh niên tay cầm cuốc, cầm sẻng bỏ trồng cây chạy ngược từ dốc Lủi lên mồm thì hô vang Bác Hồ muôn năm, chỉ loáng một cái anh chị em đã đứng ngồi chật một đoạn đường số 2 ngước nhìn lên xem Bác Hồ đang trồng cây, lúc này tôi thấy đồng chí Trần Duy Hưng chủ tịch Ủy ban hành chính thành Phố Hà Nội đứng trên gò cao cứ gào to lên “Theo gương Bác, các đồng chí đi trồng cây đi chứ ? nhưng không ăn thua gì. Có lẽ Bác hiểu tâm lý của các cháu thanh niên lúc này nên vẫy tay bảo các cháu ngồi xuống giữ trật tự, một số cán bộ Huyện trong đó có tôi và vài chị Phụ nữ Huyện vinh dự được đứng gần cạnh Bác nhất để đưa sẻng cho Bác sới đất vun vào gốc cây và chuyền đưa ô doa nước cho Bác tưới cây sau khi trồng xong. Lúc này nhân dân trong làng Tiên Hội biết tin Bác Hồ về trồng cây ngay trước cửa làng mình,
- 30 –
mọi người đua nhau chạy tới tấp ra đứng ngồi thêm đông đảo ngoài mặt đường số 2. Bác Hồ trồng cây xong, Bác đi ra vẫy tay yêu cầu các cháu thanh niên và dân làng giữ yên lặng để nghe Bác căn dặn. Bác nói đại ý : “Bác trồng cây này để mai sau các cháu có bóng mát, các cháu hãy chăm bón cho cây mau lớn để sớm có chỗ vui chơi.”…Rồi Bác nói với các cụ cao niên và dân làng: “Tôi trồng cây đa này để tặng dân làng và các Cụ, mong các cụ để tâm chăm sóc, cho xóm làng bốn mùa xanh tươi”. Sau đó Bác cùng các đồng chí lãnh đạo Trung ương và Thành phố lên xe trở về Hà Nội.
Đây là lần thứ 6 tôi được gập Bác Hồ, nhưng đây là lần đàu tiên tôi được ở gân Bác nhất, lại vinh dự được tham gia cùng trồng cây với Bác. Đồng thời đây cũng là lần cuối cùng được gập Bác cho đến ngày Bác Hồ đi xa về cõi vĩnh hằng với Tổ Tiên, với cụ Mác – Ăng Ghen – Lê Nin (2/9/1969)
Nhân sự kiện trên, tôi ghi chép tóm tắt 5 lần trước tôi đã được gập Bác Hồ ra sao ?
- Lần thứ nhất : Vào cuối năm 1955 có sự kiện: Tổng thống Ấn Độ PratSat sang thăm miền Bắc nước ta. Tôi đoán chắc thế nào Bác Hồ cũng trực tiếp sang sân bay Gia Lâm để đón Tổng Thống Ấn Độ. Thế là tôi quyết chí đi ra Hà Nội để được nhìn thấy Bác Hồ, sáng sớm hôm đó tôi thức dậy khoảng 3 giờ sáng, ăn vội bát ngô bung rồi đi bộ xuống bến đò Đại Độ đi đò ngang sang bến Chèm, rồi cứ thẳng dọc đường đê bờ nam sông Hồng cuốc bộ thật nhanh suôi xuống đến cầu Long Biên thì rẽ phải xuống bốt Hàng Đậu, rồi tìm một chỗ ven đường Phan Đình Phùng để ngồi chờ đón đoàn xe có Bác Hồ và tổng thống Ấn Độ đi qua. Lúc này mới khoảng 5- 6 giờ sáng thế mà dòng người ở các nơi đổ về đã đứng ngồi chật cứng hai bên dọc đường Phan Đình Phùng. Đến khoảng 7 giờ sáng thì bắt đàu nghe thấy tiếng hô vang “Hồ Chủ Tịch muôn năm – Bác Hồ muôn năm….” lan truyền từ trên đầu cầu Long Biên xuống rồi cứ thế những tiếng hô tiếp theo vang dội dọc con đường khi đoàn xe đón tổng thống Ấn Độ đang đi qua. Tôi cố lấn đứng ra phía ngoài cùng cạnh đường mắt nhìn về phía đường từ đầu cầu Long Biên đi xuống, xa xa đã trông thấy 1 xe con đi thứ hai mui trần có hình bóng của Bác Hồ và Tổng thống Ấn Độ đang đứng trên xe dơ tay vẫy vẫy chào đáp từ nhân dân hai bên đường. Xe đi rất chậm nên mọi người được nhìn thấy Bác Hồ rất rõ. Bác mặc bộ ka ky bàng bạc, khỏe mạnh nhưng hơi gầy, đôi mắt sáng long lanh hấp dẫn, chòm râu lơ thơ bay trước gió, trên môi Bác luôn luôn nở nụ cười. Thế là lần đầu tiên tôi được gập Bác Hồ trong bối cánh lịch sử như vậy đấy.
- Lần thứ hai : Giữa năm 1962 khi tôi đang học ở Trường Trung Ương Đoàn thì có sự kiện: Chủ tịch nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa Lưu Thiếu Kỳ và phu nhân Vương Quang Mỹ sang thăm Việt Nam, trong buổi mít tinh đón tiếp trên kỳ đài tại quảng trường Ba Đình (Lúc đó cả kỳ đài và quảng trường còn nhỏ hẹp nằm bên trái của Kỳ đài và quảng trường Ba Đình rộng lớn ngày nay) học viên Trường Đoàn TƯ được đi tham gia và được xếp đứng gần trên kỳ đài của quảng trường. Sau bài phát biểu của Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, đến Bác Hồ phát biểu, tôi nhớ mãi khi nói đến chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, Bác ngừng đọc rồi chỉ tay vào chủ Tịch Lưu và nói “Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ là một người cộng sản Mác-xít một trăm phần trăm” . Khi đọc đến bà Vương Quang Mỹ, Bác lại ngừng đọc rồi chỉ tay vào bà Vương và nói “Cô Vương Quang Mỹ đã giúp đỡ Bác chỗ ở và may vá cho Bác khi Bác đang hoạt động bên Trung Quốc”.
- 31 -
- Lần thứ ba : Tết trung thu rằm tháng tám năm 1962, cũng dịp tôi còn đang học ở trường Đoàn TƯ, Thành Đoàn Thanh niên Hà Nội tổ chức trang trọng lễ đón tết Trung thu ở sân Cung thiếu nhi Hà Nội, học viên trường Đoàn TƯ cũng được đến tham dự. Trong lúc các cháu thiếu nhi đang hát ca múa, thì bất ngờ Bác Hồ xuất hiện từ sau sân khấu đi ra, thế là không khí náo nhiệt mọi người đều hô to “Bác Hồ muôn năm, Hồ Chủ Tịch muôn năm” lắp đi lắp lại nhiều lần. Bác dơ tay ra hiệu mọi người trật tự, yên lặng để nghe Bác nói chuyên. Sau khi Bác nói ngắn gọn xong rồi Bác ra về.
- Lần thứ tư : Giữa năm 1963 tại Đại hội Đại biểu Đoàn Thanh niên lao động thủ đô Hà Nội (ở hội trường của Trường đại học Bách Khoa ở khu vực Bạch Mai) trong Đại hội có đoàn đại biểu của Huyện Đoàn TN Đông Anh do tôi làm trưởng đoàn. Sau lễ khai mạc, trong lúc đồng chí Lưu Minh châu Bí thư Thành Đoàn đang đọc báo cáo thì Bác Hồ và đại tướng Nguyễn Chí Thanh đến thăm đại hội. Sau khi đại hội lắng nghe những lời dạy bảo của Bác, cuối cùng Bác chúc đại hội thành công tốt đẹp. Trước khi Bác ra về Bác nói “Bác vội về, sẽ nhường lại cho chú Nguyễn Chí Thanh ở lại tiếp tục nói chuyện với Đại hội”.
- Lần thứ năm: Cuối năm 1963, tại hội nghị cán bộ Đoàn thanh niên lao động Thủ đô Hà Nội (ở hội trường của Trường Đại học sư phạm -hay Ngoại ngữ ở đường Nguyễn Trãi quận Thanh Xuân ngày nay) trong đó có tôi cùng một số cán bộ Huyện Đoàn Đông Anh tham dự. Hội nghị đã vinh dự được đón Bác Hồ đến thăm và nghe lời Bác dạy bảo .
Đối với cùng thế hệ đương thời tuổi tác như tôi, công tác ở cấp Huyện như tôi mà 6 lần được gập Bác Hồ thỉ quả thật là một điều rất may mắn, rất hạnh phúc và rất đáng tự hào .
- 32 -
Phần thứ ba
LÊN ĐƯỜNG THAM GIA 10 NĂM CHỐNG MỸ
GIẢI PHÓNG MIỀN NAM – THỐNG NHẤT TỔ QUỐC Tháng 5 năm 1965 – Tháng 5 năm 1975
- 33 --
TÁI NGŨ TRỞ LẠI QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Trước nguy cơ cuộc chiến tranh đặc biệt do đế quốc Mỹ gây ra ở Miền Nam Việt Nam thất bại. Đế quốc Mỹ đã mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc Việt Nam, mở đầu là trận không kích ngày 5/8/1964, sau đó ngày một leo thang mở rộng mục tiêu đánh phá ra các nơi toàn miền Bắc, tăng cường máy bay đánh phá suốt ngày đêm từ vĩ tuyến 17 trở ra hòng đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá, đẩy lùi tốc độ xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngăn chặn miền Bắc chi viện sức người sức của cho cách mạng miền Nam. Đồng thời từ đầu năm 1965 tại chiến trường miền Nam đế quốc Mỹ và một số nước chư hầu đưa quân ồ ạt đổ bộ vào miền Nam biến cuộc chiến tranh đặc biệt trở thành cuộc chiến tranh cục bộ .
Trước sự tồn vong của dân tộc, Đảng ta đã đề ra khẩu hiệu chiến lược :
QUYẾT TÂM ĐÁNH THẮNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC – GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT TỔ QUỐC”. Để biến quyết tâm thành hành động, cả miền Bắc sôi sục khí thế cách mạng “Thóc không thiếu một cân – Quân không thiếu một người” để chi viện cho miền Nam. Lệnh động viên nhập ngũ và tái ngũ tăng cường lực lượng quân thường trực liên tục không ngừng tăng lên. Trong bối cảnh đó, cuối tháng 4/1965 tôi nhận được Lệnh tái ngũ của Ủy Ban hành chính thành phố Hà Nội và Quyết định điều động của Thành Ủy Hà Nội bổ xung cán bộ của Đảng vào quân đội. Thế là sáng ngày 01 tháng 5 năm 1965 tôi cùng 3 anh nữa lên đường nhập ngũ (anh Khoái cán bộ tuyên huấn Huyện, anh Hùng cán bộ tài chính Huyện và anh Thùy cán bộ ngoại thương Huyên).
Điều đáng nói đối với tôi đó là: Lệnh tái ngũ của tôi và lệnh nhập ngũ của 3 anh Khoái, Hùng, Thùy đã về Huyện từ giữa tháng 4/1965. Huyện đã trao lệnh nhập ngũ cho 3 anh, các anh được bố trí nghỉ phép về để thu xếp gia đình, cơ quan tổ chức liên hoan dộng viên và chia tay. Còn trường hợp của tôi thì mãi tận chiều ngày 29/4/1965 anh Nguyễn Văn Anh, thường vụ Huyện ủy trưởng phòng tổ chức Huyện Ủy mới trực tiếp đem Lệnh tái ngũ và Quyết định điều động đảng viên của Thành Phố xuống Phòng làm việc của Huyện Đoàn giao cho tôi và nói ngắn gọn: “Sau khi nhận được lệnh của Thành Phố thì anh Phạm Dẫn bí thư Huyện Ủy và tao muốn giữ mày lại nên đã mấy lần ra Thành Ủy và Ủy ban hành chính thành phố để đề nghị, nhưng cuối cùng các Ông ấy không nghe nên hôm nay mới chuyển lệnh và quyết định cho mày, thôi thông cảm với anh Phạm Dẫn và tao khẩn trương chuẩn bị để sáng ngày 1/5/1965 kịp lên đường.”. Thật là đột ngột. một việc đại sự như vậy mà chỉ còn có 1 ngày 2 đêm để bàn giao công việc cơ quan, để chuẩn bị thu xếp việc riêng gia đình và bản thân để kịp lên đường trở lại quân đội với 3 anh trên. Cái khó của gia đình tôi lúc đó là : Bố mẹ tôi có 2 con trai thì trong tháng 4/1965 anh trai tôi là Nguyễn Ngọc Diệp đang là chủ nhiệm HTX nông nghiệp xã đã nhận lênh tái ngũ trở lại quân đội đang tập trung rèn luyện sẵn sàng nhận mệnh lệnh lên đường vào Nam đánh Mỹ. Nay mới hơn 1 tháng lại đến lượt tôi nhận lệnh tái ngũ, đồng thời vợ tôi cũng đang bụng mang dạ chửa sắp đẻ đứa con thứ ba . Quả thật là hơi bê bối đấy, nhưng may thay khâu quyết định là tôi, chính tôi lúc nhận được lệnh cảm nhận đây là niềm vui mình được thể hiện vai trò gương mẫu của người bí thư huyện đoàn đối với phong trào “Thanh niên 3 sẵn sàng”, và vận dụng thực hiện lời dạy của Bác Hồ với thanh niên “Không có việc gì khó – Chỉ sợ lòng không bền – Đào núi và lấp biển – Quyết chí ắt làm
- 34 -
nên”. Đồng thời cũng may thay là bố mẹ tôi rất giác ngộ chính trị nên khi nghe tôi trình bày là các Cụ đồng ý cho tôi tái ngũ ngay, U tôi còn động viên “Thôi con cứ yên tâm lên đường làm nhiệm vụ. Việc khó khăn của vợ và các con của con ở nhà đã có U lo”. Riêng có vợ tôi là khi biết tin thì rất buồn, bồn chồn lo lắng khóc thầm rất nhiều, chắc là lo cho tôi ngày đi thì có, ngày về thì không, và lo bao nhiếu khó khăn vất vả về đời sống một mẹ già, 3 con nhỏ sắp tới đều đổ lên đầu vợ tôi, lúc này tôi thấy cũng thương và ái ngại cho vợ tôi lắm, phải độngviên an ủi mãi vợ tôi mới tạm nguôi ngoai không khóc nữa. Sáng ngày 30/4/1965 cả gia đình nấu mấy đĩa sôi và mổ thịt luộc một con gà làm lễ kính báo với Tổ Tiên, Ông Bà, Cô dì, chú Bác biết mong sẽ phù hộ độ trì cho tôi tránh được mũi tên hòn đạn, đi đến nơi về đến chốn, mạnh khỏe, an toàn.
Thế là sáng 01/5/1965 (Ngày quốc tế lao động) tôi lên Huyện, dự bữ cơm trưa do Huyện Ủy chiêu đãi, đến 1 giờ chiều Huyện cho 1 chuyến xe con trở 4 anh em chúng tôi ra bàn giao cho Bộ tư lệnh Thủ Đô Hà Nội. Ngủ qua đêm đến 5 giờ sáng ngày 02/5/1965 ra tập trung ở ga Hàng Cỏ cùng mấy trăm anh em lên tàu hỏa chạy ngược lên thị xã Lạng Sơn bàn giao cho Trường bổ túc công tác Đảng, công tác chính trị của Tổng cục chính trị QĐNDVN. Sau đó được phát quân trang của quân đội và được biên chế thành các tiểu đội, trung đội của 3 đại đội trong 1 tiểu đoàn của nhà trường. Khung cán bộ đều là sĩ quan hạ thấp xuống một bậc như: Tiểu đội trưởng nguyên là cán bộ trung đội trưởng, Trung đội trưởng nguyên là cán bộ đại đội (đều trung úy), Ban chỉ huy đại đội nguyên là cán bộ Tiểu đoàn (cấp bậc đều thượng đại úy) và Ban chỉ huy tiểu đoàn nguyên là cán bộ Trung đoàn (Đều thiếu trung tá).
Sau 6 tháng học tập và một đợt xuống cơ sở thực tập. Nhà trường làm lễ bế mạc đúng vào ngày 22 tháng 12 năm 1965, ngày kỷ niệm thành lập QĐNDVN 21 năm. Hầu hết học viên đều được phong quân hàm cấp bậc thiếu úy và một số ít là trung úy – Về chức vụ được phong là chính trị viên phó và chính trị viên đại đội. Riêng tôi do tái ngũ, lại là Huyện ủy viên, bí thư huyện đoàn thanh niên nên tôi được phong quân hàm cấp bậc trung úy, chức vụ chính trị viên đại đội. Tôi cùng 19 đồng chí nhận quyết định điều động vào nhận nhiệm vụ ở Bộ tư lệnh Đoàn 559 tuyến đường Trường Sơn huyền thoại anh hùng, tôi được nhà trường phân công làm trưởng đoàn, khi về đến Hà Nội có xe ô tô của Đoàn 559 ra đón đưa vào nơi đóng quân của Bộ tư lệnh Đoàn 559 ở trong một háng đá khu vực Hóa Tiến ỏ chân núi phia đông dãy Trường Sơn huyện Hương Hóa, miền tây tỉnh Quảng Bình.
- 35 -
10 NĂM GẮN BÓ VỚI CON ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN
ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI ANH HÙNG
Trước hết để giúp bạn đọc hiểu khái quát được con đương Trường Sơn là như thế nào ? tôi sẽ cung cấp một số tư liệu sau tổng kết l6 năm tồn tại của con đường Trường Sơn (1959 đến 1975) như sau :
- Có 5 con đường trên tuyến đường Trường Sơn gồm : 1-Đường giao liên hành quân đi bộ 2- Đường ô tô cơ giới + 3- Đường sông + 4- Đường ống xăng dầu + 5- Đường dây trần điện thoại tải 3 . Riêng tuyến đường xe ô tô vận tải có 5 đường trục dọc và 21 đường
trục ngang cả Đông và Tây Trường Sơn dài gần 20.000 km. – Hệ thống ống dẫn xăng dầu dài 1.400 km. – Đường sông dài trên 500 km.
- Mỹ Ngụy đã mở 111.135 trận không kích, kể cà B52 + Thả hơn 7.500.000 quả bom và hàng triệu quả mìn các loại, nhiều hơn trên chiến trường Đức và Nhật trong thế chiến thứ hai.
- Công binh và TNXP đã đào đắp khoảng 29.000.000 m3 đất đá và san lấp 78.000 hố bom + Phá 12.600 quả bom từ trường, 8.000 quả bom nổ chậm và 85.100 mìn các loại.
- Đánh 2.500 trận, loại khỏi vòng chiến đấu gàn 20.000 tên địch.- Thu và phá hủy hơn 100 xe quân sự và hàng nghìn súng các loại.
- Bắn rơi hơn 2.455 máy bay các loại
- Tổ chức hành quân hơn 2.000.000 lượt bộ đội, cán bộ Dân Chính Đảng vào, ra qua tuyến đường giao liên đi bộ, và trên xe ô tô vận tải.
- Vận chuyển đưa hơn 1.000.000 tấn vũ khí, lương thực chi viện cho chiến trường miền Nam. Riêng năm 1974 lượng hàng gấp 22 lần năm 1966.
- Chuyến hàng đầu tiên chi viện cho Miền Nam thồ gùi đường bộ xuất phát từ Khe Hó (Tây nam Vĩnh Linh) tháng 9 năm 1959.
- Mùa khô 1961 – 1962 đoàn xe ô tô đầu tiên trở hàng vào chiến trường miền Nam trên tuyến đường Trường Sơn.
- Trong chiến dịch phản công chống cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của địch tháng 3 năm 1971, các lực lượng ở Trường Sơn đã bắn rơi 365 máy bay các loại .
Tiêu diệt 8.105 tên và bắt sống 1.160 tên. Phá hủy 136 xe tăng và xe cơ giới,86 khảu pháo
- Trên tuyến đường Trường Sơn thời kỳ chống Mỹ các lực lượng của ta đã hy sinh trên 20.000 người và thương binh trên 30.000 người .
( Trích trong bài “Đường Trường Sơn con số - kỷ lục – sự kiện in trong quyển
“Trường Sơn ngày ấy – Bây giờ” nhà xuất bản Thanh Niên năm 2016 )
- 36 -
Sau vài ngày nghỉ ngơi chờ đợi, chúng tôi được Đại tá Vũ Xuân Chiêm Bí thư Đảng Ủy kiêm chính ủy Đoàn 559 gập gỡ sơ bộ giới thiệu tình hình nhiệm vụ và tuyến đường Trường Sơn, trao quyết định điều động về các đơn vị nhận nhiệm vụ. Riêng tôi được điều động về làm chính trị viên đại đội xe vận tải quân sự của Tiểu đoàn 51 thuộc
Binh trạm I Đoàn 559. Thế là đến đây 19 anh em trong đoàn cán bộ được Tổng Cục Chính Trị điều động vào nhận nhiệm vụ ở Đoàn 559 phải chia tay nhau, mỗi người về công tác ở một đơn vị binh chủng khác nhau như xe, công binh, pháo, giao liên, kho tàng v.v…
Sau khi tôi nhận quyết định điều động của Bộ tư lệnh Đoàn 559 thì ngay tối hôm đó (có lẽ khaảng ngày 26-27/12/1965) kết hợp đi nhờ xe ô tô vận tải của một đơn vị mới thành lập hành quân theo con đường 12 trục ngang từ Hương Hóa Quảng Bình vượt qua núi non đèo dốc hiểm trở qua đèo Mụ Dạ, biên giới Cổng Trời sang đến đất tỉnh Khăm Muộn của nước bạn Lào. Rồi vào xâu hơn chục cây số đến khu vực đóng quân của Binh Tram I trong một khu rừng già bao la cây cao, tán rộng ban ngày che phủ kín ánh mặt trời, ban đêm thì tối bưng như mực. Lúc này quân ta mới triển khai vận chuyển chi viện cho miền Nam bằng xe ô tô cơ giới quy mô lớn, mới đàu máy bay Mỹ hãy còn hạn chế hoạt động đánh phá ngăn chăn. Tôi được đồng chí Chính Ủy Binh trạm gập động viên giao nhiệm vụ về làm bí thư chi bộ, chính trị viên đại đội 14 thuộc Tiểu đoàn 51 ô tô vận tải quân sự, là tiểu đoàn mang phiên hiệu đứng đầu các tiểu đoàn xe của Đoàn 559 đang trong giai đoạn vừa làm nhiệm vụ vận chuyển, vừa tiếp nhận hậu phương bổ xung cán bộ chiến sĩ lái xe và các loại xe để kiện toàn tổ chức đầy đủ 4 đại đội xe trong Tiểu đoàn. Đối với tôi mọi công việc đều hoàn toàn mới mẻ, bỡ ngỡ, tôi là cán bộ cấy ngang duy nhất trong tiểu đoàn khi về công tác đơn vị xe ô tô vận tải mà không biết lái xe, không biết một tý gì về kỹ thuật, về chuyên môn của ngành xe, về tâm sinh lý con người lái xe. Nhưng bù lại thì do tôi có bản chất ham học hỏi, khiêm tốn giản dị, gần gũi cởi mở chuyện trò với mọi người nên dễ gần gũi chan hòa với cán bộ chiến sĩ xung quanh, nhất là với 3 đồng chí, đồng đội trong Ban chỉ huy đại đội (Đồng chí Thường đại dội trưởng, đồng chí Ngọc đại dội phó, đồng chí Phấn chính trị viên phó đại đội). Nên chỉ sau một mùa khô vận chuyển (Tháng 1 đến tháng 6/1965) tôi đã tranh thủ những chuyến đi chỉ huy đội hình xe vận chuyển qua các lái xe hướng dẫn giúp đỡ mà tôi đã học và lái được các loại xe được biên chế của đại đội (như Gát 63, Zin 57, Praga và Star).
Sau mùa khô đầu tiên trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại, tôi đã ngẫu hứng tập làm thơ, bài thơ đầu tiên của tôi đã ra đời với tựa đề và nội dung như squ :
Đáng tự hào
Ôi ! sung sướng đáng tự hào biết mấy
Được lớn lên trong thời đại Hồ Chí Minh
Đường đi tới chắc còn nhiều gian khổ
Chông gai nhiều, máu đổ hy sinh
Giải phóng miền Nam, thống nhất giang sơn
Tôi sung sướng lại được lên đường chiến đấu
Trở lại quân đội của tuổi trẻ năm xưa
Những năm tháng trong thời kỳ chống Pháp
- 37 -
Nhưng nay cương vị mới đã khác xưa nhiều (1)
Anh bộ đội Cụ Hồ giản dị thật đáng yêu
Lại tiếp tục “Hành quân xa dẫu qua nhiều gian khổ”
Vượt mọi gian khổ “Đâu có giặc là ta cứ đi”
Dải Trường Sơn trùng điệp, non nước thầm thì
Những đoàn xe nối tiếp nhau đi,
Đưa hàng vào chiến trường Miền Nam ruột thịt
Trong đêm tối mịt mù không ánh trăng sao
Vượt qua bom đạn, pháo sáng địch thả trên đầu
Vẫn vững vàng tay lái, xe laijxe nối tiếp nhau
Trên tuyến đường Trường Sơn,đường Hồ Chí Minh huền thoại
Giải phóng miền Nam đang từng ngày nhích tới
“Tin vui thắng trận nở như hoa” (2)
Ngày mai thống nhất nước nhà
Việt Nam độc lập sẽ là mùa xuân ./.
(1) Đánh Pháp tiểu đội trưởng, Đánh Mỹ trung úy, chính trị viênđại đội.
-
Trích trong thơ chúc tết của Bác Hồ.
Do tôi luôn chủ động tu dưỡng rèn luyện học tập phấn đấu, luôn hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một cán bộ chính trị về công tác xây dựng Đảng và công tác chính trị tư tường trong các đơn vị. Bản thân luôn xông xáo, tháo vát, gương mẫu, dũng cảm cùng đồng đội vượt qua mưa bom bão đạn khi đi chỉ huy đội hình xe vận chuyển trên đường… nên trong gần 10 năm gắn bó với tuyến đường Trường Sơn, gắn bó với đơn vị xe ô tô vận tải quân sự, qua “Lửa thử vàng – Gian nan thử sức“ tôi đã ngày một trưởng thành, được Đảng Ủy và Bộ tư lệnh Trường Sơn tín nhiệm bổ nhiệm giữ cương vị lãnh đạo, chỉ huy ngày một cao hơn, cụ thể :
- Từ chính trị viên đại đội 14 xe, vươn lên chính trị viên phó và chính trị viên tiểu đoàn 51 xe anh hùng, rồi lên phó chính ủy và chính ủy trung đoàn 32 xe vận tải Trường Sơn anh hùng.
- Từ bí thư chi bộ đại đội lên bí thư Đảng ủy tiểu đoàn rồi bí thư Đảng ủy trung đoàn xe.
- Từ quân hàm trung úy lên đến trung tá.
Trong qúa trình gần 10 năm cùng đơn vị ngày đêm lăn lộn vượt qua mưa bom bão đạn , vào sinh ra tử, vượt qua hàng trăm trọng điểm trên các ngả đường ngang dọc đông tây Trường Sơn….. đến nay có biết bao nhiêu kỷ niệm đáng nhớ trong ký ức của tôi không sao kể hết ra đây được. Vì vậy tôi chỉ chọn lọc kể ra đây một số kỷ niệm sâu sắc và đáng nhớ nhất để chia sẻ cùng với anh chị em, con cháu và với đồng chí, đồng đội, bạn bè thêm hiểu về tôi.
- 38 -
NẾM MÙI GIAN KHỔ ĐẦU TIÊN Ở TRƯỜNG SƠN
Trong chuyến xe vận chuyển đầu tiên của đại đội 14 do tôi trực tiếp chỉ huy đội hình một trung đội gọn có 12 xe trên cung đoạn từ Tổng kho Binh trạm I vào đến tồng kho Binh trạm II dài trên dưới 100 km. Tất cả đều mới : xe mới, cán bộ và lái xe mới, cung đường cũng mới chạy lần đầu. Đội hình xuất phát khoảng 4 giờ chiều ngày 20/1/1966 (tức tối 30 tháng chạp năm Ất Tỵ) các xe đều chạy trong đêm tối bằng đèn gầm để tránh máy bay địch phát hiện đánh phá. Thuận lợi đây là mùa khô đầu tiên vận chuyển bằng xe ô tô quy mô lớn, thọc sâu vươn xa, lại là tháng thứ hai của đầu mùa khô, đường xá do anh em công binh mới mở, phần lớn chạy qua các khu rừng già, ít quãng trống nên đội hình xe đi gọn, an toàn không bị máy bay Mỹ phát hiện đánh phá ngăn chặn lần nào. Thế là đêm giao thừa đón xuân Bính Ngọ 1966 cán bộ chiến sĩ chúng tôi không được đón giao thừa nghe tiếng pháo nổ, nhất là không được nghe Bác Hồ đọc thơ chúc tết năm mới, cả đại đội lúc đó không có một chiếc đài bán dẫn nào cả. Đội hình xe chạy đến lúc trời sáng bạch hơn 6 giờ sáng ngày mồng một tết Bính Ngọ thi dừng lại tìm chỗ cất dấu xe trong rừng già, sau nghỉ ngơi lại sức, tôi phân công một số anh em phân tán mỗi người một hướng đi tim nguồn nước ở các suối xung quanh để nấu cơm, lấy nước bổ xung két nước của các xe và tranh thủ tắm giặt. Anh em còn lại thì chặt lá ngụy trang xe, tháo xăng ra khỏi xe, lăn thùng phuy đựng xăng trên các xe xuống để đảm bảo an toàn nếu không may bị máy bay địch phát hiện đánh phá thì xe không bị cháy. Loanh quanh đến gần 1 tiếng đồng hồ mà anh em không sao tìm ra được nguồn nước. Không lẽ chịu nhịn đói cả ngày ? thế là tôi bật ra sáng kiến bảo anh em tạm tháo lấy nước ở các két đựng nước ở đầu xe ra đủ để nấu cơm ăn, rồi sẽ tính sau. Mặc cho gạo đã cũ có mùi hôi cũng không có nước để đãi cứ thế đong mỗi người một bát tráng men đổ ngay vào nồi để nấu. Khi nước nóng lên thì mùi xăng trong nước bốc lên khó ngửi, thế là sáng kiến thứ hai nẩy ra tôi bảo anh em lấy mắm tôm khô cho một ít vào nồi cơm quấy đều lên để đẩy mùi xăng bay đi may ra cơm chín mới ăn được. Thực phẩm đem theo tiêu chuẩn chỉ có ít thịt hôp Trung Quốc viện trợ và mắm tôm khô thôi. Khi cơm chín còn mùi xăng nhưng anh em vẫn phải cố mà nuốt, nước canh không có vì không có rau xanh. Thế là bữa cơm đầu tiến đón xuân mới Bính Ngọ của chúng tôi là như vậy đấy.
Ăn xong lại phân công nhau tiếp tục đi xa hơn tìm suối nước. Khi đi bộ dọc theo con đường phía trước được khoảng hơn 1 km thì phát hiện có một trạm barie có cây tre chắn ngang đường. Trời ơi “buồn ngủ lại gập chiếu manh”, thế là tôi bảo anh em dương súng trường lên bắn chỉ thiên 3 phát súng (theo quy ước của Đoàn 559 nếu trên đường xe chạy mà gập sự cố tắc đường thì lái xe bắn 3 phát súng để báo hiệu cho anh em công binh biết đến chi viện ứng cứu. Khi đường thông thì bắn 2 phát súng báo đường đã thông). Sau đó ngồi chờ chưa đầy 20 phút thì có mấy anh em công binh xuất hiện tay cuốc, tay sẻng và bộc phá. Thế là chúng tôi mừng mừng tủi tủi, sau khi tôi trình bầy với trung đội trưởng công binh về khó khăn mà chúng tôi đang gặp phải, đề nghị anh em công binh giúp đỡ. Thế là anh em công binh cùng chúng tôi quay trở lại nơi cất dấu xe, đồng chí trung đội trưởng công binh nói: Mời các đồng chí lái xe vào đơn vị công binh nghỉ ngơi, tắm giặt lấy sức để tối tiếp tục hành quân vào trong, bữa cơm chiều hôm nay là mồng một tết, anh em chúng tôi sẽ chiêu đãi mời các đồng chí cùng ăn tết với chúng tôi”, còn xe hàng, các
- 39 -
đồng chí yên tâm chúng tôi sẽ cắt cử anh em công binh ra gác trông nom đảm bảo an toàn tuyệt đối, các đồng chí cứ yên tâm. Thế là chúng tôi đem theo tư trang và vài chiếc can sắt không có xăng (để đựng nước, chiều ra đổ vào két nước các xe) đi theo anh em công binh dẫn về nơi đóng quân. Chúng tôi được anh em công binh nhường cho giường sạp tranh thủ ngủ nghỉ, mới nằm được 5-7 phút đã nhiều tiếng ngáy vang lên không biết trời đất là đâu. Đến chiều anh em đánh thức chúng tôi dậy rồi dẫn xuống suối nước dưới chân đồi để tắm giặt. Lúc này bao nhiêu mệt mỏi được đẩy lùi. Khoảng 4 giờ chiều anh em công binh mời chúng tôi xuống nhà ăn cùng liên hoan bữa cơm tất niên thân mật. Bữa cơm có rượu rót ra mỗi mâm 1 bát , có bánh chưng xanh và thịt giò mỡ, nhưng không có dưa hành và câu đối đỏ. Gạo nếp, đỗ, lợn và rượu do anh em đem muối vào dân bản của Lào đổi lấy đem về . Ăn xong anh em lái xe chúng tôi chân thành cảm ơn đơn vị đã cưu mang chúng tôi trong lúc gập khó khăn “ một miếng khi đói bằng một gói khi no”. một hình ảnh đẹp của sự đoàn kết hợp đồng, lập công tập thể giữa 2 binh chủng công binh và binh chủng xe vân tải được thể hiện ngay trong chuyến xe đầu tiên của chúng tôi trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại anh hùng.
Chuyến xe đàu tiên của chúng tôi tương đối thuận lợi, đêm chạy ngày nghỉ, không bị máy bay Mỹ phát hiện đánh phá, đường thông suốt, đội hình xe vận chuyển vào ra trên đường còn ít nên nửa đêm hôm sau chúng tôi vào giao hàng cho tổng kho Binh trạm 2 xong, rồi quay ra ngay trở về đơn vị mất gần 3 đêm. Đảm bảo đội hình xe về gọn, an toàn cả người, xe và hàng. Coi như phát huy được truyền thống “Ra quân đánh thắng trận đầu” của quân đội ta.
- 40 -
MỘT TRỌNG ĐIỂM ÁC LIỆT
Tuyến đường tây Trường Sơn chủ yếu chạy trên đất nước Bạn Lào và Cămpuchia ngày một được mở rộng và kéo dài từ Bắc vào Nam, ngày một nhiều đường nhánh chạy ngang chạy dọc để vòng tránh các trọng điểm đảm bảo cho các đội hình xe vận tải quân sự đưa hàng vào các hướng chiến trường Miền Nam và bạn Lào, Cămpuchia . Máy bay Mỹ tập trung đánh phá ngăn chặn ngày một ác liệt, mỗi năm mở thêm ra nhiều trọng điểm hơn, ác liệt hơn, kết hợp máy bay giải chất độc da cam làm trụi hết lá các cánh rừng già bạt ngàn chạy dọc theo tuyến đường Trường Sơn. Đối với lái xe một đêm chạy trên đường phải vượt qua vài trọng điểm dưới làn mưa bom bão đạn như: bom nổ ngay, bom nổ chậm, bom phát quang, bom cháy Napan, bom từ trường, bom tọa độ, thậm chí hứng chịu những loạt bom hủy diệt từ trên máy bay chiến lược B.52 của Mỹ thả xuống. Trên đường phải dơ lưng ra hứng chịu nhiều đợt máy bay C.130 và B.26 cánh quạt thả pháo sáng, rải bom bi, bắn đạn 20 ly, 40 ly xuống như vãi trấu trước mặt, sau lưng và trúng ngay vao các xe đang chạy trên đường . Tổn thất xe, hàng bị cháy nổ, bị thủng lốp, lái xe hy sinh ngay trên vành tay lái và bị thương ngày càng tăng lên..
Bước sang mùa khô thứ hai năm 1967. Lúc này tôi mới được Bộ Tư lệnh đoàn 559 bổ nhiệm lên làm chính trị viên phó tiểu đoàn 51. Trong Ban chỉ huy Tiểu đoàn có đồng chí Dương Quốc Lý chính trị viên ( người Thái Nguyên), đồng chí Nguyễn Minh Châu tiểu đoàn trưởng (người Nghệ An), đồng chí Nguyễn văn Hậu tiểu đoàn phó (người Khánh Hòa miền nam). Tiểu đioàn 51 vẫn trực thuộc Binh Trạm I, cung đường vận chuyển vẫn chạy từ chân đèo Mụ Giạ thuộc tỉnh Khăm Muộn vào đến kho hàng của Binh Trạm 2 ở khu vực Lùm Bùm thuộc tỉnh Savanakhét trên đất bạn Lào. Từ đầu mùa khô năm 1967 máy bay Mỹ đã phát hiện tập trung đánh phá mở ra một số trọng điểm như Lằng Khằng - Pha Nốp, Xiêng Phan,ngã 3 xóm Péng, đèo Pa Kha và trọng điểm ác liệt nhất là từ km 25 đến km 28 đường 128.
Để đối phó với địch có hiệu quả, hạn chế thấp nhất thiệt hại xe, hàng, lái xe. Ban chỉ huy Binh Trạm 1 đã quyết định thành lập một Ban chỉ huy hỗn hợp giữa 3 lực lượng chủ công là đơn vị công binh + đơn vị xe vận tải + đơn vị pháo phòng không thường trực ngày đêm ở ngay một hang đá giữa trọng điểm km 25 – 28 đường 128. Tôi được Ban chỉ huy tiểu đoàn 51 cử vào tham gia Ban chỉ huy chung 3 lực lượng trên cùng nhau đoàn kết hợp đồng, lập công tập thể trong một chiến dịch vận chuyển cao điểm của mùa khô do Bộ Tư lệnh Đoàn 559 phát động từ tháng 2 đến hết tháng 3 năm 1967. Thế là đêm đón giao
thừa tết Đinh Mùi (09/2/1967), thao thức chờ đợi cho đến không giờ để được nghe Bác Hồ đọc thơ chúc tết :
“Xuân về xin có một bài ca
Gửi chúc đồng bào cả nước ta
Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi
Tin mừng thắng trận nở như hoa “
Đồng thời trong đêm thao thức đón giao thừa, ít nhiều tư tưởng cũng nghĩ đến các tết đã được đón giao thừa ấm cúng cùng với gia đình, ít nhiều cũng nhớ dến vợ, con. Thế là tự nhiên tôi lại nảy sinh ra một nghề mới, đó là nghề tập làm thơ, ca dao. Trong đầu óc thấy phấn trấn, vội lấy giấy bút ra ghi chép ngay những ý thơ lai láng mộc mạc như sau
- 41 -
Gửi em yêu !
Tết này là tết thứ hai
Anh đi đãnh Mỹ tạm thời xa em
Rồi đây thống nhất Bắc – Nam
Gia đình xum họp ta càng vui hơn
Giờ đây hãy trút căm hờn
Quyết tâm diệt Mỹ nếu còn chiến tranh
Hậu phương sản xuất tiến nhanh
Tiền tuyến vận chuyển hoàn thành chỉ tiêu
Mấy lời gửi tới em yêu !
Trọn đời chung thủy cùng nhiều cái hôn ./.
Gửi các con !
Con Bằng, con Nguyên, con Nga
Ba con ở nhà có nhớ bố không ?
Bố luôn một nhớ, hai mong
Diệt xong giặc Mỹ về cùng các con
Con Bằng nay đã lớn khôn
Phải luôn chăm chỉ học được luôn điểm mười
Con Nguyên ca hát, vui chơi
Để Bà, cùng mẹ nghỉ ngơi đi làm
Con Nga còn bé hải ngoan
Ở xa bố sẽ hân hoan vui mừng
Ngày mai thống nhất non sông
Bố con ta lại ở cùng bên nhau ./.
(Tại một khu rừng già dưới chân đèo Mụ Giạ bên tỉnh Khăm Muộn nước bạn Lào)
Sau tết tôi lên đường kết hợp chỉ huy chuyến xe trở hàng đi vào, đến km 20 đường 128 thì tôi dừng lại ở trạm brie công binh, sáng sớm hôm sau tôi đi bộ ban ngày cùng một chiến sĩ công binh đưa đường, cứ đi theo dọc đường xe chạy càng gần đến trọng điểm vết hố bom ngày một nhiều, cây cối thưa dần trơ trụi. đến đầu trọng điểm phải vừa đi vừa chạy tranh thủ lúc sáng sớm máy bay địch chưa hoạt động khoảng trên một km thì rẽ vào trong một hang đá chỉ cách mặt đường chưa đầy 100m, đây là chỉ huy sở và nơi đóng quân ăn nghỉ ứng trực, tác nghiệp ngày đêm của đại đội 5 công binh thuộc tiểu đoàn 25 công binh mới được Nhà Nước tuyên dương anh hùng lực lượng VTND đầu năm 1967.
Địa hình trọng điểm km25 – km 28 này chỉ có 3 km đường chạy ngoằn ngoèo trong đường kính không đầy 2 km, cảnh thiên nhiên nơi đây thật là “sơn thủy hữu tình”, ở giữa có một con suối to chạy ngoằn ngoèo,hai bên suối có rừng già và núi đá núi đất nhấp nhô nối tiếp nhau. Cạnh con đường có bản Tha-pa-Chôn và huyện lỵ Bô-Lô-Pha thuộc tỉnh Khăm Muộn ở trung Lào. Chính cảnh thiên nhiên đẹp đẽ ấy lại là nơi lợi hại về quân sự mà địch lợi dụng gây khó khăn cản trở và gây tổn thất xe hàng lái xe của ta rất nhiều. Nơi đây là đối tượng cho máy bay Mỹ ngày đêm trút bom đạn xuống vô tội vạ. Mấy
đoạn suối chạy ngang qua con đường trở thành nơi nguy hiểm nhất cho lái xe vì khi xe
- 42 -
chạy qua bị chơn lầy cứ phải rú ga gầm gừ leo lên, tụt xuống, khốn khổ nhất là với các xe lốp đã cũ mòn kém sức bám, lúc ấy bóng đèn gầm phản chiếu dưới nước lên trời dễ là mục tiêu để máy bay địch phát hiện được, sẽ là mồi ngon cho máy bay AC 130 và B26 cánh quạt bay đến thả pháo sáng rồi bắn 20 ly, 40 ly u ủ như cối say lúa xuống đầu xe, rồi máy bay phản lực bổ nhào xuống thả bom bi, bom cháy, bom phát quang. Nguy hiểm nhất là chiếc xe bị chơn lầy ấy lại ở đầu một đội hình xe đang chạy phía sau, khi đến đây xe bị dồn ứ lại, nếu lúc đó chỉ một xe bị bốc cháy lập tức máy bay Mỹ bâu đến như lũ ruồi nhặng đánh phá mở rộng phạm vi ra hai đàu chiếc xe bị cháy. Điển hình tại trọng điểm này đêm 15/2/1967 lúc đầu chỉ một xe bị bắn cháy nằm trong đội hình đoàn xe chạy từ trong ra cuả Tiểu đoàn 51 chúng đã tập trung đánh phá liên tục suốt đêm. Hậu quả là ta đã bị phá hủy hoàn toàn 6 xe, và 6 xe bị tơi tả hư hỏng nặng, hy sinh 2 lái xe và bị thương 4-5 lái xe khác, còn phần lớn cán bộ chiến sĩ khác an toàn chính là nhờ trên dọc đường chạy qua 3 km trọng điểm này đã được anh em công binh đào nhiều hầm hố, nhất là các hầm chữ A, hầm hàm ếch đào sâu vào ta luy dương vách núi dọc con đường.
Chỉ 3 km 25-28 mùa khô năm ngoái 1966 cây cối còn um tùm xanh tốt, thế mà đến giữa mùa khô năm nay qua bao nhiêu đợt bom đạn cày sới đã biến dạng trở thành trơ trụi
Đất đá lởm chởm đỏ ngòm, cây cối đổ ngổn ngang thỉnh thoảng lại cháy lan ra đỏ rực cả một vùng. Khói bom đạn, khói bộc phá, khói lửa cây khô cháy liên tục ngày đêm cộng với bụi đất đá của bom đạn, của bộc phá đã tạo nên một quãng đường luôn vẩn đục bốc lên không trung. Suốt ngày đêm liên tục tiếng nổ của bom phá, bom phát quang, bom cháy của bom bi , rốc két, súng 20 ly 40 ly, thậm chí cả bom rải thảm của máy bay chiến lược B.52 cộng với tiếng nổ của bộc phá tác nghiệp của anh em công binh gây nên một âm thanh luôn luôn hỗn độn, ầm ầm, ào ào vọng vào dẫy núi đá nghe chối tai, nhức óc. Một cảnh tượng ngột ngạt của chiến tranh kéo dài ngày đêm này sang ngày đêm khác gây căng thẳng thần kinh con người, có những giây phút yếu mềm tưởng như thần chết luôn luôn vương vấn xung quanh mình.
Tại một hang đá nhỏ nằm trong một núi đá cao lớn chỉ cách mặt đường chưa đầy 100m ở gần km26 giữa trọng điểm là nơi coi như một Ban chỉ huy liên hợp tiền phương
giữa đơn vị công binh, đơn vị xe và đơn vị pháo đã ra đời từ đầu tháng 2 năm 1967 để ngày đêm chỉ huy trọng điểm này để làm sao hạn chế tối đa thiệt hại cho các đội hình xe trở hàng từ bên ngoài vào, và đội hình xe sau trả hàng từ bên trong ra khi vượt qua trọng điểm này. Ở trong hang cả ngày lẫn đêm thỉnh thoảng lại bị những luồng gió cực mạnh do bom địch, do bộc phá ta nổ quất vào ào ào cuốn theo đất cát và khói bụi đen ngòm. Bước chân ra khỏi hang đá là cả một khung cảnh tan hoang hố bom nối tiếp hố bom, cây cối đổ ngổn ngang trơ trụi, đá trên núi bị bom lăn xuống lổng chổng, hố bom bi, đạn 20 ly 40 ly, Rốc két lởm chởm sơ tướp như gà bới, lắm lúc thấy rùng mình.
Nhưng thật kỳ diệu: con đường luôn luôn biến đổi ngày càng kéo dài ra, ngày càng cong queo, ngoằn nghèo thêm vì bom đạn Mỹ đánh phá tan mất đoạn này ta lại lập tức lấp lại hoặc mở đường tránh ra chỗ khác. Ngược lại lắm chỗ lúc đầu đường bị hẹp vì bên vực bên núi, dốc cao nay nhờ bom Mỹ đánh phá lại rộng ra,, mặt đường bằng phẳng hơn.
Đôi lúc tôi nghĩ về tương lai sau này khi hết chiến tranh, nhân dân Lào xây dựng chủ nghĩa xã hội tại nơi đây mở ra lâm trường hay nông trường thì có lẽ đỡ tốn công sức hạ cây, đánh gốc mà đất ở đây lại rất tơi sốp cây cối chắc chắn sẽ tươi tốt,
- 43 -
Nhưng chắc chắn là phải tốn nhiều công sức thâm chí cả đổ xương máu để rà phá bom mìn, để nhặt mảnh bom đạn của Mỹ đang nằm ngổn ngang trên mặt đất và chui sâu dưới lòng đất.
Nghĩ thật buồn cười ban ngày cứ lắp đi lắp lại cái cảnh thằng cha máy bay trinh sát L.19 cứ vè vè bay đi lượn lại trên 3 km trọng điểm, bất ngờ lại bắn một phát đạn tắc
bụp xuống nơi nào chúng nghi ngờ, khói đạn chỉ điểm bốc lên thế là lũ phản lực đang lượn ở trên cao lập tức bổ nhào xuống thả các loại bom để diệt mục tiêu nghi ngờ hay cắt đứt một đoạn đường hiểm trở nào đó, hoặc thả bom bi, bắn rôc két vào đội hình anh em công binh đang tác nghiệp trên đường. Chẳng khác nào ví như một thằng chủ đi săn suỵt đàn chó săn mồi đến sủa nhặng xị, xả hơi phù phù toáng lên rồi sau đó lại cắp đít cút về nhà.
Chẳng hiểu địch đánh phá bao nhiêu trận rồi mà vẫn không cắt đứt nổi một con đường hiểm trở ở trọng điểm này. Bởi vì chúng có một đối tượng tuy bé nhỏ nhưng đáng sợ ở dưới mặt đất đang náu mình trong các hang đá kiên cố ở ven đường, đó là l trung đội công binh được tăng cường của đại đội 5, tiểu đoàn 25 công binh một tập thể đã được Nhà Nước phong tặng anh hùng LLVTND từ đầu năm 1967. Bất kể ngày đêm cứ ngớt tiếng máy bay và bom đạn là lập tức những trinh sát mặt đường từ trong hang đá lao ra như những mũi tên bắn, vai đeo khẩu A.K, tay cầm bộc phá vượt qua bom bi nổ chậm, vượt qua cây cối bị đổ và hố bom cản đường. Nếu đường hư hỏng nhẹ thì họ tự khắc phục xong rồi bắn 2 phát súng vang lên báo hiệu đường đã thông để các lái xe khẩn trương tranh thủ vượt qua trọng điểm.. Nếu đường bị đánh phá hư hỏng nặng thì họ bắn 3 phát súng báo hiệu đang bị tắc đường. Lập tức lúc này đội quân thường trực tay cuốc, tay xẻng, tay dao, vác trên vai những hòm thuốc nổ từ trong hang lao ngay đến nơi có 3 phát súng báo hiêụ, sau đó là những tiếng nổ đanh gọn liên tiếp của bộc phá, rồi tiếng cuốc sẻng san lấp với tinh thần tích cực khẩn trương nhất để nhanh chóng thông đường, sau đó lại là 2 phát súng báo hiệu đường đã thông để lái xe tranh thủ khẩn trương vượt qua trọng điểm.
Lực lượng thứ hai, đó là đại đội 103 phòng không sứng 12 ly 7. Đây là đại đội độc lập cơ động trên tuyến đường đã nhận nhiệm vụ tăng cường cho trọng điểm km 25 – km28 này. Tuy lực lượng bé nhỏ nhưng đã phát huy tác dụng kiềm chế máy bay địch có hiệu quả, với 6 khẩu đại liên 12 ly 7 được chốt trên đỉnh các núi đá hai bên đường (ngay cả trên đỉnh núi hang đá chúng tôi đang ở cũng có 1 khẩu). Đơn vị đã kiên cường bắn máy bay địch đến đánh phá cả ban ngày lẫn ban đêm. Hiệu lệnh hợp đồng là “Tất cả cho bánh xe lăn” nên ban đêm khi nghe dưới đường có tiếng xe chạy mà máy bay địch đến thả pháo sáng để săn lùng xe là lập tức các làn đạn vạch đường đỏ lừ từ các đỉnh núi vút lên hướng vào máy bay địch, có tác dụng vừa bắn máy bay địch nếu không trúng thì cũng buộc chúng phải bay lên cao để tránh đạn, do đó xác suất đánh phá kém hiệu quả. Đồng thời vừa động viên khích lệ các lái xe ở dưới đường hãy bình tình yên tâm vững tay lái vượt qua trọng điểm. Nhiều khi anh em pháo phòng không đã chia lửa thu hút sự đánh phá của máy bay địch vào các trận địa của mình. Một biểu hiện đòan kết hiệp đồng, lập công tập thể thật là tuyệt. Anh em pháo phòng không thực sự góp phần vào hạn chế sự tổn thất xe, hàng, người trên trọng điểm này.
- 44 -
Tôi nhớ mãi một trận máy bay địch tập trung đánh phá ác liệt nhất ở trọng điểm này. Đó là đêm 14/2/1967 khi máy bay địch phát hiện được một đội hình xe của ta đang vượt trọng điểm, chúng tập trung đánh phá chặn đầu khóa đuôi một số xe trúng bom đạn bốc cháy, thế là máy bay địch đánh phá suốt đêm kéo dài cho đến trưa ngày hôm sau. Chỉ
trên một quãng đường 2 km tù km 25 đến km 26 chúng đã thả xuống trên 600 quả bom các loại (bình quân cứ 3m là 1 quả bom), hậu quả là ta bị phá hủy mất 6 xe, và bị hư hỏng nặng 6 xe, trên 80 cây to nhỏ bị đổ ngổn ngang mặt đường, 8 hố bom trúng tim đường đường kính rộng 10 đến 15 m. Do nhờ có hệ thống hầm chữ A kiên cố, hầm hàm ếch ta luy dương tốt mà lái xe và công binh chỉ vài người bị sức ép của bom, còn hầu hết đều an toàn tính mạng. Lực lượng công binh chỉ có một trung đội, tưởng như phải mất 4-5 ngày mới có thể khắc phục xong. Ấy thế mà họ hạ quyết tâm tập trung toàn bộ lực lượng ra mặt đường tác nghiệp liên tục tiếng bộc phá nổ đanh gọn, tiếng cuốc xẻng san lấp và dao chặt cây vang vọng ầm ào vào vách núi đá thời gian kéo dài chỉ có 2 ngày 1 đêm là đường đã thông thoáng, tối 17/2 các đội hình xe lại tiếp tục lăn bánh vượt qua trọng điểm này. Chỉ chưa đầy 2 tháng mà anh em công binh ở đây đã sử dụng hết hơn 4 tấn thuốc nổ TNT, điều đó chứng minh mức độ ác liệt của trọng điểm này.
Có lẽ bọn Mỹ thấy ngán vì đã dùng nhiều thủ đoạn đánh phá ngày đêm mà không sao cắt đứt nổi một đoạn đường chỉ dài chưa đầy 3 km này, nên chúng đã phải dùng đến con bài cuối cùng là cho máy bay chiến lược B52 đến thả bom giải thảm để hủy diệt trọng điểm này. Cụ thể có một ngày (nay không còn nhớ được) cả buổi chiều không thấy tiếng máy bay l.19 đến lượn lờ nghiêng ngó , không thấy máy bay phản lực đến đánh phá như mọi khi, mọi người ở đây cảm thấy hơi thoải mái, được thư giãn gân cốt một chút. Thế nhưng không ai có thể ngờ được là vừa lúc chạng vạng khoảng gần 7 giờ tối trên đoạn đường dài khoảng 2 km ở km 26 – 27 bất ngờ nghe thấy tiếng rít ào ào trên trời tiếp theo là những tia chớp loang loáng và những tiếng nổ inh tai nhức óc kéo dài của bom do máy bay B52 giải thảm, sau đó 15 phút tiếp đến lượt thứ hai và tiếp 15 phút sau đến lượt thứ ba. Sau mỗi lần nghe tiếng bom nổ xong mới nghe thấy tiếng máy báy ù ù trên trời cao. Cứ sau một luợt bom nổ là những luồng gió mạnh kèm đất đá bụi mù tạt vào cửa hang đá làm tắt hết các ngọn đèn thắp bằng dầu ma dút trong hang, đá trên các ngọn núi có bom nổ rơi xuống ầm ầm. Sau hết đợt bom B52 lập tức anh em trinh sát công binh trong hang đá lao ra mặt đường một lúc nghe thấy 3 tiếng súng vang lên báo tắc đường, lực lượng ứng trực ra tiếp sức, tôi cũng chạy theo anh em ra xem có xe nào bị trúng bom B52 không?, thật một cảnh nực cười chỉ có 1 quả bom trúng vào mặt đường, còn có lẽ nó rơi vãi ra hai bên xung quanh và vào rừng hết cả, anh em công binh tạm mở đường tránh quả bom chỉ chưa đầy một tiếng đồng hồ rồi bắn 2 phát súng báo thông đường. Còn lúc đó có vài xe vượt qua trọng điểm không bị làm sao cả, anh em đã tiếp tục lái xe chạy ra ngoài trọng điểm an toàn. Tiếp theo 2 đêm hôm sau nữa mỗi đêm máy bay B52 rải 3 đợt (mỗi đợt 3 lượt của 3 chiếc) theo bài bản chính quy của Mỹ cứ đúng 4 giờ B52 đến rải bom một đợt, giữa mỗi đợt là máy bay C130 đến thả pháo sáng lượn kiểm tra kết quả, rồi máy bay trinh sát phản lực bay qua chụp ảnh những tiếng nổ pùm pùm kèm theo lóe ánh sáng kéo dài theo tiếng máy bay dọc theo trọng điểm. Anh em công binh tính toán cả 3 đêm chúng thả xuống trọng điểm này khoảng 700, 800 quả bom để phá đường, thế nhưng thật nực cười kết quả chỉ trúng mặt đường có 4 quả bom thôi và thêm nhiều cây cối bị tan
- 45 -
hoang, đất hai bên đường bị xới tung lên, trên các núi đá bị lở loét nhiều tảng đá to trúng bom rơi xuống chân núi, vài tảng lăn ra mặt đường không đáng kể khi khắc phục.
Tuy hậu quả B52 gây ra không lớn, nhưng dù sao nó cũng tác động, ảnh hưởng đến tư tưởng căng thẳng đối với anh em công binh, lái xe và súng phòng không. Vì lo lắng khi đang tác nghiệp ngoài mặt đường, khi xe đang chạy qua trọng điểm, súng phòng không đang túc trực chiến đấu không may bất ngờ rủi ro bị trúng bom tọa độ và B52 đến giải thảm có thể cướp đi mạng sống của mình. Thế nhưng những con người ở đây luôn hành động theo khẩu hiệu “Sống bám xe, bám đường – Chết kiên cường dũng cảm” đã được tôi luyện thử thách lấy ý chí, tinh thần quả cảm ra đối chọi với bom đạn sắt thép của kẻ thù thì chỉ bị ngỡ ngàng lo lắng lúc ban đầu. qua phân tích thực tế chứng minh thì B52 cũng chẳng ghê gớm gì như đã từng nghĩ . Với tinh thần dũng khí cách mạng tiến công, ý chí quyết chiến quyết thắng, sắn sàng sả thân vì nhiệm vụ trong mọi người lại bùng lên, dần dần mọi công việc lại trở lại bình thường, nhịp nhàng, hối hả như trước đây.
Với tôi từ khi vào háng đá km 26 trọng điểm này, lại phải làm nhiệm vụ trái tay nghề: Hạn chế làm công tác Đảng, công tác chính trị mà phải tập trung vào một nghề mới đó là công tác tham mưu chiến đấu là chủ yếu. Ngày đêm trong một khoảng nhỏ của hang đá tôi cùng cán bộ đơn vị công binh và đơn vị pháo phòng không cùng trực chỉ huy. Với tính chất quan trọng của trọng điểm này mà chỉ trên một đoạn đường dài co 14 km (từ km 20 đến km 34) đã phải đặt 5 máy điện thoại từ hang đá xuống đến 4 trạm gác công binh có barie chắn đường, để điều chỉnh một đêm có trên dưới 120 đầu xe các loại của tiểu đoàn 51 va 2 đại đội độc lập khác cùng vận chuyển chạy vào, chạy ra vượt qua trọng điểm này. Ban tham mưu chung tôi vừa nghiên cứu theo dõi những giờ cao điểm đội hình xe thường vượt qua trọng điểm , tốc độ xe trên từng quãng đường để phát hiện ra những đoạn tốc độ chậm để anh em công binh tập trung tác nghiệp nâng cấp mặt đường cho đoạn đó được tốt hơn. Nghiên cứu nắm vững quy luật hoạt động của các loại máy bay địch, kịp thời phát hiện những âm mưu thủ đoạn địch mới thay đổi v.v.. để điều chỉnh từng đội hình xe vượt trọng điểm cho phù hợp, không bị dồn ách tắc xe dễ là mồi ngon cho máy bay địch đánh phá. Thật là một cuộc chơi trò ú tim giữa ta và địch, thử gân thử sức của nhau, tìm ra sơ hở của nhau, một cuộc săn đuổi thật lý thú . Nhiều lúc đầu óc căng thẳng và hồi hộp tưởng rụng tim khi mà điều chỉnh đội hình xe đang vận chuyển chạy qua trọng điểm thì bất ngờ bị máy bay địch phát hiện thả nhiều pháo sáng, các loại máy bay bu đến đánh phá bom đạn nổ ùng oàng vào đội hình xe, mặc dù các làn đạn 12 ly7 của đại đội phòng không bắn lên như vãi đạn trên trời hất máy bay lên cao để hỗ trợ lái xe, những lúc đó không hiểu được những gì đã sẩy ra ở trên mặt đường , nín thở theo dõi từng chiếc xe vượt qua được trọng điểm. Nguy hiểm và hồi hộp nhất là qua nắm quy luật của địch thì cứ khoảng 5 giờ chiều đến 7 giờ tối máy bay phản lực ngừng hoạt động, máy bay C130 chưa đến thay thế vì trời còn sáng sợ pháo phòng không của ta dễ bắn trúng; Hoặc quãng 5 giờ đến 7 giờ sáng máy bay C130 ngừng hoạt động nhưng máy bay phản lực chưa đến đánh phá. Lợi dụng sơ hở của địch, đôi lúc tôi quyết đoán giám nghĩ, giám làm, giám chịu trách nhiệm hạ lệnh cho cán bộ chỉ huy đội hình xe đang chờ đợi ở barie đầu trọng điểm tranh thủ thời gian sơ hở của địch tích cực khẩn trương cho xe nổ máy chạy vượt qua 3 km trọng điểm, sau đó hồi hộp theo dõi đội hình xe chạy vào trọng điểm làm cuộn đất bụi bay lên trời thành một vệt ngày một bốc lên cao dễ bị
- 46 -
máy bay địch hiện được. Có những buổi sáng khi thấy mây mù còn đang bao phủ khu vực trọng điểm, tôi cũng liều đánh bài ngửa với Giôn Sơn (tổng thống Mỹ, ý ám chỉ máy bay Mỹ) lệnh cho đội hình xe ở phía trong chạy ra tranh thủ vượt qua trọng điểm nghênh ngang đến gần 8 giờ sáng. Nhiều lúc chỉ huy ở đây phải dám hạ quyết tâm, dám chịu trách nhiệm, nếu sợ bom đạn địch thì chỉ có cách cho xe rúc vào một chỗ nằm chờ hết ngày này qua ngày khác mà thôi. Một lần khi sáng sớm phát hiện vẫn còn xe chưa chạy hết ra ngoài trọng điểm, lập tức tôi phải rời hang mặc cho bom bi nổ chậm còn đang ùng oàng đây đó phải chạy thật nhanh trên đường để tìm cho ra chiếc xe còn lại. Thật bực dọc và khó sử lý khi mà 5 giờ sáng vẫn còn 1 xe hư hỏng nằm ngay trong trọng điểm, nếu cứu xe này thì phải xe tốt ở 2 đầu vào kéo ra khỏi trọng điểm, mà khi kéo xe chậm quá 6-7 giờ sáng thì có khi lại mất cả chì lẫn chài vì dễ bị Giôn-Sơn đến “mua” mất ngon lành cả xe bị hỏng và xe vào kéo, nhưng không cứu mà để máy bay địch đến đánh phá phá hủy mất xe thì lương tâm và trách nhiệm lại không cho phép, lúc đó thôi đành liều đánh bạc với Giôn-Sơn tôi lệnh cho xe tốt vào kéo, thật là hú vía khi xe vừa ra khỏi trọng điểm thì xuất hiện con đầm già L.19 bay đến rè rè lượn vòng ngó nghiêng trên đầu. Những lúc đó tưởng như hồn siêu phách lạc, bom đạn không sợ, nhưng sợ mất xe, mất hàng, mất người. Tôi nhớ mãi có một lần đã hơn 6 giờ sáng có một xe đang chạy qua trọng điểm thì không may xe bị gẫy mất khớp vận hướng tay lái, chỗ này thật trống trải ngay trên dốc đường ngầm km 26, muộn rồi không thể điều xe vào kéo được, nhưng làm thế nào bây giờ ? Nếu để xe nằm đây chẳng những máy bay địch đánh phá mất xe, mà còn gây ra tắc đường ? Hay là để cho anh em công binh đánh bộc phá hủy xe đi ? không được tiếc lắm vì đây là mồ hôi xương máu của nhân dân miền Bắc chi viện cho Miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược. nát óc suy nghĩ: hay là lấy chiếc dù pháo sáng phủ lên xe ngụy trang giả như dù rơi xuống, nhưng không được vì đêm qua máy bay địch không thả pháo sáng trên trọng điểm này mà thay vào đó là hứng chịu những đợt bom tọa độ và 2 đợt bom rải thảm của máy bay chiến lược B.52 Trong lúc túng bí này thời gian trôi đi sao mà nhanh thế, đột nhiên một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu: Tôi trực tiếp dùng chèn gỗ để chèn điều khiển bánh xe, còn lái xe nổ máy nhấn ga chạy từ từ nhích dần, nhích dần tiến đến một hố bom to ngay cạnh đường, khi đến miệng hố bom thì lái xe dấn ga cho xe lao xuống nằm gọn trong hố bom, sau đó mọi người nhanh chóng khuân vác và nhặt các cành cây khô xung quanh phủ đầy lên chiếc xe ngụy trang như cây cối đổ xuống, bước đầu thành công nhưng tiếp theo cả ngày hôm đó anh em chúng tôi hồi hộp theo dõi xem máy bay trinh sát l.19 có phát hiện được không, thời gian trôi đi sao mà chậm chạm thế, cuối cùng thì trời cũng tối dần vẫn đảm bảo an toàn. Tối hôm đó sau khi ưu tiên để đội hình xe trở hàng bên ngoài chạy vào vượt qua trọng điểm hết đã (để tránh bị tắc đường cản trở) tôi mới điều xe có tời vào kéo được xe hỏng lên, có thợ đem phụ tùng đến sửa chữa thay thế, nửa đêm xong chiếc xe chạy về đơn vị. Thế là chúng tôi đã giành thắng lợi, mọi người thấy trong lòng thanh thản và nhẹ nhõm vì mình đã làm đuợc một việc tốt.
Cuộc sống ngày nối tiếp ngày, đêm nối tiếp đêm tuy thời gian chưa nhiều, nhưng đã giúp tôi rèn luyện ngày một trưởng thành dày dạn, dũng cảm trước bom đạn địch . Tôi thường xuyên phải ra mặt đường, vượt qua bom bi nổ chậm, bom nhổ chậm và có thể bất ngờ hứng bom đạn khi máy bay địch đến đánh phá để sử lý giải quyết các tình huống xe
- 47 -
còn nằm trong 3 km trọng điểm. Sự xuất hiện của người chỉ huy trên quãng đường nguy hiểm này có tác dụng khích lệ, cổ vũ động viên dũng khí vững vàng của lái xe. Tôi ý thức
sâu sắc về vai trò của một đảng viên cộng sản, một cán bộ chính trị quân đội trong lòng cán bộ chiến sỹ cấp dưới, nhiều lúc biết là nguy hiểm, bản thân mình cũng phải đấu tranh giữa cái sống và cái chết nhưng phải vượt lên chiến thắng chính bản thân mình để bình tĩnh động viên anh em cứu xe, cứu hàng , cứu đồng đội. Nếu như chẳng may phải hy sinh thì đó là điều tất nhiên của chiến tranh, một niềm kiêu hãnh của người đảng viên đã cống
hiến cho Đảng, cho dân đến hơi thở cuối cùng. Chính những lúc coi nhẹ cái chết và nghĩ đến vai trò tiền phong gương mẫu của người cán bộ đảng viên trước quần chúng thì tự nhiên có sức mạnh sốc tới chẳng một chút do dự chần chừ lùi bước. Chính qua thực tế chiến đấu ở đây mình cũng đã học tập được những gương dũng cảm , lạc quan cách mạng của đồng chí đồng đội, nhất là mình đang ở cạnh một tập thể các chiến sỹ công binh toàn là đoàn viên thanh niên cả (họ mới được chuyển bổ xung từ thanh niên xung phong sang), trên nét mặt họ luôn vui tươi rạng rỡ, sinh hoạt nhộn nhịp, lao vào chiến đấu dũng cảm không mảy may do dự và một chuyện còn đọng mãi trong tôi đó là một chiến sỹ không may bị thương phải cưa mất một cánh tay, khi được chuyển ra hậu phương để tiếp tục điều trị, qua điện thoại trước lúc chia tay họ chúc và khuyên nhau: “Về hậu phương mạnh khỏe, lạc quan vui tươi đó là liều thuốc sống đấy. Đừng để những tính toán tiền đồ cá nhân nhỏ nhen làm yếu hèn mình”.
Thật cũng lấy làm lạ là trong một khu vực bom đạn giặc đã cày xới , xáo trộn tan hoang, lở loét, rạn vỡ ngổn ngang từ trên đỉnh những ngọn núi đá xuống đến dưới thung lũng, khe suối đều mang vết tích chiến tranh, thế mà ở đây những lúc im ắng tiếng bom đạn lại vang lên tiếng gà rừng gáy te te đâu đó, trên vách núi đá tiếng vượn hú những buổi sáng sớm tinh sương, tiếng chim cu gáy lúc trưa hè. Trên dọc đường vẫn xuất hiện những chú gà rừng,chim cu ra mặt đường bới tìm gạo rơi vãi dọc đường. Nghĩ mà tội nghiệp cho một chú gà sống của công binh chuồng nuôi ở gần cửa hang đá, nó cũng phải chịu đựng bao nhiêu bom đạn ầm ầm xung quanh, thế nhưng mào nó vẫn cứ đỏ tươi rói, sớm sớm vẫn cứ gáy vang báo một ngày mới bắt đầu. Một chuyện kỳ lạ xảy ra mặc dầu suốt đêm tiếng bom đạn, tiếng xe gầm rú trên đường trọng điểm, thế mà một lần sáng sớm tôi và anh em công binh phát hiện ra có một vết chân của một chú hổ nào đấy đã đi rạo chơi dọc theo con đường hàng cây số.
Trong lúc sự hợp đồng giữa đơn vị xe với công binh và pháo binh trên trọng điểm km 25 – 28 này ngày một ăn ý, nhịp nhàng chặt chẽ và ngày một giành được thắng lợi, thực sự đã hạn chế được nhiều tổn thất xe, hàng, người và tạo thuận lợi cho những con tuấn mã Trường Sơn vượt qua trọng điểm. “Tin vui thắng trận nở như hoa” cả tập thể tiểu đoàn 51, cùng 4 đại đội xe và trạm tiểu tu của tiểu đoàn đã được Bộ Tư lệnh Đoàn 559 thông báo là đã được Nhà Nước tặng thưởng huân chương lần thứ hai về hoàn thành xuất sắc vượt mức kế hoạch vận chuyển tháng 2 muà khô năm 1967. Chắc chắn những tạ, tấn hàng vũ khí ấy sẽ là những đòn sấm sét nổ tung trên đầu quân Mỹ, Ngụy ở các chiến trường miền Nam.
Đêm 15/3/1967 tôi nhận được lệnh của Ban chỉ huy Binh Trạm 1 rút khởi cao điểm km 25 -28 về Tiểu đoàn nhận nhiệm vụ mới : Cùng một bộ phận của tiểu đoàn bộ tổ
- 48 -
chức chỉ huy một đội hình trên 60 đầu xe vào chi viện cho Binh Trạm 2 cơ động vận chuyển đưa hàng đang bị ứ đọng từ kho hàng khu vực Lùm Bùm vào Binh trạm 3, Thời
gian kéo dài cho đến hết mùa khô 1967. Những chuyến tôi trực tiếp đi chỉ hủy đội hình xe vận chuyển trên đường cũng nhiều lần cùng lái xe vượt qua những trọng điểm nổi tiếng ác liệt như trọng điểm km 25-28 ngoài Binh trạm 1. Kết thúc mùa khô 1967 tiểu đoàn 51 hoàn thành suất sắc nhiệm vụ đứng đầu 3 tiểu đoàn xe của 3 Binh trạm 1,2,3. Nhưng tổn thất cũng đáng kể: trên 40 xe các loại bị bom đạn phá hủy hoàn toàn, số xe còn lại hầu hết đều dính mảnh bom, đạn 20 ly, bom bi, rốc két hư hỏng đã được anh em thợ sửa chữa
ở các đại đội và Trạm tiểu tu của Tiểu đoàn tận dụng đi tháo phụ tùng các xe bị phá hủy
về sủa chưa thay thế, khôi phục. Trên 10 cán bộ chiến sỹ lái xe hy sinh trên vành tay lái, trong đó có đại đội trưởng đại đội 11 Nguyễn Phúc Chí bị trúng đạn 20 ly xuyên vào ngực
và trên 40 cán bộ, lái xe bị thương chủ yếu là dính bom bi, đạn 20 ly, mảnh rốc két, sau một thời gian nằm điều trị ở bệnh xá Binh Trạm đến khi khỏi lành vết thương lại về đơn vị tiếp tục nhiệm vụ.
Giôn Sơn thất bại, Mỹ thua rồi
Khăm Muộn nơi đây ở đất Lào
Rừng xanh núi biếc nhấp nhô cao
Có đường Trường Sơn bao huyền thoại
Tiến xuống miền Nam nối tiếp nhau
Từng đoàn xe chạy suốt đêm thâu
Mặc cho bom đạn nổ trên đầu
Vững vàng tay lái tao cóc sợ
Nhất định phen này Mỹ thua đau ./.
(Tại hang đá trọng điểm km 25-28 đường 128)
RA QUÂN ĐÁNH THẮNG TRẬN ĐẦU
Hết mùa khô năm 1967, tôi được Bộ Tư Lệnh đoàn 559 bổ nhiệm từ chính trị viên phó tiểu đoàn 51 xe lên chính trị viên Tiểu đoàn 59 xe VTQS, đây là một tiểu đoàn mới thành lập, được biên chế 3 đại đội xe, gồm toàn xe mới và lái xe cũng mới được đào tạo học lái có 45 ngày. Ban chỉ huy tiểu đoàn gồm có Tiểu đoàn trưởng Nguyễn phúc Thông (người Hà Nội) tiểu đoàn phó Nguyễn quang Thiều (người Hà Tây), Tôi Nguyễn ngọc Bào chính trị viên tiểu đoàn và chính trị viên phó Nguyễn trọng Tuệ (người miền Nam). Đầu tháng 11 năm 1967 tiểu đoàn từ Phù Lưu Tế, Vân Đình hành quân vào nhập tuyến đường Trường Sơn qua cửa khẩu đường 12 Cổng Trời, đèo Mụ Giạ vào đầu tuyến đường tây Trường Sơn trên đất bạn Lào, tiếp tục vượt qua tuyến đường của 4 Binh trạm 1, 2,, 3, 4 dài trên 400 km vào bổ xung trực thuộc Binh Trạm 35 ở Hạ Lào.
Đây là mùa khô Đoàn 559 triển khai vận chuyển sớm để đưa quân bộ binh và các loại vũ khí vào các hướng chiến trường miền Nam để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi đậy đồng loạt tết Mậu Thân 1968. Vì vậy sau khi tạm thời ổn định nơi đóng quân trong một rừng già khu vực km98 phía bắc Sông Bạc thì Tiểu đoàn 59 nhận được lệnh của Thủ trưởng Binh trạm 35 tổ chức một chuyến xe để trở 1 tiểu đoàn bộ binh vào bàn
- 49 -
giao cho Binh trạm 36 phía bên trong. Đây là chuyến xe đầu tiên của mùa khô năm 1967-1968 của tiểu đoàn nên tập thể Đảng ủy và Ban chỉ huy tiểu đoàn nhất trí hạ quyết tâm “Ra quân đánh thắng trận đầu”, tôi được phân công trực tiếp chỉ huy đội hình xe trở quân này. Đúng 18g30 tối mồng 1 tháng 12 năm 1967 (tức mồng 6 tháng 11 âm lịch năm
Đinh Mùi) đội hình 32 xe ,tôi ngồi ở xe số 3 xuất phát từ km 98 đường bắc sông Bạc, lúc đó trên trời có ánh trăng non , ánh sáng nhàn nhạt phủ kháp núi rừng hai bên đường. Khi đoàn xe chạy đến ven sông Bạc phía trên là ta luy dương của đồi núi chạy theo dọc sông, phía dưới là ta luy âm chỉ cách 5-7 mét là đến mép nước của dòng sông Bạc lấp lánh lững lờ trôi dưới ánh trăng sao, đường mới mở còn hẹp xe chỉ chạy được một chiều hướng đến bến để vượt qua một cầu cầu phao dài trên 100 mét do anh em công binh mới bắc chạy sang bờ nam Sông Bạc rồi xe tiếp tục chạy vào phía Nam. Khoảng 20h30 khi đội hình xe kéo dài hàng cây số đang chạy êm ả sắp tới đầu cầu phao thì bất ngờ nghe thấy tiếng máy bay C130 và máy báy trinh sát OV10 của địch đã đến bay lượn vo vo ù ù trên đầu, chúng bắt đầu thả pháo sáng sáng xuống sáng như ban ngày cả một khúc sông. Trên trời cao tiếng quạ sắt phản lực bát đầu lao xuống tiếng rít xé không khí, lúc đầu là 1 quả bom cháy bùng sáng ngay trên đỉnh một quả đồi trước mặt trên phía cầu phao, tiếp theo là tiếng bom phá, bom phát quang và bom bi nổ ngay, nổ chậm loe lóe trên mặt đường, trên ta tuy dương và phía dưới mặt sông. Lúc này lập tức dưới mặt đất phia bên bờ nam sông Bạc đối diện với đội hình xe đang chạy bên bờ Bắc các trận địa pháo phòng không 37 ly, 12 ly7, 14ly5 của ta bắn lên những làn đạn đỏ rực bầu trời để bảo vệ cầu phao và đội hình xe. Tiếp theo là những đợt máy bay địch lao xuống thả nhiều bom bi nổ ngay và nổ chậm tiếng nổ như ngô rang tứ tung vào phía trận địa pháo và vào cả đội hình xe ở hai bên bờ sông Bạc. Nguy hiểm quá trên thùng xe nào cũng đầy quân bộ binh ngồi, chỉ khoảng gần 1 km đường mà có trên 500 con người, nguy hiểm hơn nữa là do đường mới mở nên anh em công binh chưa kịp đào hầm hố tránh bom đạn trên dọc đường. Tôi đề nghị cán bộ chỉ huy tiểu đoàn bộ binh lệnh ngay cho anh em xuống xe chui vào gầm xe và nằm sát vào vệ đường dưới ta luy dương tránh bom đạn. Lúc này đã có một số lái xe và lính bộ binh bị thương vì bom bi kêu rên đây đó, ngay trên thùng xe của tôi cũng vài đồng
Đồng chí bị thương, tôi vội bảo đồng chí Dân chiến sĩ công vụ của tiểu đoàn đang ngồi cùng xe tôi lên ngay thùng xe băng bó cho số anh em bị thương. Còn tôi vội xuống xe mặc cho những đợt bom bi nổ lóe lóe xung quanh, lao theo đọc đường lên kiểm tra 2 xe chạy trên đầu xem sao ?. Lúc này đồng chí Luân chính trị viên đại đội 2 ngồi chỉ huy trên xe đầu tiên cũng đang hớt hải chạy xuống để gập tôi, mới gập nhau đồng chí Luân báo cáo ngay là 2 xe trên trúng bom bi bị thương vong nhiều quá, kể cả đồng chí Côi trung đội trưởng và đồng chi Xuân lái xe cũng bị thương, tôi vội yêu cầu chỉ huy bộ binh điều ngay y tá chạy lên băng bó cấp cứu 2 xe trên cùng. Nghe tiếng kêu rên của đồng đội mà lòng buồn bã não nùng. Qua mấy đợt máy bay địch đánh phá kéo dài hơn 2 tiếng đồng hồ mới tạm dừng, may mắn quá cả đội hình xe không một xe nào bị cháy và hư hỏng nặng, nhưng nhiều xe bị bom bi thủng mất lốp xe. Đối với con người thì lúc này đã có 5 lính bộ binh hy sinh và trên 100 cán bộ chiến sĩ bộ binh và cả cán bộ và lái xe bị thương, hầu hết là trúng mảnh bom bi xuyên vào cơ thể.
- 50 -
Trong lúc chuẩn bị lệnh cho đội hình xe tiếp tục hành quân khẩn trương chạy lên để vượt cầu phao sang đường bờ nam thì một tin sét đánh do anh em công binh chạy xuống báo là: Cầu phao đã bị trúng bom máy bay địch chìm mất một khoang nên đội hình xe tạm dừng lại chờ đợi có thể khoảng 2-3 giờ sáng mới khắc phục xong. Trời ơi ! lúc này mới bấn bách làm sao, đúng với câu ca “Tiến, thoái lưỡng nan”, tiến lên thì không được rồi, mà muốn lùi lại cũng không xong, vì đường mới mở hẹp xe chỉ chạy một chiều được thôi, trên đường không có quãng nào rộng để có thể quay đầu xe được. Lo lắng nhất là làm sao đưa số anh em bị thương nặng đi cấp cứu được kịp thời càng nhanh càng tốt. Lúc này may mắn quá phía dưới cuối đoàn xe có một xe hậu cần của Binh Trạm trong đó có một số bác sĩ, y tá quân y, khi được tin phía trên đầu đoàn xe có nhiều thương binh, liệt sĩ. Thế là các đồng chí này chạy ngay lên, tôi gập được mà trong lòng sung sướng trào cả nước mắt, lập tức nhờ anh em lên 2 xe đầu ở trên thùng xe đang trở thương binh, liệt sĩ. Đồng thời tôi giao trách nhiệm cho đồng chí Luân CTV đại đội chỉ huy cho 2 xe chạy thẳng lên phía bên trên cầu phao khoảng 1 km là nơi ở của đơn vị công binh dã chiến để tiếp tục chăm sóc số anh em bị thương nặng, mặc dầu đồng chí Côi trung đội trường bị bom bi xuyên qua mũ sắt vào đầu, đồng chí Xuân tiểu đội trưởng bị bom bi xuyên qua áo giáp vào lưng, sau khi băng bó sơ cứu cả 2 đồng chí vẫn lên nắm tay lái cho xe chạy vào đơn vị công binh, hành động dũng cảm và tự nguyện của 2 đồng chí là tấm gương sáng cổ vũ động viên cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 59 học tập noi theo trong suốt mùa khô năm 1968. Trong lúc chờ đợi anh em công binh thay khoang cầu phao, thời gian trôi đi sao mà chậm chạp thế, máy bay C130 thình thoảng lại bay đến thả vài quả pháo sáng,cầm canh, bất ngờ có một máy bay phản lực bay vèo qua rất thấp kèm theo tiếng nổ pùm pùm và lóe sáng để chụp ảnh kiểm tra kết quả đánh phá. Nếu máy bay địch tiếp tục đến đánh phá thì không biết hậu quả nặng nề sẽ ra sao ? Tính mạng hơn 500 con người đang bị đe dọa từng phút từng giây khiến mọi người đều bồn chồn lo lắng, mong sao nhanh chóng thông cầu phao để vượt qua tránh vùng nguy hiểm này.
Thế rồi việc đến cuối cùng sẽ phải đến, khoảng hơn 3 giờ sáng anh em công binh đến báo là cầu phao đã thông, tôi yêu cầu chỉ huy bộ binh lệnh cho anh em khẩn trương lên xe và truyền lệnh xuống dưới bắt đầu cho xe lăn bánh, yêu cầu lái xe thật bình tĩnh gan dạ khi lái xe qua cầu phao đảm bảo tuyệt đối an toàn . Lúc này xe số 3 tôi ngồi trở
thành xe dẫn đầu đội hình. Thế là cả đoàn xe trong đó có cả xe số 1 và số 2 sau khi để liệt
sĩ và thương binh nặng ở lại đơn vị công binh nhờ sử lý giải quyết (theo lệnh của thủ trưởng Binh trạm 35) 2 xe này tiếp tục quay lại nhập vào đội hình xe đang chạy qua cầu phao. Tôi đi xe đầu khi chạy đến chân Đèo Long thì trời sáng bạch, nơi đây đang là một trọng điểm đã bị máy bay địch đánh phá tan hoang, cây cối trơ trụi, đường trống trải vài km, nhưng may mắn là đang có sương mù bao phủ nên tôi quyết đoán tiếp tục cho cả đội hình xe tranh thủ vượt qua Đèo Long, tôi liền cho xe rẽ ra cạnh đường rồi xuống xe ra mặt đường đứng đón động viên và ra hiệu cho từng chiếc xe khẩn trương vượt qua đèo, đến gần 8 giờ sáng thì xe của tôi là xe cuối cùng của đội hình mới vượt qua đèo, lên đến đỉnh đèo cao trên 1 km trời cao lộng gió, trống trải, hố bom chằng chịt, xuống đến chân đèo xe chạy thêm gần 5 km thì có barie của công binh. Phia dưới mặt đường đang có một số càn bộ tham mưu, chính trị, hậu cần của Binh Trạm ra tiếp đón, hướng dẫn đội hình xe
- 51 -
chạy rẽ vào khu rừng già có Trạm giao liên cơ giới của Binh Trạm tiếp đón phục vụ nấu ăn cả ngày cho trên 400 con người của tiểu đoàn bộ binh. Còn gần 100 anh em cán bộ chiến sĩ lái xe thì có anh nưôi đi theo sẽ tự túc nấu ăn riêng, giảm bớt khó khăn cho Trạm giao liên cơ giới.
Đáng lẽ cung đoạn đường chỉ chạy trên dưới 100 km trong một đêm là vào đến địa điểm bần giao cho Binh Trạm 36. Thế nhưng do gập sự cố bị địch đánh phá tắc cầu phao vượt qua Sông Bạc, và do trên xe còn trở cả những thương binh bị thương nhẹ nên phải dừng lại để sử lý giải quyết. Đến 18 giờ tối hôm sau (02/1/1967) đội hình xe chở Tiểu đoàn bộ binh tiếp tục lên đường, đêm nay thuận lợi không bị địch phát hiện đánh phá nên đội hình xe chạy vào đến địa điểm của Binh trạm 36 vào lúc 2 giờ sáng. Sau khi bàn giao tiểu đoàn bộ binh xong, đội hình xe quay đầu tiếp tục chạy trở ra. Đến 6 giờ sáng thì tạm dừng lại, nơi đây là khu rừng già có phong cảnh sơn thủy hữu tình: Trên có núi non, dưới có một con suối to lý tưởng nước chảy trong veo, thỏa mãn cho cánh lái xe tắm giặt sau 2 đêm xe chạy trên đường bị bụi đất bám bẩn đầy người, quần áo từ mầu xanh biến thành ngà ngà vàng nâu. Sau một ngày yên tĩnh được ngủ trên võng ngon lành, anh nuôi hái được rau tầu bay, ngọn non cây dương sỉ và lá cây chân vịt ở ven suối về nấu canh cải thiện bữa ăn chiều thật ngon lành. Tối thứ 3 đội hình xe chạy về đến nơi đóng quân của Tiểu đoàn, trừ vài đồng chí bị thương nhẹ vì bom bi còn nói chung là an toàn cả ngưởi và xe.
Điều đặc biệt đáng nói là cán bộ lãnh đạo chỉ huy từ tiểu đội trưởng đến cán bộ tiểu đoàn đều mới được bổ nhiệm đề bạt ; lái xe đều mới được học tập đào tạo có 45 ngày, tuổi đời trên dưới 20 trẻ trung sung sức nhưng chưa qua từng trải thử thách bom đạn, xe lại chạy vào ban đêm bằng đèn rùa tối om , đường thì xấu lại nhiều đèo cao vực xâu. Ấy thế mà họ đã đem hết tinh thần và nghị lực, với ý chí “Sẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đã vượt lên chính mình, góp phần vào truyền thống Quân đội :” Ra quân đánh thắng trận đầu” đảm bảo đội hình 32 xe đi đến nơi về đến chốn, không một xe nào bị đâm đổ va quệt phải nằm lại dọc đường./.
MỘT MÙA KHÔ ĐOÀN 559 GIÀNH ĐẠI THẮNG LỢI
(Từ tháng 11 năm 1967 đến tháng 6 năm 1968)
Mùa khô năm 1967-1968 mặc dầu bom đạn Mỹ đã trút xuống tuyến đường Trường Sơn gấp hơn 2 lần mùa khô 1966-1967, máy bay chiến lược B52 đã thả bom giải thảm trên 200 trận. Thế nhưng trên hành lang con đường Hồ Chí Minh vĩ đại chạy dọc tây Trường Sơn Đoàn 559 vẫn giành thắng lợi “ To lớn, toàn diện, toàn tuyến liên tục và giòn giã” với khí thế thừa thắng sốc tới, đạp lên đầu thù mà tiến, góp phần sứng đáng vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường miền Nam xuân Mậu Thân 1968 và các đợt tiếp theo trong cả năm.
Với tinh thần “Đoàn kết hợp đồng – Lập công tập thể” của 3 lực lượng chủ công : Xe vận tải + Công binh + Pháo phòng không để hướng tới mục tiêu“Tất cả cho bánh xe lăn”. Các tiểu đoàn xe được mệnh danh là “những con tuấn mã Trường Sơn” và “ những
- 52 -
tay lái gan vàng dạ ngọc” được sự bảo đảm cầu đường thông suốt “Sống bám xe bám đường – Chết kiên cường dũng cảm” của lực lượng công binh và bảo vệ bầu trời với khẩu hiệu “Nhìn thẳng quân thù mà bắn” của lực lượng pháo phòng không đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tiểu đoàn xe vận chuyển đưa vào các hướng chiến trường miiền Nam một khối lượng vũ khí lương thực nhiều gấp 2,4 lần so với mùa khô năm ngoái (1966-1967), vận chuyển thần tốc lính bộ binh trên xe ô tô vận tải hàng vạn người (ngoài ra hành quân bộ qua đường giao liên 559 vài chục vạn người). Đảm bảo cầu đường thông suốt và hộ tống các đoàn xe tăng thiết giáp, pháo cối cỡ lớn vào các hướng chiến trường an toàn cao nhất. Toàn hành lang đã bắn rơi 333 máy bay các loại, đặc biệt bắt được 7 giặc lái máy bay Mỹ. Tuyến đường Trường Sơn đã được lực lượng công binh và TNXP mở rồng trên 7 mét đảm bảo 2 xe vận tải tránh được nhau, ngày một vươn dài thọc sâu vào đến tận Bù Gia Mập Lộc Ninh, và mở thêm những đường mới nối từ Tây Trường Sơn sang Đông Trường Sơn như ở Trị Thiên xe ta đã chạy sâu vào cách thành phố Huế có 12 km đảm bảo tiếp tế cho mặt trận phòng ngự ở Huế. Ở Quảng Nam sau khi ta đánh bức địch phải rút đồn Khâm Đức đã mở đường nối từ tỉnh Sa Ra Van ở nam Lào sang Tây Nguyên Việt Nam….
Đặc biệt các lực lượng Đoàn 559 đã phối hợp với quân dân Thừa Thiên Huế đánh bại sư đoàn kỵ binh bay khi chúng đem quân nhảy ra vùng thung lũng A So, A Sầu, A Lưới hòng bịt đường vận chuyển của ta từ Trung Lào sang Trị Thiên Huế. Đã tiêu diệt 1.200 quân địch, ,trong đó trên 900 lính Mỹ.
Tên tướng già Mỹ Oestmôlen đã phải thừa nhận thất bại với con đường 559 là: “
“Việt Cộng có con đường vận chuyển thô sơ, nhưng thật kỳ diệu mà chúng ta (Mỹ) không sao ngăn chặn nổi”. Còn đánh giá thắng lợi của Đoàn 559 mùa khô 1967-1968 thì đồng chí Lê Duẩn bí thư thứ nhất Đảng ta đã nói tại hội nghị Quân ủy Trung Ương “ Vừa qua thắng lợi mùa xuân ở miền Nam và thắng lợi của Đoàn 559 là 2 sự kiện có ý nghĩa lịch sử của dân tộc ta. Không có thắng lợi của Đoàn 559 thì chiến trường vừa qua không thế đánh to thắng lớn được”.
Với tiểu đoàn 59 xe vận tải của tôi, tuy là một tiểu đoàn mới được thành lập trực thuộc Binh Trạm 35, sau khi từ Vân Đình hành quân vào tạm thòi đóng quân ở phía bắc Sông Bạc, đã nhận nhiệm vụ tổ chức chuyến xe đầu tiện trong mùa khô vận chuyển đưa
1 tiểu đoàn bộ binh vào bàn giao Binh Trạm 36 giành thắng lợi“Ra quân đánh thắng trận đầu” . Sau đó di chuyển toàn bộ tiểu đoàn sang phía nam Sông Bạc, địa điểm đóng quân trong một khu rừng già chỉ cách trọng điểm Đèo Long khoảng 3 km, suốt ngày đêm nghe tiếng máy bay Mỹ gầm rít đánh phá, tiếng bom xen lẫn tiếng pháo cao xạ 37 ly của ta bắn lên ùng oàng, ban ngày thì bụi đất đá bốc lên mù mịt một khoảng trời, ban đêm thì chớp bom đạn trên bắn xuống, dười bắn lên và pháo sáng loe lóe cả một vùng.
Trong cả mùa khô 1967-1968 tiểu đoàn 59 vinh dự được góp phần sứng đáng vào thắng lợi chung của toàn Đoàn 559. Bên cạnh những “Tin vui thắng trận nở như hoa” từ các hướng chiến trường miền Nam bay sang tuyến đường Trường Sơn 559, thì cũng phải thừa nhận sự đánh phá khốc liệt của máy bay Mỹ đã gây ra tổn thất nhất định cho Đoàn 559. Số liệu chung toàn Đoàn tôi không được biết, nhưng chỉ thu hẹp riêng với tiểu đoàn 59 của chúng tôi thì trong mùa khô đã bị bom địch phá hủy trên 40 xe. Cán bộ chiến sy hy sinh 22 đồng chí trong đó có cả đồng chí Tuệ chính trị viên phó tiểu đoàn, đồng chí
- 53 -
Bằng đại đội trưởng đại đội 1. Bị thương trên 50 đồng chí . chủ yếu là bị mảnh bom bi, rốc két, đạn 20 ly, 40 ly. Chỉ một quáng đường 4 km từ km44 đến km48 nam Chà Rế trong 10 ngày thằng cha C130 liên tiếp thả pháo sáng, bắn 20 ly, 40 ly và thả bom bi đã gây thiệt hại cho tiểu đoàn: Hy sinh 5 lái xe ngay trên vành tay lái, bị thương trên 20 cán bộ chiến sĩ lái xe khác, xe bị thủng lốp, hư hỏng nhiều. Thế nhưng đêm nào vẫn vang vọng tiếng xe gầm rú vượt qua trọng điểm này,không một lái xe nào chùn bước, chúng không thể cản nổi khí thế tiến công của ta. Điển hình như đại đội 1 cả mùa khô hy sinh 7 đồng chí (trong dó có cả đại đội trưởng) nhưng lại là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhất kế hoạch vận chuyển, là lá cờ đầu của tiểu đoạn. Tuyệt đối không có một ai nằm ì, đào ngũ.
Những tấm gương tiêu biểu điển hình như: Trung đội trưởng Nguyễn Văn Côi, tiểu đội trưởng Phạm Bá Xuân và chiến sĩ Nguyễn Văn Cân.. tuy bị thương nhưng vẫn không rời tay lái. Tạ Quang Tuyên tuy đã bị thương mảnh rốc két vào mông nhưng vẫn bình tĩnh dũng cảm lái xe mình vượt lên phia trước an toàn, rồi quay lại cứu được 2 xe khác của đồng đội bị hy sinh và bị thương, sau đó mới xuống hầm trú ẩn.
- Phạm văn Chiến và Nguyễn Bá Vấn khi trên xe trở quân có 3 đồng chí bị thương, các anh đã dũng cảm quên mình cõng từng chiến sĩ đưa xuống hầm băng bó cấp cứu. . Đồng chí Nguyễn Văn Vị 3 lần cứu xe, có lần đã lái cứu 4 xe vượt ra khỏi bãi xe đang bị địch đánh phá ban ngày.
- Dương văn Muôn và Bùi trọng Vang trong một chuyến trên thùng xe đang trở một đoàn cán bộ Dân Chính Đảng của Trung Ương vào chiến trường gấp, khi vượt đèo Bô Phiên dài 6 km thì bị máy bay C130 thả pháo sáng, phát hiện được xe đuổi bắn đạn 20 ly ác liệt như vãi trấu xuống đường, hai đồng chí đã dũng cảm bình tình sáng suốt xử trí lúc phanh gấp dừng xe lại, lúc rú ga vọt tiến vèo vèo trên đường lẩn tránh được các loạt đạn 20 ly của địch, vượt qua đèo tiếp tục đưa đoàn cán bộ vào bàn giao cho Binh trạm 36 an toàn tuyệt đối.
- Đảng viên Đỗ Minh Tiến và đoàn viên Lê Trọng Vẻ lái xe vượt qua khu rừng thông dài trên 20 km, khi bị máy bay địch phát hiện thả pháo sáng đánh phá vào đội hình
ngày một ác liệt, không may 1 quả bom trúng ngay trước mặt xe, đồng chí Tiến hy sinh ngay trên vành tay lái, đồng chí Vẻ thì bị thương nặng dập nát hết l cánh tay và nhiều mảnh trên người. Khi đồng đội đến cấp cứu đòng chí Vẻ không hề kêu rên la một lời, anh thản nhiên hỏi đồng đội “xe còn không ? có ai việc gì không ?” và nói “ các đồng chí hãy chặt cánh tay tôi đi cho khỏi vướng, tôi không sợ đâu, các đồng chí cũng đừng sợ” thật là La Văn Càu của tiểu đoàn 59, rồi cho đến khi tắt thở đồng chi Vẻ vẫn bình thản không rên la một lời nào.
Với ý chí tiến công “Thà hy sinh trên vành tay lái, còn người còn xe, còn hàng. Quyết không để quân dân miền Nam thiếu vũ khí, lương thực”. trong phạm vi 1 tiểu đoàn là bậc đàn em, sinh sau đẻ muộn, là mùa khô đầu tiên làm nhiệm vụ vận chuyển trên tuyến đường Trường Sơn rực lửa anh hùng mà đã có những tấm gương lẫm liệt anh dũng hy sinh như vậy thì tôi đảm bảo chắc chắn rằng các tiểu đoàn xe bậc đàn anh và những đồng đội ở các binh chủng bạn như công binh, pháo binh v.v.. trên toàn tuyến đường Trường Sơn sẽ có nhiều và rất nhiều nhiêu những tấm gương sáng như vậy.
Với cương vị là chính trị viên, là bí thư Đảng ủy tiểu đoàn 59 ,sau mùa khô tiểu đoàn đã tiến hành tổng kết từ trong Đảng ra đến ngoài quần chúng, từ trên xuống đến
- 5 4 -
dưới xong thì tôi lại nhận được quyết định của Thủ trưởng Đoàn 559 điều động tôi quay trở lại làm chính trị viên Tiểu đoàn 51 đang trực thuộc Binh Trạm 34. Là đơn vị cũ mà tôi đã từng gắn bó trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 với cương vị là chính trị viên đại đội 14 và chính trị viên phó tiểu đoàn. Thế là cuộc chia tay đầy lưu luyến với cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 59 mà tôi mới gắn bó có một năm nhưng có biết bao nhiêu kỷ niệm đáng nhớ. Cuối tháng 6/1958 vai vác ba lô tôi đi bộ ra nhập trạm giao liên rồi hành quân đi bộ giữa các trận mưa to bão bùng suốt ngày, qua 4 trạm giao liên đến ngày thứ 5 thỉ ra đến nơi đóng quân của Tiểu đoàn 51, Binh trạm 34.
Khi còn ở tiểu đoàn 59 đàu mùa mưa những chuyến xe trở lương thực, thuốc men vẫn phải khắc phục mọi khó khăn gian khổ xe phải co kéo nhau vượt qua những đoạn đường ngập nước chơn lầy nhão nhoét đưa vào chiến trường Tây Nguyên cứu đói cho cả bộ đội và nhân dân các dân tộc. Vè tiểu đoàn 51 khi cuối mùa mưa (đầu tháng 11/1968) tuy đường mới thông cục bộ, nhưng do nhu cầu cấp bách của chiến trường Trị Thiên đang thiếu lương thực nghiêm trọng nếu không đưa được lương thực tiếp tế vào thì nguy cơ bộ đội và đồng bào dân tộc Pa-Kô, Vân Kiều khu vực A Sầu. A Lưới sẽ bị chết đói. Thế cho nên khi Tiểu đoàn nhận được lệnh của Thủ trưởng Binh trạm 34 là bằng mội giá tiểu đoàn phải tổ chức bằng được 3 xe vận chuyển vượt qua ngã ba La Hạp, Động Con Tiên sang A Sầu, A Lưới càng sớm càng tốt. Thế là Ban chỉ huy tiểu đoàn 51 bàn bạc chọn 3 tiểu đội trưởng , 1 trung đội trưởng, 1 đại đội phó giỏi về lái xe và 1 tổ thợ sửa chữa lành nghề nhất đem theo một số phụ tùng thay thế những bộ phận hay hư hỏng của xe, sau khi vào kho nhận trên 10 tấn gạo là gạo của Trung Quốc viện trợ bên ngoài bao có túi ni lông xanh rất dai (chủ yếu dùng để thả trôi đường sông) tích cực khẩn trương đội hình xe lên đường. Kết quả đi và về an toàn tuyệt đối, do mùa mưa máy bay Mỹ phải ngừng hoạt động.
Trong lúc mùa mưa nhàn rỗi Tôi đã đọc nhập tâm được một bài thơ đến nay không nhớ rõ ai là tác giả, tôi có tham gia sửa chữa, thay đổi một vài từ cho phù hợp sát với thực tế hơn, nội dung bài thơ như sau :
Đi giữa mùa mưa
Đi giữa mùa mưa – gữa mùa bão tố
Đi giữa mùa mưa – Giữa mùa gian khổ
Trận tiến công chưa từng có bao giờ
Mặt trời lặn qua những mùa nắng lửa
Mưa ùn về tiếp những sớm mưa giăng
Mưa ngập trời sông suối cuốn băng băng
Vẫn những con người mang nặng hờn căm
Mang nặng tình yêu trên tuến đường ra trận
Mưa táp mặt lẫn mồ hôi mằn mặn
Thấm qua môi người chiến sĩ lái xe
Hai trăm mười ngày thức trắng đi về (7 tháng mùa khô)
Qua những Vang Mu, Cúa chữ A, Đường 9
Phi nước đại những con ngựa chiến
Và giờ đây sông sáo giữa bùn lầy
Khoác lá ngụy trang chạy giữa ban ngày
- 55 -
Lấn sáng lấn chiều, tăng hàng tăng chuyến
Trái tim ta trong hiểm nguy đã luỵen
Dẫu nắng mưa gian khổ có hề chi
Ôi ! những đoàn xe với sức mạnh diệu kỳ
Không chỉ chạy bằng sức gầm, máy nổ
Mưa sối xả đường, ngầm dâng thác đổ
Đi giữa mùa mưa quần áo ướt đầm
Trên các bến phà nước réo dưới chân
Trên các điểm cao bùn vương mái tóc
Chờ chuyến xe qua sắn sàng tay cuốc
Vét lớp bùn chơn, hạ gỗ chống lầy
Tiếng hò dô át tiếng nổ bánh xe quay
Đi giữa mùa đằm mình trên mâm pháo
Đối mắt sáng xuyên sương mù giông bão
Vít cổ quân thù từ những đám mây đen
Mưa Trường Sơn mưa suốt ngày đêm
Chiến sĩ giao liên vẫn chèo non lội suối
Thân giữ nhịp cầu cho đồng đội đi qua
Chỉ huy quân vào, khieng cáng thương ra
Vắt bám đầy chân nhọc nhằn không quản
Ngắm đường đi qua tia chơp sáng
Giữa đêm đông lệnh hỏa tốc chuyển về
Với người bạn thân, một chiếc gậy tre
Vượt cả gió mưa, rừng khuya dạ đói
Lướt trên dòng The Mé. Sê Công
Đội quân thuyền xuất trận lúc hoàng hôn
Như tên bắn hàng ta lao qua thác
Kịp chuyển giao những hàng lưng vác, vai gùi
Ôi ! rung chuyển Trường Sơn máu lủa
Đoàn ta đi hơn mưa rừng thác đổ
Đoàn ta đi quyết làm nên bão tố
Với miền Nam – làm tiếng nổ sau cùng ./.
BOM TỪ TRƯỜNG NẰM TRÊN THÙNG XE
Cuộc chiến tranh càng ngày tinh chất ác liết càng tăng lên, nhất là đối với tên đầu sỏ đế quốc Mỹ, chúng hợm hĩnh lắm của nhiều tiền lại vô cùng ngoan cố, sảo quyệt và tàn bạo. Nó luôn thay đổi các thủ đoạn, chiến thuật đánh phá trên tuyến đường Trường Sơn hòng ngăn chặn con đường chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam của nhân dân ta. Một chuyến xe không chỉ là trải qua một trận chiến đấu mà là trải qua nhiều trận chiến đấu sinh tử giữa một bên là lái xe gan vàng dạ ngọc đem hết tinh thần và ý chí ra hứng chịu bom đạn sắt thép của kẻ thù, đã tổn thất hy sinh vì đạn 20 ly, 40 ly và bom bi, rốc kết bủa vây quanh mình trong từng chuyến xe đi, về.
- 56 -
Khó mà có ai tin được là máy bay địch thả bom xuống lại có một quả nằm lại ở trên thùng xe. Thế mà sự đời lại có sự kiện như vậy đấy, nó suýt gây ra tai họa tổn thất ngay cho bản thân tôi và một số đồng đội. Cụ thể là như thế này :
- Vào đàu tháng 1 năm 1970, đại đội 13 thuộc tiểu đoàn 51 đóng quân ở khu vực gần kho KG1 của Binh trạm 34. Địa điểm này rất gần với một trọng điểm ác liệt là dốc km 18. Đêm hôm trước đại đội 13 đang vận chuyển trên đường bị máy bay C130 bắn đạn 40 ly và 20 ly vào đội hình xe, không may 1 xe trúng đạn đồng chí lái xe là đảng viên hy sinh trên vành tay lái, đồng chí phụ xe thì bị thương nặng. Lập tức trưa hôm sau với trách nhiệm là chính trị viên, bí thư Đảng ủy tiểu đoàn 51 tôi trực tiếp xuống nơi đóng quân của đại đội 13 ở dưới chân một quả đồi có một hang đá nơi BCH đại đội đang ở để dự họp với chi bộ đạị đội13 nhằm động viên ổn định tư tường trong đội ngũ đảng viên giữ vững ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, sau đó sẽ họp toàn thể cán bộ chiến sĩ đại đội làm lễ truy điệu và phát đông chuyến xe biến căm thù thành hành động ngay đêm hôm đó. Phía trên ngang lưng đồi là một bãi để xe chạy theo một con đường hẹp một chiều chạy vòng tròn của quả đồi, dọc hai bên đường cứ khoảng 50 m lại phát quang tạo ra một mang cá để xe chạy vào đỗ. Khỏang 2 giờ chiều trong lúc đang họp chi bộ thì bất ngờ nghe tiếng 1 máy bay phản lực bay rất thấp xé không khí bay vèo vượt qua trên đầu, mọi người cứ yên trí là chắc nó bay trinh sát trọng điểm km 18 thôi. Nhưng không ngờ được một lúc sau thì có một chiến sĩ lái xe chạy hớt hải từ trên dốc xuống vừa thở vừa báo cáo với tôi là có 1 quả bom đang nằm trên một thùng xe đã có hàng. Chiếc xe này đêm về sớm đã tranh thủ vào kho lấy hàng ở dưới sàn xe xếp toàn hòm đạn các loại, ở bên trên xếp 2 lượt bao gạo để đề phòng trên đường nếu bị C130 bắn 20 ly, 40 ly hoặc thả bom bi trúng vào thùng xe thì không bị kích nổ. Tôi liền yêu cầu đồng chí Am đại đội phó lên kiểm tra trực tiếp xem sao ? còn chi bộ vẫn tiếp tục họp và sớm kết thúc để tập trung sử lý tình huống trên . Một lát sau đồng chí Am xuống báo cáo trước chi bộ là đã đi kiểm tra tòan bộ bãi đỗ xe thì không những chỉ có 1 quả bom nằm trên thùng xe đã lấy hàng mà xe này nằm ngay ngoài cùng đường ra của bãi xe, đồng thời ở bên trong bãi xe còn có 1 quả bom thứ 2 nằm giữa hai xe không hàng đang đỗ, còn ở trong rừng có bom nữa hay không thì không rõ. Tôi hỏi kỹ thì đại đội phó báo cáo là cả 2 qủa bom đều không có cánh bom, dài khoảng trên 1 mét. Tôi liền vào bàn BCH đại đội gọi điện thoại về Binh trạm xin trực tiếp gập thủ trưởng Binh trạm, may mắn quá được gập ngay Binh trạm trưởng Chu Minh Đông ( nguyên là kỹ sư công binh và trung đoàn trưởng công binh ). Sau khi nghe tôi báo cáo tóm tắt xong thì đồng chí Chu Minh Đông hỏi lại “Đồng chí không nói đủa đấy chứ ?, Tôi nói“tôi bảo đảm đúng sự thật như vậy”. Đồng chí Đông lại hỏi “Thế đồng chí đã trực tiếp đến kiểm tra chưa ?” tôi nói “dạ chưa ”. Đồng chí Đông “Thế đồng chí trực tiếp đi kiểm tra, xong rồi báo cáo tiếp cho tôi biết”. Tôi “vâng xin chấp hành”. Một số anh em nói ;”thủ trưởng ơi, hãy cởi bỏ hết các loại sắt thép đang có trên người ra rồi hãy đi, nếu không nhỡ gập bom từ trường nổ là tan xác đấy.” Tôi cởi hết quần áo chỉ mặc có quần đùi và áo may ô rồi trèo dốc lên bãi xe, có đại đội trưởng Phiên cùng đi. Khi đến kiểm tra thì đúng như đại đội phó Am đã baó cáo: Có 1 quả bom dài hơn 1 mét không có cánh, nó rơi thia lia xuống thùng xe rồi chui xuống dưới lớp bao gạo, đầu quả bom chui ra ngoài thành xe khoảng 20 phân.
- 57 -
- Tôi đi xuống tiếp tục gọi điện thoại trực tiếp báo cáo Binh trạm trưởng Chu Minh Đông là đúng như nội dung đã báo cáo trước đây. Đồng chi Đông hỏi: “Thế bom có cánh hay không ?’, tôi báo cáo “ bom không có cánh”, . Binh trạm trưởng kết luận: “Bom không có cánh thì không phải là bom từ trường mà nó là bom nổ, nếu không nổ ngay thì nó là bom nổ chậm. Vậy đồng chí lệnh cho một số anh em khẩn trương lên xe lăn bom xuống vực rồi cho các xe không hàng chaỵ ngay vào kho lấy hàng rồi sắp xếp đội hinh chuẩn bị cho xe xuất kích”. Tôi vội thận trọng “Đề nghì Binh trạm trưởng cho ngay cán bộ công binh của Binh trạm xuống kiểm tra xem sao đã vì tôi nghe anh em cán bộ lái xe bên ngoài vào nói Mỹ nó thả loại bom từ trường mới, nếu xe nổ máy phát dòng điện ra là lập tức bom từ trường nổ ngay sẽ bay mất cả xe và lái xe” - Binh trạm trưởng trả lời một cách đơn giản :” Công binh thì cũng như là các anh thôi, nó cũng mới ở ngoài miền Bắc vào cả mà. Thôi anh khẩn trương tổ chức ngay cho anh em lái xe lên lăn quả bom trên thùng xe xuống vực ngay đi” dể lấy đường khẩn trương cho xe chạy vào Kho lấy hàng.
- Biết là rất nguy hiểm, lúc này nếu không khẩn trương chấp hành mà để bom nó nổ gây tổn thất thì trách nhiệm sẽ đổ lên đầu tôi. Đàu óc tôi nảy ra một sáng kiến bảo đại đội trưởng Phiên điều ngay 1 xe có đầu tời ở bên ngoài bãi chạy đến nhả tời ra kéo đến buộc vào quả bom rồi tời cho bom lăn xuống vực sẽ đảm bảo an toàn hơn là dùng một số người lên thùng xe đẻ vần bom lăn xuống vực, nếu không may bom nó nổ thì số anh em này sẽ tan xác pháo. Lúc này bất ngờ có đồng chí Ái lái xe đứng bên cạnh tôi dơ tay nói “Đề nghị thủ trưởng cho tôi xung phong lái một xe không có hàng ở bên trong ra, nếu chạy thoát qua xe có bom trên thùng mà không làm sao thì sẽ tranh thủ cho tất cả các xe bên trong bãi chạy vào kho lấy hàng để kịp xuất kích đã, rồi sau hãy tời lăn bom xuống vực”. Thấy hợp lý, sau khi tôi và đại đội trưởng Phiên trao đổi thống nhất, tôi căn dặn đồng chí Ái là khi lái xe chạy ra phải giữ chân ga chạy đều đều ở một số, khi qua xe có bom trên thùng không được tăng giảm ga để tăng giảm số, đề phòng nguy hiểm sảy ra. Khi đồng chí Ái đi vào phía trong bãi xe chỉ một thoáng thì nghe thấy tiếng xe bắt đầu nổ máy. Để đảm bảo an toàn tôi hô to: “ yêu cầu tất cả anh em xung quanh hãy xuống chân đồi, hoặc vào các hầm đã đào dọc đường” để đề phòng không may bom nổ sẽ han chế thiệt hại” . Đại đội trưởng Phiên vội nói với tôi: “Thôi tôi và thủ trưởng ta cũng cảnh giác lùi ra xa một chút “ và hai chúng tôi lùi ra chỉ cách xe có bom trên thùng khoảng 50 mét đứng nấp vào phía sau một cây to cạnh đường xe chạy ra,. Khi lái xe bất đầu cho xe chạy ra thì lúc này tim tôi đập thình thình, hồi hộp lo lắng , thần kinh quá căng thẳng mắt rõi theo nhìn phía chiếc xe bên trong chạy ra, nó chạy qua được chiếc xe có quả bom ở đít thùng xe rồi bắt đầu từ từ vượt ra qua chiếc xe có bom trên thùng xe, từng tích tắc tôi lo sợ run cả người lên mồm thầm thì “rấn lên, rấn lên may ra thoát”. Nhưng khi chiếc xe chạy vượt qua được hơn chục mét thì gập phải đoạn đường có cua gấp buộc lái xe phải giảm ga để giảm số, thế là một tiếng nổ to như xét đánh kèm theo một vầng lửa da cam bốc lên cao kèm theo mảnh bom, mảnh xe và hàng cùng cây cối bay vù vù xung quanh, đất cát bay mù mịt, tôi thốt lên “Thôi bỏ mẹ rồi”. Khi định thần lại tôi vội nói: Anh Phiên khẩn trương huy động lái xe rập ngay lửa đang cháy loang đề phòng thằng cha máy bay trinh sát OV10 bay đến phát hiện nó chỉ điểm cho máy bay phản lực đến đánh phá vào đơn vị,, xác chiếc xe và hàng bị bom nổ đã bay biến đi đâu mất toi không còn một tý gì. Còn tôi vội chạy ngay đến chiếc xe chaỵ ra xem lái xe có bị làm sao không ? Trời ơi !
- 58 -
chiếc xe bị hơi bom phía sau đẩy chạy vọt lên một đoạn, kính xe đều bị vỡ hết, thùng bệ đằng sau xe thì bay đi đâu hết cả, lúc đàu nhìn thấy một chiếc bao tải rơi xuống cạnh cánh cửa xe tôi cứ tưởng là xác của lái xe, nhưng khi đến gần thì không phải, mà nhìn vào buồng lái thì trống không chẳng thấy lái xe đâu ? Trong lúc đang hoang mang không biết lái xe biến đi đâu mất ? thì tôi nghe thấy có tiếng kêu rên ngày một to ở phía trong rừng cách xa xe hàng chục mét, tôi vội chạy đến tìm thì lúc này đồng chí Ái đã vùng đứng được lên mồm kêu “Ới thủ trưởng ơi cứu em với, rồi lại gục ngã xuống ngất sỉu, tôi đến thấy quần áo của lái xe rách tơi tả hết, trên miệng có dòng máu đang trào ra. Tôi vội kêu to y tá đại đội cùng anh em chạy ngay đến để cấp cứu cho lái xe. Sau khi sơ cứu được một lúc thì lái xe tỉnh lại kêu rên đau đớn, tuy không thành công nhưng đây là một tấm gương thật là dũng cảm, thật là oanh liệt. Rồi đại đội vội cho cáng lái xe vừa đi vừa chạy đến trạm xá của Binh Trạm cách xa hơn 1 km để cấp cứu và nằm điều trị (Sau này được biết đồng chí Ái không bị chết, nhưng mất sức chiến đấu được chuyển ra hậu phương miền Bắc điều dưỡng và giải quyết chính sách thương bệnh binh rồi phục viên về gia đình).
- Sau khi bom trên thùng xe nổ bay mất cả xe và hàng, đồng chí Hòe binh trạm phó ở trong kho cũng hoảng hốt vội chạy xuống đại đội 13. Khi gập tôi đồng chí vẫn yêu cầu khẩn trương đôn đốc các xe chưa có hàng chạy ngay vào kho nhận hàng để kịp xuất kích tranh thủ vượt trọng điểm km 18 đang yên ắng. Tôi vội nói ngay : “ Đây là bom từ trường phát nổ do dòng điện của xe phát ra. Bây giờ đang còn 2 quả bom nằm ngay dưới đít xe và giữa 2 xe nếu lái xe lên nổ máy là bom sẽ nổ gây thêm tổn thất cả xe và lái xe”. Trong lúc đang căng thẳng giữa hai người thì may qúa có 2 cán bộ công binh của Binh Trạm được Binh trạm trưởng Chu Minh Đông cử xuống đã có mặt thật đúng lúc. Tôi đề nghị hai đồng chí đến 2 quả bom còn lại xác minh xem nó là bom gì ?, họ cởi hết quần áo ngoài ra chỉ mặc quần đùi với áo may ô rồi do lái xe đưa đến chỗ 2 quả bom đang còn lại. Được một lúc sau 2 đồng chí công binh ra gập cả tôi và đồng chí Hòe báo cáo xác định chính xác đó là bom từ trường. Tôi hòi “vì sao bom từ trường mà lại không có cánh ?”, các đồng chí Công Binh trả lời “Vì máy bay nó bay thấp quá khi thả bom rơi vào rừng già nó đụng chạm vào các cây cối đã bị rơi cánh ra”. Lúc này đồng chí Hòe mới chấp nhận là bom từ trường, chứ không phải là bom nổ chậm và lắng nghe ý kiến đề nghị của tôi, đồng chí nói :”Các anh lệnh cho cán bộ chiến sĩ đúng 6 giờ tối vào hết trong hang, trong hầm hố,, Binh Trạm sẽ điều xe phóng từ trường vào dò lại trong bãi xe xem sao ?”. Đúng giờ quy định khi xe phóng từ trường chạy vào bãi xe phóng điện ra lập tức nghe trong rừng xung quanh có tiếng 3,4 quả bom nổ ầm vang. Sau đó nghe có 2 phát súng thông đường, lập tức các lái xe lên bãi lái các xe không có hàng vào kho nhận hàng ròi xuất kích. Còn để lại 2 xe có quả bom từ trường nằm giữa, hôm sau anh em cán bộ công binh của Binh Trạm xuống sử lỹ vô hiệu hóa bằng kỹ thuật như thế nào không rõ, đảm bảo an toàn đêm sau 2 xe tiếp tục vào kho lấy hàng chạy lẻ vào kho hàng Binh trạm 35 ở tuyến trong.
Qua vụ nổ bom từ trường này nếu lúc đó chúng tôi không cảnh giác lùi ra gần 50 m
đứng lấp vào sau gốc cây to thì có lẽ cũng tan xác pháo cùng tiếng bom nổ rồi.
- 59 -
MỘT CHUYẾN XE KHÔNG TRỌN VẸN
Đêm 15 tháng 2 năm 1970 tôi trực tiếp chỉ huy đội hình toàn tiểu đoàn 51 trên 40 xe xuất kích mở đầu đợt II tổng công kích toàn Đoàn 559 (Từ 15 đến 30/2/1970). Do tính chất quan trọng nên vinh dự lần đầu tiêen có cả Binh trạm trưởng Chu Minh Đông xuống trực tiếp đi chỉ huy đội hình. Tôi bố trí đồng chí Binh trạm trưởng ngồi xe thứ ba trên đầu đội hình, còn tôi ngồi phía sau đội hình. Đêm đầu đi vào rất thuận lợi, chỉ bị máy bay địch đánh phá lẻ tẻ nên đội hình rất gọn, an toàn vào tới đích tổng kho Binh trạm 35 trả hàng xong ngay trong đêm. Ngày hôm sau ăn nghỉ ngay trong khu vực của kho.Đến buổi chiều ngày 16/2/1970 tổ chức sinh hoạt anh em củng cố quyết tâm đảm bảo đội hình về gọn, an toàn giành thắng lợi trận đầu của đợt tổng công kích, trong đội hình có một số xe nhận nhiệm vụ trở anh em thương binh từ phía trong ra theo đường ô tô vận tải cho nhanh. Đồng chí Binh trạm trưởng ở lại làm việc với Thủ trưởng binh trạm 35, còn tôi chuyển lên ngồi xe ths 3phía trên đầu đội hình. Đúng 18 giờ xe bắt đầu xuất phát trở về, trời có trăng sáng thuận lợi. Khi đội hình xe chạy ra đến khu vực rừng thông đường trống trải kéo dài trên 20 km, xe đầu đến quãng km 81 thì bị máy bay C130 phát hiện thả pháo sáng sau đó bắn 20 ly cực nhanh u ủ như cối xay lúa. Luồng đạn bắn xuống trúng vào đội hình xe, chiếc xe chạy thứ hai bị trúng đạn, lái xe bị thương nhưng vẫn dũng cảm đánh xe dẹp vào bên đường, tiếp theo xe chạy sau lại trúng đạn vào thùng xăng bốc cháy nằm cản giữa đường, thế là đội hình xe phía sau chạy lên bị ùn lại . thằng cha C130 lại càng bắn 20 ly nhiều hơn. May quá lúc này lập tức trên đồi 2 bên đường anh em pháo phòng không cao xạ 37 ly bắn lên mãnh liệt vào phía máy bay, buộc C130 phải bay lên cao bắt đầu bắn pháo 40 ly đì đùng xuống đội hình xe. Anh em lái xe kịp nhảy xuống tìm chui ẩn nấp dưới các hầm dọc 2 bên đường do anh em công binh đã đào sẵn. Những xe trở thương binh, anh em lái xe phải nhường hầm cho thương binh, còn mình nằm chui ẩn nấp vào gầm xe, lẻ tẻ đã có lái xe bị thương. ở trên không bắt đầu nghe thấy tiếng rít của máy phản lực đi hộ tống C130 lao xuống thả bom bi đánh vào các trận địa pháo trùm lên cả đội hình xe, tiếng bom bi nổ ran như ngô rang, lúc này lại thêm 1 xe nữa bốc cháy ở gần hầm tôi đang trú ẩn, tiếp theo thêm 1 xe ở cuối đội hình cũng bị bom bốc cháy ánh lửa bốc lên chập chờn. Cuộc đối đầu quyết liệt giữa pháo ta bắn lên và máy bay địch lao xuống đánh phá bom bi, bom cháy, bom phát quang ầm ầm hết đợt này lại đến đợt khác kéo dài hơn 2 tiếng đồng hồ thì máy bay địch mới buông tha. Vừa im tiếng máy bay tôi vội lao lên khỏi hầm chạy ngược trở lại đội hình để kiểm tra xem hậu quả ra sao ? tôi hô to yêu cầu các xe không việc gì khẩn trương tìm đường tránh xe bị cháy chạy ngay về đơn vị, những xe đã bị bom bi thửng lốp cũng cứ tranh thủ chạy ngay khỏi nơi nguy hiểm đã. Trong khi đó tôi cùng đồng chí Thố đại đội phó đại đội 14 đã kịp dùng mũ sắt múc đất bột dưới đường đổ lên dập tắt lửa một xe đang bị cháy trên thùng, ngọn lửa vừa bị dập tắt thì lái xe cũng mới dưới hầm tránh chạy về nhảy ngay lên cabin nổ máy rồi phóng như bay về phía trước. May mắn quá mấy xe trở thương binh đều đảm bảo thương binh an toàn, còn lái xe có đồng chí chui gầm xe bị thương nhẹ mảnh bom bi nhưng vẫn lên lái xe chạy về đơn vi. Mừng nhất lúc này là không có cán bộ chiến sĩ nào bị hy sinh cả.Trên dọc đường ngoài 3 xe bị cháy, còn nằm lại 7, 8 xe bị bom bi thủng nhiều lốp qúa không thể chạy được. Tôi quyết định ở lại cùng một số đại đội phó kỹ thuật và thợ sửa chữa để chỉ đạo khắc phục hậu quả. Trước hết đón 1 xe trở hàng đầu tiên chạy vào để sử dụng kéo
- 60 -
ngay 3 xe bị cháy dẹp vào bên đường để thông đường cho đội hình xe có hàng bên ngoài chạy vào. Đồng thời tôi đón bắt dừng từng xe chạy vào của Tiểu đoàn 51 yêu cầu thả ngay lốp dự phòng xuống để tập trung giải quyết thay ngay cho những xe bị thủng lốp đang nằm lại (Chắc chắn lúc này chỉ có thủ trưởng Tiểu đoàn mới làm được việc này, nếu thủ trưởng đại đội thì nhiều lái xe không chấp hành vì khác đại đội). Kết quả suốt nửa đêm đến gần sáng số anh em ở lại đã vô cùng vất vả khắc phục thay xong lốp thủng cho 7-8 xe còn lại tiếp tục chạy vượt rừng thông trước khi trời hửng sáng.
Ngày hôm đsau(17/2/1970) anh em chúng tôi kéo nhau vào hậu phương của đơn vị công binh ở cách xa mặt đường khoảng một cây số để ăn nhờ, ngủ nghỉ nhờ cho đến chạng vạng tối thì kéo nhau ra mặt đường để đón các xe chạy ra lên xe trở về đơn vị;
Thế là chuyến ra quân mở đầu đợt tổng công kích không đạt được mong muốn. Bị tổn thất cháy mất 3 xe, bị bom bi thủng mất trên 70 lôp. Còn Người thì chỉ có 4 lái xe bị
thương nhẹ vì mảnh bom bi . Còn việc bị máy bay C130 bắn 20 ly, 40 ly, bị phản lực thả
bom bi nổ ngay, nổ chậm và các loại bom khác đánh vào đội hình xe thì thường sẩy ra như cơm bữa trong các chuyến xe mà thôi.
Bài thơ dưới đây tôi sáng tác vào cuối mùa khô năm 1971 sau khi được lệnh của Thủ trưởng Binh Trạm 34, tiểu đoàn 51 lựa chọn 7 xe thật tốt, lái xe thật tốt thành lập một đội hình vận chuyển do tôi được phân công trực tiếp chỉ huy. Đội hình xe chạy thí điểm chuyến đầu tiên vào ban ngày giữa trưa trên một tuyến đường mới mở kết hợp nửa kín chạy trong cánh rừng già với nửa hở chạy qua những đồi và đường bằng phẳng trống trải it cây cối nối tiếp xen kẽ với nhau . Có lúc khi xe sắp chạy ra đoạn đường trống trải, lái xe tỏ ra chần chừ thì tôi bảo lái xe đổi chỗ để tôi cầm tay lái chạy vượt qua.
Đôi bạn tâm giao
Xe ơi ! ta bảo xe này
Xe tranh thủ chạy ban ngày với tao
Mặc cho Zôn lượng Zôn nhào (1)
Có pháo bảo vệ tao nào sợ chi
Đón bom, hứng đạn xá gì
Xả thân cứu nước hướng về miền Nam
Quyết tâm gắng sức góp phần
Đánh tan Mỹ - Ngụy cùng quân chư hầu
Mùa khô kết thúc càng mau
Tạm biết đất Lào về nước nghỉ ngơi
Ta – xe bồi dưỡng xong rồi
Lại tiếp tục tiến ra nơi chiến trường
Tạm xa Tổ Quốc yêu thương ./.
(1) Máy bay Mỹ, ý châm biếm tổng thống Mỹ Zôn Sơn
- 61 -
ĐÁNG NHỚ HỨNG CHỊU MỘT TRẬN BOM B52
Trong gần 10 năm liên tục bám trụ trên tuyến đường Trường Sơn, cùng các đơn vị xe dong duổi trên khắp các nẻo đường ngang dọc Trường Sơn đã từng nếm nhiều trận máy bay chiến lược B52 thả bom rải thảm vào đội hình xe, nhưng đáng nhớ nhất là một trận B52 nguy cơ đe dọa đến tính mạng nhất. Đó là :
- Tháng 2 năm 1970 trong 1 đợt tổng công kích toàn Binh đoàn Trường Sơn, cán bộ tiểu đoàn 51 xe luân phiên nhau trực tiếp đi chỉ huy đội hình xe trên đường. Số ở nhà cũng phân công nhau trực tiếp ra Barie cổng kho để động viên xe về đêm tranh thủ quay vòng tăng chuyến. Một buổi chiều cuối tháng 2 / 1970 (không nhớ ngày) tôi cùng mấy cán bộ đại đội ra Barie cổng kho trực chỉ huy. Khoảng 17 giờ tối sau khi đội hình xe của tiểu đoàn xuất phát sớm tranh thủ vượt trọng điểm km 18 chỉ cách barie cổng kho khoảng 3 km vừa xong, thì bất ngờ một cậu cán bộ trực barie ngước lên trời quan sát phát hiện thấy những vệt khói dài của 3 chiếc B52 thế là cậu ta vội hét toáng lên “Xuống hầm nhanh B52 nó đánh”, mấy người vừa lao xuống hầm thì bom bắt đầu nổ ran ầm ầm ào ào xung quanh. Xong đợt 1, chúng tôi lên khỏi hầm trong lúc đất cát bốc lên vẫn đang rơi xuống như mưa rào., những hố bom loang lổ còn cách xa vài trăm mét. Theo kinh nghiệm thì B52 thường đánh 3 đợt, mỗi đợt 3 chiếc cách nhau khoảng 15 phút một đợt. Thoát đợt đầu có anh em bàn nên tranh thủ chạy ngay vào trong kho xa mặt đường cho an toàn hơn, tôi bảo “không chạy đi đâu cả, biết đâu là chắc chắn. Cứ cố thủ trong hầm này, không may trúng số độc đắc thì mới đi chầu Diêm Vương”. Thế là mọi người lại chui hết xuống hầm hồi hộp, căng thẳng, lo lắng chờ đợi, nghe tiếng tim đập thình thịch, không khí thật im ắng thì quả nhiên nghe được tiếng máy bay B52 đợt 2 đang ù ù từ xa vọng đến gần, thế là mọi người lên gân cốt, thần kinh căng thẳng tột độ chờ đợi sự may rủi sống chết sắp đổ lên đầu. Quả nhiên bắt đầu bom rơi ào ào nổ ầm ầm ục ịch xung quanh hầm, ngồi bên trong hầm bị chấn động mạnh người cứ nhảy lên nhảy xuống, xô dồn hết bên này rồi lại xô dồn sang bên kia, ngực hơi bị tức thở vì sức ép của bom, hầm chữ A mà cũng bị lắc lư nghiêng ngả mạnh, những tảng đất rơi xuống uỳnh uỵch trên nóc hầm. Tiếp theo căng thẳng chờ đợi hết đợt bom thứ ba thấy mình vẫn sống sót, mọi người sung sướng chui lên hầm hít thở căng lồng ngực cho dễ chịu, quan sát thấy ngay cảnh vật xung quanh đã đổi thay: cây cối đổ ngồn ngang trống trải, đất cát bốc lên trời đang còn mù mịt, hố bom kế tiếp hố bom xung quanh, đặc biệt có 1 quả bom nổ ngay bên kia mép đường đối diện với chiếc hầm chỉ cách nhau chưa đầy 6 mét, thật hú vía nó mà nhích lên tý nữa thì quả là đánh đáo đúng lỗ, và đã là cửa tử cho số anh em chúng tôi rồi.
Ngay sau đó tôi cùng 3 cán bộ đại đội xe ở barie tức tốc chạy dọc theo đường hướng đến cao điểm km 18 để xem đội hình xe tiểu đoàn vừa xuất phát có việc gì không ?
Thấy vài quả bom trúng mặt đường, cây cối đổ ngổn ngang, rồi tiếp tục chạy lên phía trên. Thật là may mắn do đợt đầu bom không trúng đội hình, thế là anh em lái xe đã kịp dừng xe lao xuống đường tìm xuống các hầm trú ẩn hết. Đến đợt 2 thì có trúng vào đội hinh xe, lái xe đều an toàn chỉ vài cậu bị sức ép nhẹ, còn xe thì bị hư hỏng vài chiếc - trong đó có xe của cậu Đào bị 1 quả bom nổ ngay cạnh xe làm chiếc xe tung lên đổ hết hàng ra xung quanh, rồi xe rơi xuống nằm quay ngang trên mặt đường. Thế là anh em thợ
và lái xe tập trung sửa chữa các xe bị hư hỏng, sau đó tiếp tục chạy đuổi theo đội hình phía trước. Tuy trúng trận bom B52 nhưng may mắn xe, người, hàng vẫn an toàn cao./.
- 62 –
MÙA MƯA THỨ BA Ở LẠI TRƯỜNG SƠN
Với đặc điểm của binh chủng xe vận tải quân sự làm nhiệm vụ trên tuyến đường Trường Sơn thì cứ sau một đợt vận chuyển trong mùa khô hàng năm (Thường từ tháng 11 năm trước đến tháng 5 năm sau) đều tiến hành dồn lại để các xe còn tốt lại, những cán bộ chiến sĩ còn sức khỏe tốt nằm lại mùa mưa trên dọc tuyến đường Trường Sơn (Về con người thì kết hợp có tính chất luân phiên nhau ở lại mùa mưa cho hợp lý). Còn những xe hư hỏng, rách nát cùng những cán bộ chiến sĩ ốm yếu tổ chức co kéo đưa nhau rút ra hậu phương tập kết (Từ Nghệ An trở ra đến các nơi xung quanh thủ đô Hà Nội) để đưa xe đi đại tu, nghỉ ngơi bồi dưỡng sức khỏe, tranh thủ về phép thăm gia đình rồi nhận bổ xung xe mới, lái xe mới, thợ mới, chấn chỉnh củng cố lại đơn vi, sau đó cuối tháng 10 lại tổ chức hành quân nhập tuyến vào Tây Trường Sơn tiếp tục làm nhiệm vụ vận chuyển.
Theo phân công của tập thể mùa mưa năm 1970 là mùa mưa thứ ba tôi cùng khoảng 50% cán bộ chiến sĩ ở lại trong khu vực đóng quân thuộc Binh Trạm 34, trong Ban chỉ huy tiểu đoàn ở lại có 2 người là tôi và đồng chí Hoa tiểu đoàn phó. Bộ phận ra hậu phong do đồng chí Khoa tiểu đoàn trưởng và đồng chí Trí chính trị viên phó tiểu đoàn phụ trách. Do tư tưởng đã xác đình trước nên vui vẻ yên tâm nhận nhiệm vụ. Thưc tế với cán bộ chủ chốt đơn vị thì mỗi lần đi ra, đi vào cũng vô cùng gian khổ, vất vả, càng bận rộn mệt nhọc hơn. Mục tiêu duy nhất mỗi lần ra hậu phương là để được về thăm quê hương gia đình cha mẹ, vợ con,anh chị em mà thôi.
Mùa mưa năm 1970, anh em chúng tôi ở lại vẫn phải nhận nhiệm vu vận chuyển kéo dài cho đến cuối tháng 7 khi mà đường ngập nước chơn lầy xe không còn có thể co kéo được nhau nữa, các sông suối nước lên cao chảy ầm ầm thì Thủ trưởng Binh Trạm mới tuyên bố cho đơn vị xe ngừng vận chuyển, tiến hành bảo dường bôi trơn dầu mỡ, kê kích xe lên và làm lán có mái lợp che mưa cho từng xe cẩn thận. Trải qua ngần ấy công việc thì thời gian cũng trôi qua hết tháng 8/1970. Điều anh em ở lại mùa mưa lo ngại nhất là dễ bị sốt rét, vô phúc sốt rét ác tính thì dễ chia ly về với Tiên Tổ lắm.
- Còn đời sống vật chất thì yên tâm phấn khởi không phải lo vì đã dự trữ đủ gạo, muối, thức ăn và mùa mưa dễ cải thiện vì có nhiều măng, nhiều rau rừng các loại đó là điều hạnh phúc nhất rồi. Không chỉ sống đơn giản như vậy, mấy anh cán bộ trung đội, đại đội người dân tộc đã phát huy tác dụng: Hàng ngày mặc quần áo mưa vác súng trương CKC hay tiểu liên AK luồn rừng tìm bắn các loại thú rừng đem về nấu nướng cải thiện, phổ biến là bắn được hươu nai, treo treo, khỉ, vượn, lợn rừng, thậm chí bắn được cả voi rừng lấy dao sẻo một gánh nặng thịt đem về, sau đó còn điện thoại báo cho trên Binh Trạm và các đơn vị bạn công binh, kho, giao liên biết địa điểm đến mà sẻo thịt voi đem về ăn. Bộ phận anh nuôi quen đường mang muối vào các bản làng Lào Thưng xung quanh đổi lấy lợn gà ngan vịt đem về cải thiện. Thậm chí anh em mượn được cối say bột của dân bản đem về say bột tráng bánh đa, làm bún kết hợp với nướng chả thịt thú rừng, và nấu canh chua bằng lá cây chân vịt với các loại xương thú rừng để liên hoan đánh chén với nhau thật là rôm rả.
- Khổ nhất trong mùa mưa là một số anh em nghiện thuốc lá, thuốc lào do không có dự trữ nên khi hút đến điếu cuối cùng thì chỉ còn có một cách là đem điếu cày chẻ ra rồi lấy dao sắc nạo lấy các mùn đen ra ngâm với nước đặc, rồi đem tẩm vào lá chuối khô để hút cho đỡ cơn thèm. Các thủ trưởng và cán bộ trên Binh Trạm hiểu được khó khăn này
- 63 -
của lính lái xe nên mỗi khi các Thủ trưởng hoặc cán bộ chính trị, tham mưu của Binh Trạm xuống thăm anh em lái xe trong mùa mưa thường đem theo những gói thuốc lào và thuốc lá làm quà thỉ dễ gần gũi lái xe nhất, thôi thì chiến sĩ xúm vòng trong vòng ngoài vê tay xin thủ trưởng cho một điếu thuốc lào, sau đó hút rít điếu kêu sòng sọc, câu chuyện sôi nổi rôm rả hẳn lên. Có lính trẻ sau rít điếu thuốc xong bị say lăn kềnh ra, hai mắt trông trắng dã đờ đẫn, miệng thì tóp tép, mãi một lúc sau mới tỉnh lại thì mồm lại toe toét cười, nói luyên thiên.
- Về sinh hoạt tinh thần thì phong trào đánh tu lờ khơ, tiến lên và cờ tướng cũng không kém phần sôi nổi , qua một mùa mưa cũng đào tạo bồi dưỡng phát triển thêm nhiều nhân tài. Họ thách đố nhau anh nào chơi thua phải bị vẽ râu bằng nhọ nồi, hoặc phải đeo ba lô, hoặc phải đội mũ cối, một số thua nhiều qúa trên mặt bị vẽ nhiều râu đen hết cả hàm trên hàm dưới lên đến hai má, hoặc đội trên đầu cao 4,5 chiếc mũ, hoặc đeo ba lô 2 vai hai cái sau lưng và 2 cái phia trước bụng trông thật ngộ nghĩnh không ai có thể nhịn được cười. Mỗi đại đội trong mùa mưa chi đoàn thanh niên động viên đoàn viên sáng tác thơ ca, viết văn xuôi kể chuyện biểu dương người tốt, việc tốt ra được một tờ báo tường.
Thế rồi một mùa mưa nằm trong rừng trên đất bạn Lào cũng qua đi. Đầu tháng 11 năm 1970 trời bắt đầu dừng mưa rào, nhưng vẫn còn nhiều mây âm u, dần dần có ánh mặt trời le lói nắng quái chiều hôm. Số cán bộ chiến sĩ ở lại về sức khỏe đảm bảo tương đối tốt, anh em khỏe mạnh, lên cân. Không sao tránh khỏi lẻ tẻ một số anh em bị sốt rét, đau ốm nhẹ thế rồi qua thuốc quân y điều trị cũng qua khỏi, phấn khởi là tuyệt đối an toàn về người, và phương tiện, cả mùa mưa không bị máy bay Mỹ đến thăm hỏi lần nào. Riêng tôi thì rất mừng là mình đã giữ gin được sức khỏe tốt, coi trọng phòng bệnh hơn chữa bênh, cả mùa mưa không bị sốt rét và ốm đau một lần nào. Đồng thời là thành viên tích cực trong hội tu lơ khơ và tiến lên trong tập thể anh em ở lại mùa mưa.
- MỘT VỤ TAI NẠN NGHIÊM TRỌNG NHẤT
CỦA CUỘC ĐỜI
Tiếp theo phần đã nói ở trên “Mùa mưa thứ ba ở lại Trường Sơn”. Tháng 11 năm 1970 chính thức bước vào tháng đầu tiên của mùa khô 1970 – 1971. Cầu đường từ Binh Trạm 34 vào Binh Trạm 35 mới bắt đầu khô. Lúc này chân hàng còn tồn tại ở tổng kho Binh Trạm 34 còn ít. Nên chỉ là tranh thủ vận chuyển đội hình nhỏ, chủ yếu là thông đường để rút kinh nghiệm chuẩn bị cho mùa vận chuyển lớn khi toàn tuyến đường tây Trường Sơn trên đất bạn Lào hoàn toàn khô ráo thông suốt, các đơn vị xe vận tải ở hậu phương đã nhập tuyến vào các Binh Trạm toàn tuyến đầy đủ.
Tại Binh trạm 34, tôi nhận được lệnh của Thủ trưởng Binh trạm chuẩn bị một đội hình 20 xe ( ghép xe của 2 đại đội 11 và 14 còn để lại mùa mưa) để chiều tối ngày 16 tháng 11 năm 1970 đội hình xe xuát phát. Đây là chuyến xe đầu tiên của mùa khô do tôi trực tiếp đi chỉ huy để đúc rút kinh nghiệm chuẩn bị cho tổ chức chạy đội hình lớn khi lực lượng xe của Tiểu đoàn 51 ở hậu phương vào tới nơi. Trước khi làm nhiệm vụ ,tôi chỉ đạo sinh hoạt chi bộ, chi đoàn và cán bộ chiến sĩ lái xe ở 2 đại đội để xác định nhiệm vụ, động viên khí thế thi đua. Rồi tiến hành hạ xe đang kê cao kích bổng xuống tiến hành
- 64 -
kiểm tra chuẩn bị kỹ thuật thật chu đáo, cụ thể tỉ mỉ. Lợi dụng thời cơ máy bay địch chưa hoạt động nhiều cho xe chạy ban ngày vào Tổng kho lấy hàng và dồn đội hình ra cổng kho chờ lệnh xuất phát. sau đó anh em tranh thủ ăn bữa cơm chiều và túc trực chờ lệnh xuất phát. Đến 16 giờ chiều ngày 16/11/1970 tuy trời còn sáng nhưng do còn ảnh hưởng của mùa mưa, trời vẫn đầy mây đen vần vũ, lấm tấm có mưa phùn. Tranh thủ thời cơ tôi liền ra lệnh bắt đầu xuất phát. Tôi ngồi ở xe đầu tiên của đội hình cùng với 2 lái xe trẻ là Tâm lái chính và Ca lái phụ của đại đội 11. Xe tranh thủ chạy được trên 30 km đội hình vẫn nối đuôi nhau chạy vượt qua cả trọng điểm km 18 và tiếp theo là trọng điểm khu rừng thông trống trải vẫn an toàn, trên trời vẫn còn sáng mờ mờ chưa phải bật đèn rùa soi đường.
Khi đội hình xe chạy được gần 70 km vào đến Barie km 94 mới là 22 giờ đêm. Trước mắt là phải vượt qua trọng điểm ác liệt dốc km 96 . Đặc điểm của trọng điểm này là một bên đèo cao, một bên vực thẳm, đường chạy cheo leo theo vách núi đá, máy bay địch thường ban ngày thả các loại bom đánh phá gây tắc đoạn đường dài trên 2 km nguy hiểm này, ban đêm thì thằng cha C130 bay lượn thả pháo sáng cầm canh, nếu phát hiện
được xe chạy là nó tuôn đạn 20 ly u ủ như cối xay lúa truy đuổi đội hình xe đang chạy bên dưới. Bởi vậy anh em công binh của Binh trạm 35 đã phải mở 1 con đường tránh gọi là dốc 96B dài khoảng 3 km, đặc điểm của con đường tránh này là ở 2 đầu có 2 dốc dựng đứng trên 30 độ, xe phải chạy từ trên cao lao xuống dốc, đường lại chạy vòng vèo lẫn đất đá rất nguy hiểm. Mùa khô trước một số xe chạy đường tránh dốc 96B này đã bị va quệt đâm đổ nặng nên các lái xe đều gờm không muốn chạy dốc tránh này, ngay chuyến xe cuối cùng của mùa khô có đồng chí Khôi chính trị viên đại đội 11 ngồi chỉ huy khi xe lao xuống dốc đã bị đâm đổ nghiêm trọng phải hủy mất cả xe.
Khi đội hình xe chạy đến Barie km 94 tôi đã đề nghị anh em công binh trực barie cho xe chúng tôi chạy đường 96A cho thuận lợi hơn. Nhưng trực barie trả lời là buổi chiều máy bay phản lực đến đánh phá ném bom một số cây to trên vách núi lăn xuống nằm trên mặt đường nên đã bị tắc đường, hiện nay anh em công binh vẫn chưa khắc phục xong, vì vậy yêu cầu đoàn xe chúng tôi phải đi đường tránh dốc 96B. Với ý chí tiến công của chuyến xe đầu mùa khô không thể chần chừ ngồi chờ biết đến bao giờ mới thông đường dốc 96A, Tôi vội tranh thủ hội ý với cán bộ đại đội và trung đội thống nhất hạ quyết tâm chấp nhận đi đường tránh dốc 96B. Tôi vẫn ngồi xe đi đầu do đồng chí Tâm lái chính cầm tay lái, đồng chí Ca lái phụ ngồi giữa và tôi ngồi phía ngoài bên phải buồng lái. Khi xe chạy đến đầu dốc tôi bảo dừng xe lại, tôi xuống xe chạy quay lại phía sau nói to xe sau dừng lại chờ khi xe của tôi xuống đến hết dốc an toàn sẽ bắn 2 phát súng báo thông đường thì các xe sau mới được xuống dốc tiếp. Khi quay lên ngồi trong buồng lái tôi lại căn dặn : “Đồng chí Tâm phải hết sức bình tĩnh, gan dạ sử lý các tình huống, chỉ đi số 1 và gài số phụ vào để ghìm bớt tốc độ của xe, đồng chí Ca ngồi giữa phải giữ chặt cần lái nếu để nó bật ra số mo (0) thì rất nguy hiểm” sau đó tôi bảo cho xe lăn bánh. Khi xe chúc đầu xuống dốc tiếng máy bắt đầu gầm to lên, xe cứ ngày một tăng tốc độ chạy loang loáng, cõ lẽ chạy được quá nửa dốc thì đồng chí Ca hốt hoảng hét to lẻn “Thôi chết rồi cần lái bật ra số mo mất rồi”, tiếp theo đồng chí Tâm kêu “Thôi bỏ mẹ thế thì đổ mất xe thôi”, tôi hét to “Đồng chí Tâm bình tĩnh xử lý đi” thế là xe tăng tốc lao xuống dốc
- 65 -
vun vút tối tăm mặt mũi, sau đó tôi không còn biết việc gì đã sảy ra nữa ? Rồi tôi mơ màng nghe mang máng bên tai có 3 phát súng bắn báo hiệu tắc đường, rồi nghe thấy tiếng chân người chạy từ dưới dốc lên và từ trên dốc xuống, và nghe thấy tiếng đồng chí Tâm nói to : “Đây rồi, thủ trưởng Bào nằm đây rồi “. Tôi vẫn mơ màng nửa tỉnh nửa mê thều thào hòi: “Thế có việc gì sảy ra thế ?”, đồng chí Tâm trả lời “Xe bị đổ mất rồi thủ trưởng ạ,, có lẽ cánh cửa xe bật ra nên thủ trưởng bị bay ra khỏi xe đang bị thương nằm cạnh đường đây này” Lúc này tôi dần dần tỉnh táo cảm nhận được toàn thân đang đau đớn, đau nhất là bên cánh tay phải, ở trên đầu và ở dưới mông đít . Đồng chí Bá chính trị viên phó đại đội 11 cùng đồng chí Tài y tá và một số anh em lái xe trên dốc chạy xuống. Lúc đó có lẽ anh em trông thấy trên đầu tôi máu chảy nhiều xuống cả mặt thì mọi người rất lo lắng, đồng chí Tài y tá vội băng bó cầm máu ngay vết thương ở trên trán, rồi anh em lấy võng buộc tạm thành chiếc cáng sau đó bê tôi lên trên cáng rồi cùng nhau khiêng chuyển tôi lên đến Trạm barie km 94, đồng chí Bá yêu cầu Barie điện thoại báo ngay cho thủ trưởng Binh trạm 34 biết là xe đi đàu đã bị đổ ở dốc 96B và tôi đã bị thương nặng. Đội hình xe phải tạm dừng vì cả 2 đường đều đang bị tắc cả. Một lúc sau thủ trưởng Binh trạm 34 điện báo vào là: Cho ngay một xe quay lại trở tôi ra cấp cứu ở đội phẫu thuật 47
ở quãng km 15 đường tránh dốc 20, Binh trạm sẽ điện báo cho đội phẫu thuật cho người ra ngoài đường túc trực đón. Thế là tôi thều thào trao quyền chỉ huy đội hình xe cho đồng chí Bá, lúc này y tá phát hiện ra tôi đã bị trật khớp vai tay bên phải, cánh tay đang lũng lẵng, đồng chí y tá dám cho 1 chân vào hốc nách tay phải rồi kéo tay tôi thẳng ra định cho vào hốc nách nhưng không được, tôi đau quá thét lên và ngất luôn, sau đó cậu ta buộc nẹp cố định để tay dọc theo người. Đồng chí Bá điều một xe trở gạo quay đầu xe trở lại rồi anh em lên xếp vài bao gạo cho phẳng, giải bạt xe lên trên sau đó khiếng đưa tôi lên thùng xe nằm trên các bao gạo. Đúng lúc này mọi người nghe thấy 2 phát súng báo thông đường của công bính trên đường dốc 96 A, thế là đội hình xe tiếp tục chạy vào trả hàng Tổng kho Binh trạm 35 xong ngay trong đêm và sau này được biết đêm hôm sau 17/11 cả đội hình 18 xe quay ra về đến đơn vị đều an toàn.
Còn xe tôi nằm trên thùng cũng bắt đầu chạy ngược trở ra, vượt qua trọng điểm rừng thông, xe chạy đến gần sáng mới đến đầu đường rẽ vào đội Phẫu thuật thì đã thấy
anh em trong đội Phẫu thuật ra đón nhanh chóng khiêng tôi xuống đưa vào cáng rồi đưa vào nằm ngay chiếc giường của phòng cấp cứu. Trời bắt đầu sáng hẳn, lúc này tôi cũng đã tỉnh táo hơn nhưng càng thấy đau đớn hơn. Bác sĩ, y sĩ phẫu thuật và dụng cụ, thuốc men, bông băng đã chuẩn bị sẵn sàng. Sau khi Bác sĩ khám kiểm tra các vết thương và hội chẩn phân công phối hớp với nhau sử lý các vết thương xong, thế là họ bắt đầu tiêm thuốc mê rồi phối hợp sắp xếp lại giây chằng nắn xương khớp vai phải, tiến hành khâu vết thương trên đầu và đầu gối chân trái, rồi tảy rửa sạch sẽ các chỗ bị xây sát bôi thuốc sát trùng đặt gạc và dán băng dính cho khỏi va chạm. Còn tôi thì sau khi bị tiêm thuốc mê lịm đi lúc nào không biết nữa, mãi hơn 9 giờ sáng tôi mới tỉnh lại thì thấy tay phải đã được nắn xong đang buộc nẹp cố định đeo vào trước ngực, các vết thương được băng bó sạch sẽ, trên đầu thì anh em quân y dùng kéo chuyên môn cắt trọc nham nhở, người được lau chùi sạch sẽ không còn dính các vết máu, quần áo đã được thay mặc quần áo mới. Đồng chí Ngọ bác sĩ quân y tâm sự với tôi tỏ ra lo lắng vết thương trên đầu tôi bị toạc rách gần
- 66 -
10 phân, máu chảy ra nhiều ướt cả áo sơ mi bên trong và thấm ra cả áo trấn thủ bên ngoài nên sợ sẽ ảnh hưởng đến thần kinh não. Trái lại tôi thì lại cảm thấy trên đầu bị đau ít nhất, còn tay phải sai khớp cũng đang đau hơn, đặc biệt là dưới mông đít thì rất đau đớn kéo dài xuốt ngày đêm không thể cử động được, cứ phải nằm một tư thế. Lúc đó tôi nghĩ có lẽ khi tôi bị văng trong buồng lái ra bị đập mông vào ta luy đá rồi rơi xuống cạnh đường nên chiếc quần mới toanh mà hai bên mông rách toang ra phải vứt đi không mặc được nữa. (Thực tế sau này mãi cuối năm 1975 sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc, tôi đi khám ở bệnh viện quân y 175 ở Sài Gòn, họ chiếu chụp phần xương bên trong mông đít mới thấy được là khi đổ xe bị gẫy gần hết xương mông ngầm bên trong, qua gần 5 năm xương vẵn còn vết nứt chưa liền đến 2 phân). Còn tay phải sau khi nắn khớp, thì ngực bên phải của tôi bị sưng lên như ngực phụ nữ, gõ ngón tay vào thì bên trong ngực kêu bồm bộp như chất sốp nhưng đã thấy giảm đau nhiều. Một điều rất may mắn là tôi đã đội mũ cối Trung Quốc trên đầu nên khi ở trong buồng lái bị bay ra đầu đập vào ta luy đá, mũ cối bị vỡ ra mấy mảnh, đầu chỉ rách toạc một vết dài, nếu không đội mũ thì chắc chắn đã đi chầu Diêm Vương ngay rồi. Một điều may mắn nữa là ở đội phẫu thuật có đệm cao su ghép lại cho tôi nằm được êm hơn nên cũng giảm được phần nào đau đớn.
Thế là liên tục 9, 10 ngày liền tôi nằm ly bì không thể nghiêng ngửa trở mình được, mọi sinh hoạt cá nhân lúc đàu đều phải nhờ các đông chí y tá giúp đỡ, sau vài ngày may mắn được Tiểu đoàn cử đồng chí Giang hoàng Nghệ là liên lạc của Tiểu đoàn vào đội phẫu thuật trông nom chăm sóc tôi từ bón cháo, bón cơm đến đi đại tiểu tiện. Mấy ngày đầu toàn thân đau đớn mệt mỏi nên mỗi bữa chỉ ăn được vài thìa cháo thôi, đội phẫu thuật phải liên tiếp truyền huyết thanh và tiêm các loại thuốc bổ trợ. Tôi tự động viên “Lạc quan là liều thuốc sống”, không ăn được cũng phải cố mà ăn, ăn để mà sống, để mà được tiếp tục cống hiến cho Đảng, cho dân. Đôi lúc cũng bi quan lo lắng không biết liệu mình có hồi phục được sức khỏe, chân tay có lành lặn để trở về tiếp tục cùng đơn vị làm nhiệm vụ được nữa hay không ?. Càng nghĩ càng thấy buồn bực thà rằng bị thương vì bom đạn địch đánh phá lại không sao, nay lại bị thương vì tai nạn đổ xe, mà đây lại là chuyến xe đầu tiên của mùa khô thứ 6 trên tuyến đường Trường Sơn rực lửa anh hùng mới ức chứ…. Trong lúc ở đơn vị công việc đang bận rộn nào là chuẩn bị đón bộ phận người, xe ở hậu phương sắp vào, rồi thì trách nhiệm chính của mình là phải chuẩn bị phương án biên chế tổ chức, sắp xếp đội ngũ cán bộ và nhất là viết báo cáo tổng kết chuẩn bị tiến hành đại hội các chi bộ và đại hội toàn Đảng bộ của tiểu đoàn trước khi bước vào vận chuyển lớn mùa khô 1970 - 1971. Thế mà mình lại phải nằm ở đây không biết bao giờ mới được trở về Tiểu Đoàn tiếp tục nhiệm vụ.
Thật là cảm động trong mấy ngày đầu tôi nằm đều trị ở đội phẫu thuật từ các thủ trưởng Binh Trạm, đến anh em cán bộ tiểu đoàn, đại đội hàng ngày liên tiếp điện thoại đến Đội phẫu thuật để hỏi các Y Bác sĩ cho biết về tình hình sức khỏe của tôi. Mấy ngày sau đồng chí Hoa tiểu đoàn phó vào Đội phẫu thuật thăm hỏi tôi, anh em gập nhau mừng quá, qua chuyện trò thì được biết Binh Trạm đang có phương án tìm người thay thế tôi, vì cho là tôi đã mất sức chiến đấu không thể tiếp tục ở lại làm nhiệm vụ được nữa. Nếu như tôi lúc này giảm sút ý chí chiến đấu, -ham sống sợ chết thì coi đây là một thời cơ, chắc
- 68
chắn sớm muộn cũng sẽ được chuyển ra hậu phương công tác. Nhưng trái lại với tôi lúc này thì coi đó là một tin buồn, bởi vì ý chí chiến đấu của người đảng viên cộng sản chân chính đã thấm đẫm trong máu thịt của tôi rồi, đã từng bất khuất kiên trung trước đòn tra tấn sống đi chết lại của kẻ thù,, đã từng trải qua 5 mùa khô vượt qua mọi gian khổ hy sinh, mưa bom bão đạn vẫn không lùi bước. Là bí thư huyện đoàn thanh niên đã từng giáo dục thanh niên lời PaVen Cocxaghin “Vốn quý nhất của con người là cuôc sống – Cuộc sống đến với con người chỉ có một lần – Sống làm sao để khỏi phải ân hận vì nhỏ nhen ty tiện – Để khỏi phải xót xa vì sống hoài sống phí”, Và mình đã gương mẫu nêu gương sáng trong phong trào “Thanh niên 3 sẵn sàng”. Nên hạ quyết tâm không lùi bước, phấn đấu rèn luyện chiến thắng bệnh tật để được trở về đơn vị tiếp tục nhiệm vụ, trong lương tâm không cho phép khuất phục lùi bước lúc này. Khi đã chống nạng đi lại được tôi đã đến bàn điện thoại của Đội phẫu thuật quay máy về Binh Trạm 34 xin được trực tiếp gập Chính ủy Phạm Thái, đầu máy bên kia:” A lô ai đấy ?” – “Báo cáo thủ trưởng tôi là Nguyễn ngọc Bào chính trị viên tiểu đoản 51 đang điều trị ở đội phẫu thuật 74 đây ạ.” – Đồng chí Phạm Thái : “Trời đất ơi ! đồng chí Bào đấy à, tôi mới ở ngoài Hà Nội vào, nghe tin đồng chí bị thương nặng vì đổ xe. Thấy các anh trong này nói là đồng chí bị thương nặng lắm, Thường vụ Đảng ủy Binh trạm đang dự kiến tìm người bổ xung thay thế đồng chí đấy, chúc đồng chí yên tâm điều trị mau lành khỏi các vết thương nhé” – Tôi vội nói: “Thủ trưởng ơi ! tôi sắp khỏi rồi, sẽ tiếp tục trở về tiểu đoàn công tác. Nếu Thủ trưởng có thương tôi thì chấp nhận nguyện vọng trên của tôi, còn nếu Thủ trưởng ghét tôi thì mới nỡ tâm loại tôi khỏi vòng chiến đấu buộc tôi phải xa rời đồng đội đã qua nhiều năm gắn bó”. – Đồng chí Phạm Thái :”Sao đồng chí lại nói thế, đây là trách nhiệm chăm lo đời sống cán bộ của Đảng, không nỡ để một cán bộ như đồng chí đang bị thương tích phải tiếp tục chịu vất vả khổ sở làm gì. Còn nếu đồng chí tự khẳng định như vậy thì tôi mừng lắm và tin tưởng đồng chí nhiều chứ. Tôi chấp nhận đề nghị của đồng chí, nói thật chứ đồng chí đã cứu nguy cho Binh Trạm đấy, vì đang khó khăn tìm được người thay thế có ý chí, nhiệt tình và trách nhiệm như đồng chí. Thôi tôi phấn khởi chức đồng chí mau lành lặn trở về Tiểu đoàn công tác nhé” .Thế là tôi thấy mình nhẹ cả người lên, phơi phới lạc quan yêu đời vìnguyện vọng chính đáng của mình đã được đồng chí Bí thư Đảng ủy Binh trạm chấp nhận.
Trong thời gian nằm điều trị thật cảm động trước tấm lòng yêu thương quý mến của đồng chí, đồng đội đối với tôi..Chẳng hạn đồng chí Khôi chính trị viên đại đội 11 rẽ vào thăm đã cho tôi một miếng mật gấu (đổi được của dân bản) để mgâm cồn xoa bóp cho mau lành những chỗ còn đau nhức. Đồng chí Vinh chính trị viên đại đội 14 rẽ vào thăm đã sách một vỏ sắt thùng lương khô trong đó để giấy vụn bọc 20 quả trứng gà do tự nuôi gà đẻ ra được để tôi bồi dưỡng , 1 trung đội trưởng vào thăm biếu tôi một chai mật ong đổi được của dân bản để tôi bồi dưỡng v..v… Tôi coi đồng chí Nghệ công vụ tiểu đoàn là ân nhân trong cuộc đời tôi, vì đã tận tình chăm sóc tôi quá chu đáo như một người em ruột trong gia đình.
Đúng lạc quan là liều thuốc sống thật. Sau khi tôi được Chính ủy Binh trạm Phạm Thái chấp nhận cho tôi sau điều trị được tiếp tục trở về đơn vị công tác. Thế là hàng ngày tôi tích cực tự giác chống nạng đi lại vừa rèn luyện vùa gập gỡ mọi người xung
- 68 -
quanh chuyện trò vui vẻ. Tay bên phải bắt đầu tập cầm thìa, đũa súc cơm ăn, bê nước uống ngày một tiến bộ, chỉ riêng dưới hông mông đít là vẫn còn đau mỗi khi bước chân cử động đi lại, nên tôi phải kẹp 1 nạng vào nách bên tay trái làm điểm tựa mới bước chân đi lại được.
Sáng ngày 16/12/1970 là 29 ngày nằm đội Phẫu thuật 74, tôi gập trực tiếp đồng chí Ngọ bác sĩ quân y phụ trạch trạm trưởng chính thức đề nghị với Trạm trưởng ngày mai làm thủ tục cho tôi xuất Trạm vì tự thấy sức khỏe đã hồi phục, các vết thương đã lành da,
Chỉ còn đau mông đít thôi khi về đơn vị sẽ tập luyện hồi phục dần, còn nằm thêm ở đây thì lãng phí thời gian quá, mà trong khi ỏ đơn vị đang tồn tại nhiều công việc đang chờ tôi về để sử lý giải quyết. Đồng chí Ngọ trạm trưởng ngần ngừ một lúc rồi mới gật đầu đồng ý, vì ái ngại thấy tôi chưa thật sự trở lại bình thường. Thế là tôi gọi điện về Tiểu đoàn 51, đề nghị các anh bố trí cho một xe sau khi vào trả hàng xong trên đường quay ra rẽ đến Trạm Phẫu thuật đón tôi và đồng chí Nghệ về tiểu đoàn.
Khi về đến tiểu đoàn vài ngày thì bộ phận người và xe ở hậu phương do đồng chí Khoa tiểu đoàn trưởng và đồng chí Trí phụ trách cũng hành quân vượt tuyến vào đến đơn vị đang ở lại mùa mưa đảm bảo đi đến vào gọn, an toàn cao. Anh em cán bộ chiễn sĩ hai bộ phận gập nhau tay bặt mặt mừng, có chè Hồng Đào,, thuốc lào Vĩnh Bảo và thuốc lá Điện Biên, Tam Đảo, bánh kẹo các loại ở hậu phương đem vào phân phối liên hoan chuyện trò như pháo rang, thật rôm rả vui vẻ. Sau đó tiến hành chấn chỉnh lại tổ chức biên chế đảm bảo từ cán bộ, đến lái xe và đầu xe vận tải giữa 3 đại đội tương đối cân bằng và hợp lý trên cơ sở 3 đại dội cũ trước đây. Sau đó tiến hành Đại hội Chi bộ, đị hội chi đoàn dưới 3 đại dội và Tiểu đoàn bộ xong, rồi tiến hành Đại hội toàn Đảng bộ Tiểu đoàn, Ban chỉ huy tiểu đoàn vẫn 4 đồng chí cũ với nhau. Rồi tập trung vào thực hiện kế hoạch vận chuyển theo chỉ tiêu của Binh Trạm giao cho trong mùa khô năm 1971.
Tôi năm nay 85 tuổi , nhìn lại vụ tai nạn đổ xe làm tôi bị thương nặng của đêm 16 tháng 11 năm1970 mà vẫn thấy rùng mình hoảng sợ. Nhưng do lúc đó có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng “Sẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Đánh tan giặc Mỹ mới về quê hương” mới có thể tiếp tục được vinh hạnh là lực lượng “Gan vàng dạ ngọc” dong duổi theo những “ Con tuấn mã Trường Sơn”, trên tuyến lửa anh hùng. (Những danh từ ca ngợi của Tư lênh trưởng Đồng Sĩ Nguyên Bộ tư lệnh Trường Sơn giành tặng cho những lái xe và những xe vận tải quân sự trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại). Nếu lúc đó tư tưởng tiêu cực ham sống sợ chết thống trị thì đó sẽ là cơ hội để thoái lui về hậu phương một cách hèn hạ nhưng lại hợp pháp không ai có thể chê trách được.
- 69 -
NHỮNG MẨU CHUYỆN CHÍ CÓ Ở TRƯỜNG SƠN
Câu chuyện thứ nhất
Khi tuyến đường tây Trường Sơn bắt đầu được công binh ta mở đường chạy xe cơ giới mới đầu phần lớn là chạy trong các khu rừng già, thỉnh thoảng đường có chạy qua gần bản làng dân tộc Lào Thưng. Chuyến xe ô tô Gát 63 đầu tiên mới chỉ vài xe chạy thông đường, ta vẫn cảnh giác chỉ chạy vào ban đêm bằng đèn rùa. Đến sáng đội hình xe mới tạm dừng gần một bản làng dân tộc Lào Thưng. Anh em lái xe đã có kinh nghiệm đem theo bao muối để đổi lấy rau xanh, gà, vịt của dân bản. Có lẽ từ cha sinh mẹ đẻ nhiều đời nhân dân bản làng ở đây chưa nhìn thấy chiếc xe ô tô bao giờ, nên khi nghe thấy tiếng ầm ì của xe chạy thì một số chạy ra xem. Họ đứng ngắm nhìn, rồi sờ mó những chiếc xe, trong khi đó anh em lái xe đã nấu cơm chín dọn ra ăn…Thế rồi tự nhiên có một Cụ già đến hỏi anh em lái xe “ Thế những đứa kia nó ăn bằng cái gì ?”( tay cụ chỉ vào những chiếc xe ô tô) may trong số lái xe có 1 đồng chí ít nhiều biết tiếng dân tộc Lào Thưng liền nói phịa ra rằng “Nó chỉ biết ăn sôi với thịt gà thôi..” một lúc sau dân bản ra về, anh em tưởng nói đủa cho vui. Nhưng thật bất ngờ sau đó gần 2 tiếng đồng hồ thấy một số bà con dân Bản đi ra đem theo l con gà luộc và l tuýp sôi đang còn nóng rồi bảo lái xe đem cho ô tô ăn đi. Lính lái xe láu lỉnh liền ra mở nắp ca bô đầu xe rồi xếp con gà và tuýp sôi vào bên trong đầu xe, xong ra quỳ gối trước đầu xe vái lậy, mồm lẩm nhẩm đọc vớ vẩn vài câu, rồi có lời cảm ơn đồng bào và nói là xe nó sẽ ăn hết đấy. Một lúc sau dân bản đi về hết. Lái xe liền đem ngay sôi, thịt gà trên đầu xe ra cùng nhau ăn ngấu nghiến chỉ một loáng là hết sạch. Chiều tối các xe lại chạy tiếp đi sâu vào tuyến đường bên trong.
Câu chuyện thứ hai
Tháng 11 năm 1967 đội hình xe của Tiểu đoàn 59 hành quân từ hậu phương Hà Tây vào tập kết ở tây Quảng Bình để chuản bị vượt cửa khẩu đường 12 qua Cổng Trời, đèo Mụ Giạ nhập tuyến đường Trường Sơn. Thời gian tạm dừng phải kéo dài hàng tuần
do đường bên Lào chưa khô. Có một lính lái xe tán chuyện thu hút được một cô gái trong gia đình đang ở, môt buổi trưa đôi trai gái kéo nhau ra ngồi khuất ở một bụi tre sau nhà, chàng lính bóc phong lương khô ra mời cô em ăn thưởng thức, lúc sắp chia tay chàng lính đang định cúi xuống ôm hôn cô em một cái thì….bất ngờ Ông chủ nhà là bố của cô gái chạy ra hét to: “Này bọ (bố) cảnh cáo anh, tại sao anh lại dám ngửi mồm con gái của Bọ, có phải anh nghi con gái của bọ ăn cắp lương khô của các anh phải không ?”. Thế là anh chàng lính lái xe cụt hứng vội buông cô em ra, rồi chia tay không một lời thanh minh.
Câu chuyện thứ ba
Một buổi chiều cuối tháng 3 năm 1970 tại trọng điểm km 18 cuộc chiến đấu đang diễn ra ác liệt giữa máy bay phản lực Mỹ lao xuống thả các loại bom để gây tắc đường vận chuyển, với lực lượng pháo phòng không 37 ly và 12 ly7 của ta chốt xung quanh trọng điểm đang bắn lên trên trời đạn nổ bùm bụp xung quanh máy bay địch, buộc các con quạ sắt phải vòng lượn lên cao rồi lao xuống thả những loạt bom bi nổ ngay và nổ chậm đánh vào các trận địa pháo của ta loang ra một phạm vi rất rộng.
Trong lúc đó tại căn nhà nửa chìm nửa nổi của Ban chỉ huy đại đội 11 Tiểu đoàn 51 chỉ cách trọng điểm vài km mọi người đang ngồi trong hầm trú ẩn, thì bất ngờ bị bom
- 70 --
bi của máy bay địch thả trùm cả vào khu vực đóng quân, trong đó có 1 quả bom bi nổ chậm rơi trúng vào cửa hầm phụ phía sau cửa hầm chính của BCH đại dội 11, lúc đầu đồng chí Tề đại đội phó tưởng có mảnh vỏ bom bi mẹ rơi trên nóc hầm, liền nghé lên xem thì không thấy gì. Một lúc sau đồng chí Tề nhìn xuống phát hiện thấy 1 quả bom bi đang nằm chềnh ềnh ngay dưới cửa hầm phụ, như điện giật đồng chí Tề hét toáng lên “Mọi người chạy ngay ra thùng nhà tránh bom bi nổ chậm đang nằm trong hầm”. Thế là như tên bắn mọi người nhanh chóng vọt chạy ngay ra nằm dưới thùng nhà hầm ở bên ngoài thấp thỏm hồi hộp chờ tiếng bom bi nổ. Quả vậy chỉ một lúc sau một tiếng nổ chói tai, đất bụi mù mịt bốc ra hai cửa hầm và mùi khói khét lẹt. May mắn quá thế là mọi người an toàn tính mạng. Nếu không phát hiện ra bom bi nổ chậm rơi nằm trong hầm thì khi nó nổ chắc chắn sẽ hy sinh vài người. Trường hợp này đã trùng với một trường hợp tương tự mùa khô năm 1969 có một lần 3 lái xe và 1 công binh chui vào hầm trú ẩn cạnh đường trong khi bị máy bay địch đánh phá ban đêm, do không phát hiện được 1 quả bom bi nổ chậm rơi trúng cửa hầm, nên khi nó phát nổ đã làm 3 đồng chí hy sinh ngay tại chỗ và l đồng chí bị thương nặng./.
Câu chuyện thứ tư
Một lần tại trọng điểm km 18 gần tối thì bị một đợt máy bay địch đánh phá, có một đoạn đường do trên ta luy dương bị trúng bom, đất đá rơi tràn xuống lấp mất mặt đường. Trong khi đó đội hình xe mở đầu 1 đợt tổng công kích đang chuản bị xuất phát ở cổng kho chỉ cách trọng điểm chưa đầy 3 km. Để nhanh chóng thông đườngBinh trạm trưởng ra lệnh anh em công binh phải tăng cường lực lượng đến ngay nơi tắc đường cùng tổ chốt ứng trực khắc phục nhanh chóng thông đường. Thế là đơn vị xe điều ngay 1 xe chưa lấy hàng ra trở trên 20 công binh cùng cán bộ công binh của Binh Trạm và cán bộ chỉ huy đội hình xe. Khi xe chạy đến gần nơi tắc đường thì ở trên đỉnh núi có 1 quả bom nổ chậm phát nổ, đất đá lao xuống ầm ầm, thật không may có một tảng đá to dài lăn xuống trúng vào đầu xe đè bẹp cabin buồng lái khiến lái chính và phụ xe hy sinh ngay trong buồng lái, xe gục đầu dừng ngay tại chỗ. Trời ơi ! trong cái dủi lại có cái may nếu chỉ trệch về phía sau 2 mét thì tảng đá đó đã đè bẹp chết hết trên 20 người đang đứng chật trong thùng xe ..
Câu chuyện thứ năm
Ở đầu trọng điểm dốc km 18 có một xe trở hàng chạy vào gần sáng khi vượt qua gần hết trọng điiểm thì không may bị hư hỏng nặng. lái xe cố dấn cho xe chạy vào bên cạnh đường còn lơ thơ cây cối để dấu xe. Sáng hôm sau đơn vị cử 1 thợ đem vật liệu đến để sửa chữa thay thế, trong lúc thợ và lái xe đang tiến hành sửa chữa xe thì có tiếng máy bay trinh sát OV10 hai thân bay đến lượn soi mói khu vực trọng điểm, trên trời thì nghe có tiếng máy bay phản lực đang bay lượn trên cao. “Tránh voi chằng xấu mặt nào” anh em thợ và lái xe vội vàng tìm hầm cạnh đường chui xuống trú ẩn. Khi nghe thấy tiếng tắc bụp bắn pháo hiệu chỉ điểm của thằng OV10, ngay sau đó anh em nghe thấy tiếng rít của máy bay phản lực bổ nhào xuống thả bom, một sự kiện bất ngờ là có 1 quả bom rơi xuống đã chui ngay vào cuối chiếc hầm mà lái xe và thợ đang ngồi, đất rung động, hầm lắc lư.
- 71 -
Sau đó anh em nhìn thấy quả bom nửa chìm nửa nối ở ngay đuôi hầm, tất cả sợ mặt xanh nanh vàng co rúm người lại. Một lúc sau lấy lại bình tĩnh lái xe xác đình đây là quả bom từ trường chỉ nổ khi có luồng xung điện phát ra của xe cơ giới chạy qua. Thế là anh em bảo nhau hãy bình tĩnh cởi bỏ hết các thứ có sắt thep trong người ra, buộc gọn vào cùng với đồ nghề bằng sắt thép của thợ bằng một chiếc dây võng. Xong rồi anh em từ từ từng người bình tĩnh bò chui ra cửa hầm lên trên mặt đất, sau đó ra xa rồi kéo đàu dây võng lên kèm theo các thứ đã buộc lúc ở trong hầm, thế là an toàn tuyệt đối, không mất mát một tý gì.
Câu chuyện thứ sáu
Một lần tại trọng điểm km 18 gần tối thì bị một đợt máy bay địch đánh phá, có một đoạn đường do trên ta luy dương bị trúng bom, đất đá rơi tràn xuống lấp mất mặt đường. Trong khi đó đội hình xe mở đầu 1 đợt tổng công kích đang chuản bị xuất phát ở cổng kho chỉ cách trọng điểm chưa đầy 3 km. Để nhanh chóng thông đườngBinh trạm trưởng ra lệnh anh em công binh phải tăng cường lực lượng đến ngay nơi tắc đường cùng tổ chốt ứng trực khắc phục nhanh chóng thông đường. Thế là đơn vị xe điều ngay 1 xe chưa lấy hàng ra trở trên 20 công binh cùng cán bộ công binh của Binh Trạm và cán bộ chỉ huy đội hình xe. Khi xe chạy đến gần nơi tắc đường thì ở trên đỉnh núi có 1 quả bom nổ chậm phát nổ, đất đá đang lao xuống ầm ầm, thật không may có một tảng đa to dài lăn xuống trúng đầu xe đè bẹp cabin buồng lái trong đó lái chính và phụ xe hy sinh ngay trong buồng lái, xe gục đầu dừng ngay tại chỗ. Trời ơi ! trong cái dủi lại có cái may nếu chỉ trệch về phía sau 2 mét thì tảng đá đó đã đè bẹp chết hết trên 20 người đang đứng chật trong thùng xe ..
Câu chuyện thứ bẩy
Có lần tôi trực chỉ huy ban đêm ở Ban chỉ huy tiểu đoàn. Khoảng 10 giờ đêm có tiếng chuông điện thoại réo. Tôi cầm ống nghe lên nói : A lô tôi nghe.
- Đầu máy điện thoại bên kia : Báo cáo thủ trưởng xe của em bị hỏng bánh răng hộp số không chạy được đang nằm ở gần Barie Chà Rế, đề nghị thủ trưởng báo cho đại đội cử thợ và đem theo vật liệu vào thay thế ngay cho xe em nhé.
- Tôi hỏi “Thế đồng chí tên là gì ? ở đại đội nào ?
- Lái xe trả lời “Anh đây, ở đại đội 3”.
- Tôi hỏi lại “Thế tên đòng chí là gì ?
- Lái xe “Anh đây”
- Tôi nói “Này đồng chí ăn nói cho nghiêm túc một chút. Tên là gì ?”
- Lái xe “Báo cáo thủ trưởng em nói nghiêm túc đáy chứ. Tên em là Anh mà”.
Sau này mới biết đồng chí này là người dân tộc, quen nói năng đơn giản./.
- 72 -
CÂU CHUYỆN VIẾT TIẾP Ở TRƯỜNG SƠN
Thế là mùa khô năm 1971 rồi tiếp theo là mùa khô năm 1972 tôi vẫn tiếp tục là chính trị viên tiểu đoàn 51 xe vận tải quân sự trực thuốc Binh trạm 34. Trên tuyến đường Trường Sơn vẫn tiếp diến cuộc chiến đấu giữa ta và địch nhưng quy mô và mức độ thì ngày càng gay go quyết liệt hơn. Các sự kiện sảy ra thì vẫn lắp đi lắp lại như những mùa khô trước đây.
Một sự kiện mới sảy ra: Sau 6 năm dài gắn bó với tiểu đoàn 51 xe, mãi cho đến tháng 4 năm 1972 thi tôi mới được đổi đời, mà đổi đời nhanh đến chóng mặt không thể tưởng tượng nổi, đó là: Tháng 4/1972 tôi nhận được quyết định của Bộ tư lệnh Trường Sơn bổ nhiêm tôi lên làm Phó chủ nhiệm Ban chính trị Binh trạm 34 tiếp theo tháng 6/1972 tôi tiếp tục nhận được quyết định bổ nhiệm lên làm Chủ nhiệm ban chính trị Binh trạm 34, ngồi chưa ấm chỗ thì đầu tháng 10/1972 tôi lại nhân được quyết đình của Bộ tư lệnh Trường Sơn bổ nhiệm tôi lên làm phó chính ủy Binh trạm 34. Rồi tháng 12/1972 tôi nhận được quyết định điều động về làm Phó chính ủy Trung đoàn 32 xe ô tô vận tải quân sự (Theo yêu cầu nhiệm vụ ngày một phát triển Binh đoàn Trường Sơn đã dồn các tiểu đoàn xe độc lập thuộc các Binh trạm tập trung thành các trung đoàn xe, rồi sau đó thành lập 2 sư đoàn xe 471 và 572 Trường Sơn – Đối với các binh chủng công binh, pháo binh v.v.. cũng tổ chức như vậy. các binh trạm tổng hợp không còn tồn tại nữa.).
Tôi từ giã tiểu đoàn 51 và Binh trạm 34 đi trở ra nhận nhiệm vụ ở Trung đoàn 32, một trung đoàn vinh dự được thừa kế phiên hiệu của Binh trạm 32 là Binh trạm có bề dày thành tích nhiều mùa khô đứng đầu các Binh trạm trong Binh đoàn Trường Sơn, là Binh trạm đầu tiên đạt danh hiệu “Binh trạm vạn tấn tháng” tiếp theo nhều lần giữ danh hiệu cao quý đó. Có tiểu đoàn 102 xe đạt danh hiệu Anh hùng LLVTNN từ năm 1970. Ban chỉ huy Trung đoàn 32 lúc đầu có 4 người gồm: Trung đoàn trưởng Nguyễn Thuận Quảng, Trung đoàn phó Đinh trọng Tịnh, Chính ủy Lê Hợp, phó chính ủy Nguyễn Ngọc Bào.... Tiếp sau đó tháng 7/1973 chính ủy Lê Hợp được điều động lên làm Trưởng ban tuyên huấn Sư đoàn 472, tôi được bổ nhiệm lên phụ trách chính ủy trung đoàn và đồng chí Nguyễn Trọng Trai chủ nhiệm ban chính trị được bổ nhiệm lên phó chính ủy trung đoàn 32. Trong trung đoàn có 4 tiểu đoàn xe, 1 trạm sửa chữa, l đội quân y, 4 ban cơ quan.
Thuận lợi cơ bản là sau khi trung đoàn thành lập xong, mới bước vào nhiệm vụ vận chuyển chưa đầy 2 tháng sau thì có Hiệp Định Pari ra đời buộc Mỹ phải chấm rứt chiến tranh ở miền nam Việt Nam và Lào, Cămpuchia, rút quân về nước. Như vậy lực lượng xe vận tải quân sự trên tuyến đường Tây Trường Sơn ở đất bạn Lào được chuyển hẳn phương thức vận chuyển: Từ xe chạy ban đêm, đội hình đại đội gọn là chính nay chuyển sang chạy ban ngày, đội hình Tiểu đoàn gọn là chính (Chỉ khi nào xe chạy từ Lào sang Quảng Nam và Tây Nguyên. Hay qua đất Kampuchia để vào Lộc Ninh đông Nam Bộ thì xe mới phải chạy vào ban đêm như trong chiến tranh ở Trường Sơn). Một thuận lợi lớn nữa là lúc này tuyến đường ống dẫn xăng dầu của ta đã thông suốt từ Quảng Bình chạy vào đến cửa ngõ cửa Quảng Nam, Tây Nguyên và vào sâu đến tận Lộc Ninh Nam Bộ nên các xe không phải lo chở theo xăng dầu trên thùng xe như trước, mà bây giờ dọc đường xe vận tải cơ giới cứ vài chục km lại có một nhánh trực tiếp cấp xăng dầu cho từng xe, thỏa mãn cấp đầy đủ cho cà đội hình lớn hàng trăm xe trong một thời gian ngắn.
- 73 -
Từ hai thuận lợi cơ bản : Xe chạy ban ngày, được cấp xăng dầu trên dọc đường. nên đội hình xe chạy quy mô lớn tiểu đoàn gọn hàng trăm xe một chuyến, tốc độ xe được nâng lên từ 100 km ban đêm nay lên trên dưới 200 km ban ngày. Trọng tải xe cũng được tăng lên do xe không phải cõng xăng dầu trên thùng xe. Đội hình xe chạy thẳng ngày một thọc xâu vươn xa (bỏ từng cung đoạn theo Binh trạm trước đây), chẳng hạn từng tiểu đoàn xe của Trung đoàn 32 vươn ra nhận hàng từ cảng Đông Hà và ngoài Quảng Bình rồi chạy thẳng vào trả hàng cho các hướng chiến trường miền Nam xa nhất là tới Bù Gia Mập Lộc Ninh, cho nên thời gian chuyển hàng từ miền Bắc vào miền Nam đã được rút ngắn rất nhiều, mà lại đảm bảo an toàn giảm được bao nhiêu tổn thất trên dọc đường như trước đây. Chính vì vậy nên qúa trình từ mùa khô năm 1973 đến giữa mùa khô năm 1975 cả 2 Sư đoàn xe 471 và 572 của Binh đoàn Trường Sơn đã vận chuyển thỏa mãn được nhu cầu vũ khí,lương thưc cho chiến trường miền Nam ngày một đánh to thắng lớn, đã đáp ứng được chiến dịch giải phóng Tây Nguyên. Đặc biệt là trong đợt thần tốc tổng tấn công, tổng công kích của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chẳng những đáp ứng vũ khí, đạn dược, lương thực cho chiến dịch mà cả 6 trung đoàn xe đều chuyển sang vận chuyển chở lực lượng bộ binh của 3 quân đoàn 1,2,3 thần tốc từ các hướng đánh địch mà đi, mở đường mà tiến, cuối cùng trưa ngày 30/4/1975 tiến thẳng vào nội đô Sài Gòn - Gia Định chiếm dinh Độc Lập, cắm cờ nửa đỏ nửa xanh có ngôi sao vàng ở giữa của Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam lên nóc dinh Độc Lập báo hiệu hoàn toàn giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ Quốc.
Đối với tôi từ đầu năm 1973 đến tháng 5/1975 có mấy sự kiện đáng nhớ đó là :
VÌ CHỦ QUAN COI THƯỜNG ĐỊCH PHẢI TRẢ BẰNG XƯƠNG MÁU
Tiểu đoàn 62 thuộc trung đoàn 32 trong một chuyến xe vận chuyển hàng vào giáo cho chiến trường Tây Nguyên xong, trên đường trở về đơn vị đóng quân ở gần sông Sê Sụ nam Lào, sáng sớm ngày 14/3/1975 khi đội hình xe chạy ra vượt qua dốc Bô Phiên giáp biên giới Việt Nam sang đất Lào được khoảng 1 km có giòng suối to nước trong. Đồng chí Tiểu đoàn trưởng cho đội hình xe tạm dừng nghỉ ngơi nấu ăn sáng và lái xe tắm giặt. Vì chủ quan cho rằng từ sau hiệp định Pa ri tháng 2/1973 đến nay không có máy bay nào của địch đánh phá trên đất Lào nữa. Thế nhưng do địa điểm dừng chân này lại ở quá gần biên giới Việt Nam, nên khoảng 9 giờ sáng một tốp máy bay phản lực F 37 của ngụy quân Sài Gòn bay qua nó phát hiện được một đội hình xe vận tải nối đuôi nhau đỗ hai bên bờ suối hoàn toàn trống trải nên nó lượn vòng lao xuống thả bom phá, bom bi trúng vào đội hình xe ở dưới, một số xe bốc cháy. Sau khi chúng quần đảo đánh phá có lẽ hết bom đạn và sắp hết xăng dầu mới chịu buông tha. Hậu quả thật đau sót: 5 đồng chí hy sinh, trong đó có cả Tiểu đoàn trưởng và bị thương một số lái xe, về phương tiện thì bị cháy hủy mất 5 xe và gần 20 xe khác bị hư hỏng nặng.
- 74 -
KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN THEO TẤM GƯƠNG LÁI XE Ở ĐIỆN BIÊN PHỦ
Cuối tháng 2 năm 1975 trong một chuyến đi xe con Gát 69 có tôi và một số trợ lý các Ban cơ quan từ Xê Sụ vào Đắc-Đam gần ngã ba biên giới của 3 nước Đông Dương để chọn địa điểm đặt một chỉ huy sở tiền phương của Trung Đoàn là bãi tập kết hàng trăm xe và con người của từng tiểu đoàn đi gọn từ bên ngoài vào và từ bên trong quay ra, có nơi tạm dừng chân ăn uống, nghỉ ngơi, kiểm tra kỹ thuật, sinh hoạt động viên rồi lại đi tiếp. Do đường xấu, nhiều đoạn phải chạy trên gỗ rong đanh chống lầy mùa mưa anh em công binh chưa dọn dẹp hết nên xe bị nghiêng ngả, vặn vẹo, rung sóc nhiều, khi xe chạy gần đến địa điểm thì sẩy ra sự cố: Bộ nhíp 2 bánh xe sau bị gãy bung ra, xe dẹp tránh ra vệ đường không thể chạy được nữa. Lúc này thật nan giải tiến thoái lưỡng nan, không ai học được chữ ngờ sảy ra tình huống như thế này để chuẩn bị đem theo nhíp dự phòng thay thế. Nếu để cậu Phơn lái xe đón xe chạy ra để đi nhờ về Trạm tiểu tu giải quyết rồi đem vào thay thế thì mất thời gian quá?. Thế là lúc này tôi nhớ đến tấm gương khắc phục khó khăn của Anh hùng lái xe Trần Minh Khâm trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 khi xe ô tô vận tải của đồng chí bị gãy nhíp, đồng chí đã chặt lấy gốc tre đực trên dọc đường đem chẻ ra đẽo như những chiếc đòn gánh để thay thế nhíp gãy rồi lắp vào chạy tạm về được đến đơn vị, xe người không phải nằm lại dọc đường.
Lúc này sắp trưa rồi, tôi phân công mấy đồng chí trợ lý đi lấy gạo, nồi niêu, thịt hộp và rau muống khô đi tìm suối nước gần nhất để nấu cơm ăn. Còn tôi và cậu Phơn lái xe cầm dao đi tìm chặt gốc tre đực về chẻ đẽo thay thế các thanh nhíp đã bị gãy, rồi kích xe lên tháo bộ nhíp ra dồn lắp đóng ghim bắt ốc các quang nhíp chắc chắn cẩn thận sau đó lại lắp vào xe rồi hạ kích nổ máy chạy thử, ôi phấn khời quá xe chạy tạm được, Thế là hai chúng tôi cho xe chạy tiếp vào khoảng gần 1 km thì gặp bộ phận nấu cơm bên cạnh một con suối nhỏ cũng đã xong. Sau khi ăn uống xong chúng tôi lại cho xe chạy tiếp, nhưng phải từ từ thong thả, chạy được vài cây số lại dừng xe xuống kiểm tra xiết lại ốc các quang nhíp. Thế là đến chiều xe con của chúng tôi cũng chạy được đến đích, nấu nướng ăn uống, tắm giặt ngủ nghỉ qua đêm và ngày hôm sau đi tìm quy hoạch được bãi để xe, bếp nấu ăn, trạm sửa chữa , nhà chỉ huy và trạm quân y …Sau đó trên đường quay trở ra về đến nơi đóng quân của Trung đoàn ở gần sông Xê Sụ nhíp xe thay thế bằng tre vẫn phát huy tác dụng khắc phục khó khăn tạm thời, đảm bảo được đi đến nơi về đến chốn.
- 75 -
THAM GIA CHIẾN DỊCH GIẢI PHÓNG TÂY NGUYỆN
VÀ CHIẾN DICH HỒ CHÍ MINH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM
THỐNG NHẤT TỔ QUỐC
Từ đầu mùa khô đến đầu tháng 3 năm 1975 sau khi 2 sư đoàn xe của Binh đoàn Trường Sơn làm nhiệm vụ vận chuyển tích cực khẩn trương đã đưa được một khối lượng lớn hàng vạn tấn vũ khí, lương thực, phương tiện kỹ thuật vào chiến trường Tây Nguyên và đông Nam Bộ. Đầu tháng 3/1975 Trung đoàn 32 cả 4 tiểu đoàn xe được lệnh của Tư lệnh Sư đoàn xe 471 tiến hành chở Sư đoàn 10 bộ binh thuộc Quân đoàn 3 từ Đức Lập cơ động đến địa điểm phía đông Buôn Mê Thuột để tham gia đánh thị xã Buôn Mê Thuột. Sau 32 tiếng đồng hồ liên tục chiến đấu quyết liệt đến 10 giờ sáng ngày 11/3/1975 quân ta đã tiêu diệt địch giải phóng thĩ xã Buôn Mê Thuột mở đầu chiến dịch giải phóng Tây Nguyên. Ngay sau đó 2 tiểu đoàn 62 và 68 được lệnh của Bộ chỉ huy Mặt trận tiến hành vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men đảm bảo cho đời sống nhân dân thị xã Buôn Mê Thuột và đồng bào Tây Nguyên vùng mới được giải phóng.
Bị thua lớn ở Buôn Mê Thuột buộc quân ngụy Sài Gòn phải rút chạy khỏi Kông Tum và Plây Cu trên đường số 7 về Tuy Hòa, Nha Trang. Lúc này Trung đoàn 32 được lệnh sử dụng tiểu đoàn xe 102 và Tiểu đoàn 68 chở sư đoàn 320 cơ động gấp truy kích đuổi đánh địch trên đường 7 qua Cheo Reo, Phú Bổn, Mẫu Sơn xuống đến Tuy Hòa đồng bằng ven biển. Sau đó lại chở Sư đoàn 320 cơ động quay trở lại đường 14 Tây Nguyên tiếp tục đánh địch mà đi, mở đường mà tiến xuống đến ngã ba Chơn Thành, Bến Cát thuộc tỉnh Bình Dương. Còn 2 tiểu đoàn 62 va 63 tiếp tục chở Sư đoàn 10 chạy theo đường 19 xuống đánh chiếm giải phóng Nha Trang, Cam Ranh.
Cuối tháng 3 năm 1975 chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng, thắng lợi thật to lớn vượt xa mức dự kiến ban đầu của Trung Ương. Không những giải phóng toàn bộ Tây Nguyên, mà còn mở rộng xuống Phú Yên, Khánh Hòa đồng bằng liên khu V. Thắng lợi to lớn của chiến dịch đã tạo nên một chuyển biến chiến lược, một thời cơ cách mạng to lớn trên chiến trường miền Nam.
Chiến dịch Tây Nguyên vừa kết thúc, 4 tiểu đoàn xe đang tạm dừng đội hình ở Tây Nguyên. Lúc này mới chuyển toàn bộ cơ quan Trung đoàn bộ cơ động từ Xê Sụ nam Lào sang Tây Nguyên theo trục đường số 14 trên một chặng đường dài vào tập kết tạm thời đóng quân trong một khu rừng cao su bên ngoài thị xã Buôn Mê Thuột. Bận rộn và vất vả nhất là Ban kỹ thuật và Trạm trung tu Trung đoàn liên tục ngày đêm phải khẩn trương sửa chữa, dồn lắp để nâng cao đầu xe tốt tiếp tục lên đường phục vụ chiến đấu.
Đầu tháng 4/1975 mệnh lệnh của Đại tướng tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa: táo bạo , táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và quyết thắng” được truyền tới từng cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 32 như tiếp thêm sức mạnh mới cho toàn Trung đoàn. Chưa bagiờ không khí lập công ở trung đoàn lại náo nhiệt như những ngày này. Liền sau đó 360 xe của trung đoàn lại hối hả lên đường làm nhiệm vụ vận chuyển cơ động lực lượng bộ binh của Quân đoàn 3 từ Phú Yên, Phú Bổn, Nha Trang,Buôn Mê Thuột vào cửa ngõ tây bắc Sài Gòn. Trong tháng 4/1975 Trung đoàn liên tục thực hiện 937 chuyến chở quân và kéo 27 khẩu pháo lớn không kể ngày đêm, không giờ ngủ nghỉ. Một bộ phận của trung đoàn
- 76 -
còn phải lui cung trở ra kho Xê Sụ thu vét được trên 600 tấn đạn hỏa tiễn ĐKB chuyển vào Đồng Soài, Thủ Dầu Một, Phước Long, Sông Bé.
Cuối tháng 4 năm 1975 thời cơ lịch sử giải phóng miền Nam đã đến. Các quân đoàn chủ lực cơ động và tại chỗ đã hình thành những cánh quân hùng mạnh bao vây Sài Gòn. Đúng 17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975 chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu nổ súng. Trên tất cả các hướng các binh đoàn chủ lực của ta xuất phát tiến công vào những mục tiêu đã định trong nội đô Sài Gòn. Các tiểu đoàn xe của Trung đoàn 32 tiếp tục chở Sư đoàn 10 và sư đoàn 320 tổng tiến công từ hướng tây bắc xuống Sài Gòn. Với sức tiến công như vũ bão của bộ đội chủ lực ta, lại có sự phối hợp nổi đậy của quần chúng cách mạng, nên chỉ hơn 3 ngày đêm chiến đấu thần tốc, dũng mãnh, chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng bằng biểu tượng các xe tăng của ta tiến vào húc đổ cổng dinh Độc Lập và các chiến sĩ quân Giải phóng đã lên cắm cờ nửa đỏ nửa xanh có ngôi sao vàng ở giữa của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lên đỉnh nóc dinh Độc Lập ở trung tâm Sài Gòn vào lúc 11 giờ 30 ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Trong chiến dịch Hồ Chí Mịnh sau khi các tiểu đoàn xe lên đường làm nhiệm vụ, tôi cùng một số cán bộ cơ quan trên một chiếc xe con đi tiền trạm của Trung đoàn luôn bám sát phía sau Quân đoàn 3 từ hướng tây bắc Sài Gòn tiến xuống theo quốc lộ 13 Lộc Ninh – Sài Gòn. Khi nghe đài phát thanh tiếng nói Việt Nam đọc tin thắng trận lúc 12 giờ trưa ngảy 30/4/1975 thì xe con chúng tôi đang ở Bến Cát – Lai Khê quốc lộ 13. Ngay chiều 30/4 chúng tôi đã tạm dừng xe nấu ăn ở ngay thị xã Thủ Dầu Một (Bình Dương). Tối hôm đó vào khu vực Trại Phú Lợi triển khai làm địa điểm đóng quân của Trung đoàn Ngày hôm sau 1/5 và kéo dài hơn 5 ngày nữa cơ quan Trung đoàn bộ mới di chuyển từ Buôn Mê Thuột xuống và các tiểu đoàn sau khi hoàn thành nhiệm vụ được trực tiếp tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mới từ các nơi trở về tập kết đầy đủ ở Trại Phú Lợi (cách thị xã Thủ Dầu Một khoảng 2 km).
7 giờ sáng ngày hôm sau 01/5/1975 tôi và mấy cán bộ đi tiền trạm đã tranh thủ thời gian chưa có quần về cùng nhau đi trên chiếc xe con tiền trạm chạy thẳng xuống Sài Gòn theo quốc lộ 13, khi vào nội đô trước hết hỏi thăm nhân dân chạy thẳng đén trước dinh Độc Lập đứng bên ngoài chiêm ngưỡng (Lúc này thiết quân luật không ai được vào) sau đó phóng xe ra đường xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa định chạy xuống cảng Vũng Tàu, nhưng
xe đến gần Bà Rịa thì có một cầu xi măng bị địch rút chạy đánh gục không qua được,. Thế là đành quay lại Biên Hòa tiếp tục rẽ chạy lên Đà Lạt (cứ tưởng chỉ vài chục km) nhưng khi xe đến Định Quán thì trời đã sế chiều, hỏi dân phải trên 100 km nữa mới đến Đà Lạt, nên đành quay xe lại chạy về Phú Lợi. Trong cả chặng đường dài quang cảnh xe cộ còn lưa thưa, dân tình đi lại cũng còn ít. Trên dọc đường thỉnh thoảng có hàng bãi quần áo, súng ống binh lính ngụy quân cởi bỏ để chạy thoát thân, thình thoáng những xe
ô tô lớn nhỏ của địch vứt bỏ dọc đường. Tuy ban ngày nhưng dọc đường liên tiếp nghe
tiếng súng tiểu liên thi nhau nổ và trên trời thì pháo sáng bắn lên ban ngày mù mịt khắp nơi để chào mừng ngày toàn thắng giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất Tổ Quốc./.
- 77 -
Phần thứ bốn
ĐẤT NƯỚC HÒA BÌNH – THỐNG NHẤT
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XHCN
Từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 12 năm 2018
xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxOOOxxxxxxxxxxxxxxxxxx
- 78 –
Thời kỳ thứ nhất
TIẾP TỤC NHIỆM VỤ TRONG QUÂN ĐỘI
Từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 9 năm 1990
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc, từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1975 trung đoàn 32 xe phải cơ động chuyến nơi đóng quân 2 lần: Từ trại Phú Lợi tỉnh Bình Dương chuyển ra đóng quân trong quân cảng Cam Ranh ở miền Trung, rồi lại chuyển vào đóng quân trong Tổng kho Long Bình, tỉnh Biên Hòa ỏ miền Nam. Việc khó khăn vất vả nhất là mỗi lần chuyển quân lại phải tổ chức co kéo vài chục chiếc xe bị hư hỏng nặng và thiếu vật liệu cùng di chuyển theo.
Một sự kiện có ý nghĩa lịch sử đối với Trung đoàn 32 xe là do Trung đoàn có nhiều thành tích trong vận chuyển mấy lần đạt danh hiệu “Trung đoàn vạn tấn tháng”, nhất là đã huy động tối đa đầu xe vận chuyển vũ khí , lương thực và chở quân phục vụ chiến dịch giải phóng Tây Nguyên và trong chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam Thống nhất Tổ Quốc nên ngày 12 tháng 9 năm 1975 đã được chủ tịch Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký lệnh tặng danh hiệu cao quý cho Trung đoàn 32 “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Trong buổi trung đoàn tổ chức lễ mít tinh đón nhận danh hiệu trên, tôi vinh dự được thay mặt cán bộ chiến sĩ toàn Trung đoàn hứa dưới lá Quân Kỳ quyết thắng: “Cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 32 anh hùng nguyện mãi mãi phát huy truyền thống đơn vị anh hùng, đoàn kết một lòng khắc phục khó khăn, luôn xây dựng đơn vị vững mạnh, tiến lên chính quy hiện đại, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao”.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, Binh đoàn Trường Sơn đã giải thể, Ngày 15/11/1975 Sư đoàn 471 xe VTQS bàn giao Trung doàn 32 về trực thuộc Cục Vận tải, Tổng cục hậu cần, sau đó Sư đoàn chuyển sang làm kinh tế trồng rừng trên Tây Nguyên. Trung đoàn 32 vẫn đóng quân trong Tổng kho Long Bình tiếp tục nhận nhiệm vụ vận chuyển theo kế hoạch của Cục Vận tải giao cho. Tiếp theo chỉ hơn 7 tháng sau, ngày 7/6/1976 Trung đoàn 32 lại được Cục Vận tải Tổng cục Hậu Cần bàn giao về trực thuộc Tổng cục Kỹ Thuật.
Đối với tôi qua 10 năm cùng các đơn vị xe vận tải vượt mưa bom bão đạn làm nhiệm vụ trên tuyến đường Trường Sơn và sau 2 năm hòa bình thống nhất chẳng được học tập bồi dưỡng một lớp chính trị, quân sự, chuyên môn nào nên khi Thủ trưởng Tổng cục Kỹ Thuật tâm sự hỏi xem nguyện vọng của tôi thế nào ? Tôi trả lời “Các thủ trưởng muốn giao nhiệm vụ gì tôi cũng nhận, nhưng đề nghị phải cho tôi được đi học bồi dướng đã, không thì hiện nay trình độ cùn lắm rồi tự thấy không thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội chính quy hiện đại trong thời bình hiện nay được. Thế là giữa năm 1977 tôi được Thủ trưởng Tổng cục kỹ thuật cử đi học tập lớp lý luận chính trị ở Trường Nguyễn Ái Quốc. Thế là tôi phải tạm biệt Trung đoàn 32 anh hùng mà tôi đã từng gắn bó gần 5 năm, không biết sau khi đi học bồi dưỡng xong có được quay trở lại với Trung đoàn 32 hay không ? Từ Tổng kho Long Bình ra thủ đô Hà Nội đến địa điểm của Trường là một phân hiệu của trung tâm Trường Nguyễn Quốc, địa điiểm ở gần gò Đống Đa Hà Nội, trong lớp học tôi lại được giao làm bí thư chi bộ và chi trưởng học tập của một Chi học
- 79 -
viên gồm 14 người, toàn là giám đốc các nhà máy công nghiệp quốc phòng và các nhà máy công nghiệp quốc doanh của Nhà nước.
Đến cuối năm 1977 sau lớp học bế mạc thì tôi nhận được quyết định của Chủ nhiệm Tổng cục thiếu tướng Lê Văn Tri điều động tôi về làm chính ủy Trung đoàn 232 thay thế đồng chí chính ủy cũ được nghỉ hưu. Trung đoàn 232 vốn là một trung đoàn pháo cao xạ 37 ly của Binh đoàn Trường Sơn sau hòa bình thống nhất cũng chuyển sang làm kinh tế nghề xây dựng các kho tàng quân khí ở trên Tây Nguyên, Trung đoàn 232 trực thuộc Sư đoàn 387, Sư đoàn bộ đóng quân ở khu vực xã Thành Công, huyện Thanh Trì lúc đó. Lúc này tôi lại phải tự đấu tranh tư tưởng ghê gớm lắm vì thấy mình đã liên tục 12 năm lăn lộn tuyến đường Trường sơn máu lửa và ở trong miền Nam , đang hy vọng nếu không trở lại Trung đoàn 32 thì chắc sẽ được Trên quan tâm sau học tập sẽ cho mình được về các đơn vị ở ngoài Bắc để được gần quê hương, gia đình vợ con hơn. Thế nhưng nay thật chớ trêu là mình lại phải quay trở lại tiếp tục sống nơi rừng núi heo hút xa xôi không biết đến bao giờ ? - Mình có nên trực tiếp gập các Thủ trưởng Tổng Cục để trình bầy và đề đạt nguyện vọng hay không ?. Nhưng bản chất bộ đội Cụ Hồ trong tôi đã thắng: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Bản thân mình là người đảng viên Cộng sản chân chính, đã từng trải qua tôi luyện thử thách tử tuổi 15 đến nay, chưa từng yếu hèn khuất phục trước một thử thách nào ? . Thế là tôi lại tạm biệt bố mẹ, vợ con gia đình tiếp tục “Hành quân xa dẫu qua nhiều gian khổ - Đâu Đảng cần là ta cứ đi” lên đường nhận nhiệm vụ. Thật sự trong lòng cũng chẳng thấy vui vẻ hứng thú gì, mà còn ngầm oán trách mấy lão ở Phòng cán bộ là cơ quan tham mưu giúp Thủ trưởng họ thiếu sâu sát, thiếu quan tâm trong công tác quản lý sử dụng cán bộ mà thôi.
Tôi đến Ban cán bộ, Phòng chính trị sư đoàn 387 đưa quyết định của Tổng Cục nhận công tác. Chờ đợi vài ngày rồi được bố trí đi theo xe vận tải GMC cuả Trung đoàn 232 trong Tây Nguyên ra Sư đoàn nhận hàng hậu cần, các công cụ xây dựng của Sư đoàn cấp. Sau 5 ngày xe chạy theo quốc lộ số 1, đến Quy Nhơn rẽ đường quốc lộ số 21 lên thị xã Plây Cu, rồi chạy tiếp theo quốc lộ 14 đến khu vực Biển Hồ là địa điểm đóng quân của Trung đoàn bộ Trung đoàn 232. Ban chỉ hy trung đoàn lúc đó có: Đồng chí thiếu tá Đoàn Mạ quyền trung đoàn trưởng, đồng chí đại úy Nguyễn văn Sán phó chính ủy trung đoàn, chưa có trung đoàn phó. Trung đoàn không có cấp tiểu đoàn, mà có 6 đại đội trực thuộc đang triển khai xây dựng các cụm kho quân khí mới, hoặc xây bổ xung các cụm kho cũ nằm rải rác phân tán suốt dọc trục đường quốc lộ 14 trong 4 tỉnh Tây Nguyên từ Kông Tum đến Plây Cu, Buôn Mê Thuột và Gia Nghĩa Đắc Nông. Hầu hết cán bộ chiến sĩ đều quê quán ở ngoài miền Bắc Trung đoàn vừa trải qua một vụ mất đoàn kết nghiêm trọng giữa Chính ủy và Trung đoàn trưởng, hậu quả gây ra chia rẽ bè phái trong nội bộ từ trên xuống dưới khá nặng nề, có ảnh hưởng đến thực hiện nhiệm vụ của Trung đoàn. Trên đã sử lý cho Chính ủy nghỉ hưu, điều trung đoàn trưởng về Phòng tham mưu Sư đoàn. Tôi về đến trung đoàn bộ 232 trong bối cảnh như vậy, lúc này tôi lại nhớ đến lời dạy của Bác Hồ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công, đại thành công” nên khi anh em cán bộ biết tôi là người Hà Nội thì một số cán bộ người Hà Nội đã đến chơi thăm hỏi đầu tiên, số anh em này tâm sự gợi ý tôi phải cảnh giác, nên dựa vào số cán bộ cùng quê hương Hà Nội. Cảm ơn anh em đã giúp tôi nhanh chóng nắm được tình hình nội
- 80 -
bộ lãnh đạo chỉ huy trong trung đoàn. Nhưng không thể nghe theo lời khuyên của họ được, để lại đi theo vết xe đổ đã sảy ra. Vị vậy chỉ qua một thời gian tôi sống, làm việc, sinh hoạt trên cơ quan trung đoàn bộ và xâu sát xuống các đơn vị cơ sở với chủ ý tăng cường xây dựng củng cố khối đoàn kết trong nội bộ trung đoàn, bước đầu đã thành công, tạo nên khôngg khí đoàn kết Trên dưới một lòng, tin tưởng lẫn nhau nên đã có tác động tích cực đến thi đua phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ Sư đoàn giao.
Thấm thoát tôi cùng anh em đã ăn 2 cái tết ở Tây Nguyên , sau sự kiện Xuân Kỷ Mùi năm 1979 ta giúp lực lượng yêu nước Kăm pu chia tổng tiến công đánh đổ bọn Pôn Pốt, Iêng Xê Ri cứu nhân dân nước bạn thoát khỏi nạn diệt chủng. Tiếp sau đó sự kiện 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta giáp vói nước Trung Quốc ngày 07/02 /1979 bất ngờ bị bọn phản bội Đặng Tiểu Bình đưa 60 vạn quân ồ ạt tấn công sang chiếm đóng, bắn giết nhân dân vô tội và tàn phá các công trình xây dựng, cầu cống, kho tàng của ta; sau gần 2 tháng chúng bị quân dân ta bao vây đánh liên tục ngày đêm buộc chúng phải rút đại bộ phận về nước, chỉ còn vài trọng điểm tranh chấp ở biên giới tình Hà Giang là vẫn đang đánh nhau giữa hai bên. Thế là tháng 5 năm 1979 toàn bộ trung đoàn 232 được lệnh của Thủ trưởng Tổng Cục Kỹ thuật tổ chức hành quân ra đóng quân ở huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hóa nhận nhiệm vụ khẩn trương triển khai lực lượng tiến hành xây dựng hệ thống kho tàng quân khí từ huyện Thạch Thành, ra huyện Lạc Trung, vào Đồng Giao, Tam Điệp, chủ yếu là dựa vào các địa điểm hiểm yếu nằm xâu trong các dãy núi đá vôi để nhanh chóng tiếp nhận chứa các loại vũ khí từ trong Nam chuyển ra và của Liên Xô đưa sang rồi sau đó chuyển lên tăng viện cho các tình biên giới phía Bắc . Thế làTết năm Canh Thân 1980 Trung đoàn 232 tổ chức cho cán bộ chiến sĩ ăn tết ở khu vực Kim Tân, Cổ Tế huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. Đối với tôi đây là cái tết thứ 21 (1965 – 1980) tiếp tục phải ăn tết xa nhà. Tôi luôn tự xác định mình là một cán bộ chủ chốt về công tác Đảng, công tác chính trị trong đơn vị, phải nêu tấm gương sáng về quan điểm “Mình vì mọi người” và “Gian khổ đi trước - Hưởng thụ đi sau” nên dù đất nước đã hòa bình, thống nhất đến ngày tết âm lịch tâm lý ai cũng muốn được có mặt đoàn tụ với gia đình. Nhưng tôi đều chủ động sắp xếp để nhường cho các đồng chí Trung đoàn trưởng được về ăn tết với gia đình, còn tôi ở lại trực chỉ huy ở đơn vị.
Tôi nhớ mãi cho đến bây giờ không quên, đó là cái tết Canh Thân năm 1980 anh Đoàn Mạ quyền trung đoàn trưởng trung đoàn 232 khi về ăn tết với gia đình ở gần thị trấn Văn Điển có lẽ với tình cảm quý mến tôi nên sáng ngày mồng một tết Canh Thân anh Mạ và mấy cán bộ cùng về ăn tết ở gần nhau đã đi ô tô con của Trung đoàn đến thăm chúc tết gia đình tôi. Nghe anh Đoàn Mạ kể lại khoảng 9 giờ sáng đến quê tôi ở làng Sáp Mai đáng lẽ vào nhà Bố đẻ tôi ở ven đê, nhưng lại vào nhầm nhà cụ Lang Bương ngay bên cạnh. Khi các anh vào đến sân có lẽ biết là nhầm nhà định quay ra, nhưng ngay lập tức đã được Cụ Bương (tên húy là cụ Nguyễn Thị Tẻo) từ trong nhà đi ra vui vẻ nói: “Năm mới chúc các anh bộ đội mạnh khỏe, tôi biết các anh định vào nhà cụ Chi thân sinh ra anh Bào, nhưng đã vào nhầm nhà tôi, thế là nhà tôi gập may mắn rồi, đầu xuân năm mới lại được đón tiếp các anh bộ đội Cụ Hồ đến xông đất thế này thật quý hóa quá, thôi mời các anh vào nhà uống chén nước, ăn miếng bánh chưng đầu xuân với gia đình tôi rồi hãy sang nhà cụ Chi cũng không muộn”. Sau đó các anh sang thăm chúc tết Thầy U tôi.
- 81 --
Khi vào đơn vị anh Đoàn Mạ cứ khen mãi “Sao làng ông lại có các Cụ ứng xử văn hoá tuyệt vời đến thế”.
Tháng 6 năm 1981 tôi nhận được quyết định của Bộ Quốc phòng do Thứ trưởng thiếu tướng Đặng Vũ Hiệp ký bổ nhiệm tôi về làm Ủy viên thường trực kiêm chánh văn phòng Ủy ban kiểm tra Đảng ủy Tổng cục kỹ thuật, cơ quan đang ở trong Thành Hà Nội. Thế là cuộc đời của tôi sau 16 năm phải xa gia đình long đong vất vả ở nơi đầu sóng ngọn gió, vào Nam ra Bắc thi đến nay mới được về công tác ở cơ quan có điều kiện gần gũi gia đình hậu phương hơn. Nhân được quyết định tôi vô cùng phấn khởi, liên hoan chia tay đồng đội ở đơn vị cơ sở cuối cùng của cuộc đời.
Tuy đây là nhiệm vụ mới mẻ, chưa được học tập bồi dường về chuyên môn nghiệp vụ, nhưng với tinh thần cầu thị, khiêm tốn vừa làm vừa học hỏi đồng chí đồng đội xung quanh nên chỉ sau một thời gian ngắn là thích nghi, góp phần cùng cơ quan hoàn thành nhiệm vụ tham mưu giúp việc cho Đảng ủy Tổng cục trong công tác kiểm tra kỷ luật giữ vững kỷ cương trong Tổng Cục, góp phần đẩy lùi các vụ việc vi phạm, đảm bảo các vụ việc được xử lý giải quyết đúng phương châm: “Công minh – Chính xác – Kịp thời”.
Về sinh hoạt riêng tư thì ăn ở tập thể và làm việc trong cơ quan ở trong Thành liên tục từ thứ hai đến thứ bẩy hàng tuần. Chiều thứ bẩy tôi đi xe đạp về gia đình, sáng sớm thứ hai sang cơ quan làm việc. Sung sướng nhất là được gần bố mẹ, vợ con nhiều hơn qua bao nhiêu năm xa cách. Từ năm 1965 sau 16 cái tết phải xa quê hương, gia đình cho đến cái tết Tân Dậu 1981 này tôi mới lại tiếp tục được đón giao thừa và hưởng một cái tết trọn vẹn bên người thân trong gia đình.
Có lẽ do đặc điểm của công tác kiểm tra kỷ luật Đảng luôn luôn căng thẳng, phải động não suy nghĩ nhiều, có những vụ việc diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng đến ăn không thấy ngon, ngủ không đẫy giấc.Thế là tháng 6 năm 1987 tôi bất ngờ bị đột quỵ vì mắc bệnh suy động mạch vành tim và cao huyết áp phải vào nằm điều trị ở bệnh viện Trung ương quân đội 108 mất đúng một tháng trời . Tuy bệnh tình chưa thật khỏi nhưng tôi thấy sốt ruột vì công việc ở cơ quan nên xin ra Bệnh viện về tiếp tục điều dưỡng ở Bệnh xá của Tổng Cục ở trong thành. Hàng ngày tôi hay trốn Bệnh xá về cơ quan giải quyết công việc, thế là bác sĩ phụ trách bệnh xá nói với tôi: “Đề nghị đại tá Bào hãy viết cho bệnh xá một tờ giấy cam đoan” tôi hỏi “ giấy cam đoan về việc gì ?”, bác sĩ nói “Đồng chí chưa khỏi hẳn bệnh, mà là bệnh nguy hiểm đến tính mạng. Thế mà đồng chí cứ trốn Bệnh xá về cơ quan làm việc, mà công việc của đồng chí thì luôn ảnh hướng đến bệnh tim và huyết áp nếu không may sảy ra tai biến đột tử thì Bệnh xá chúng em lại phải chịu trách nhiệm với cấp Trên, nên đồng chí viết cho bệnh xá tờ cam đoan, với nội dung là: “Tôi đại tá Nguyễn Ngọc Bào không nghe lời khuyên của bác sĩ cứ trốn về làm việc, nếu sảy ra việc gì đến an toàn tính mạng thì tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm”. Thế là tôi buộc phải suy nghĩ nhiều lắm và cuối cùng tự thấy với bệnh tim, huyết áp hiện nay mà mình cứ cố tham công tiếc việc, nhất là công việc toàn là phải động não suy nghĩ nhiều, có thể đúng như Bác sĩ nói không may tai biến chết đột tử thì chỉ có thiệt cho bản thân, cảnh con mất cha, vợ mất chồng là cái chắc, mà mình mới được đoàn tụ gia đình sau 16 năm xa cách. Cuối cùng tôi đã làm đơn đề nghị Thủ trưởng Tổng Cục giải quyết cho tôi được nghỉ dưỡng bệnh, rồi cho nghỉ hưu sớm (vì năm 1987 tôi mới có 53 tuổi).
- 82 -
Được thủ trưởng Tổng cục ký thuật đồng ý như đơn tôi đã đề nghị, thế là đầu tháng 8 năm 1987 tôi bàn giao công việc, rồi về nghỉ dưỡng bệnh ở gia đình, hàng tháng cứ phải ra lĩnh lương ở Tài vụ Tổng Cục. Trước khi nghỉ việc tôi có gặp bác sĩ Bệnh xá trưởng của Tổng Cục tâm sự, tôi nói “ Tôi không sợ chết đâu, nhưng với bệnh tình hiện nay nếu tôi cố gắng phòng chữa bệnh giữ ghìn tốt thì Bác sĩ cho biết tôi có thể sống đến bao nhiêu tuổi ?”, bác sĩ suy nghĩ rồi trả lời tôi “Thì Anh có thể sống được đến trên dưới 70 tuổi”. Khi về gia đình sống gần vợ con hàng ngày sau 28 năm (1960 – 1987) thoải mái về tư tưởng, bớt căng thẳng về đầu óc, lại chịu tập luyện thể dục thể thao nên sức khỏe ngày một tốt hơn. Nghỉ ngơi ở gia đình kéo dài 2 năm (8/1987 – 8/1990) thì tôi đề nghị Tổng Cục chính thức cho tôi nghỉ hưu. Sau đó tôi nhận được Quyết định nghỉ hưu từ tháng 9 / 1990.
Khi tôi rời quân ngũ tuổi quân của tôi cả 2 thời kỳ chóng Pháp và Chống Mỹ là 32 năm, với quân hàm cao đại tá. Chức vụ cao nhất là Chính ủy trung đoàn và Ủy viên thường trực Ủy ban kiểm tra Đảng ủy Tổng Cục.
- 83 -
Thời kỳ thứ hai
SAU NGHỈ HƯU TIẾP TỤC THAM GIA
CÔNG TÁC Ở ĐỊA PHƯƠNG
Từ năm 1991 đến nay năm 2018
Thấm thoắt từ khi tôi nghỉ hưu cho đến nay (2018) đã được 31 năm, thời gian dài hơn hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cộng lại, thế mà cảm thấy năm tháng trôi đi sao mà nhanh thế. Trong thời gian ấy nếu như tôi sống theo kiểu “Mũ ni che tai - Lão lai tài tận” thì chẳng có điều gì đáng nói cả. Thế nhưng đối với tôi thì lại xuất phát từ tinh thần triệt để cách mạng, ý thức của một người đảng viên Cộng Sản chân chính, luôn luôn quán triệt “Học tập làm theo tấm gương và những lời dạy của Bác Hồ” đã thấm đậm sâu sắc xuyên xuốt cả cuộc đời của tôi rồi, đó là : “Cần kiệm liêm chính – Chí công, vô tư”,“Giầu sang không thể quyến rũ – Nghèo khổ không thể chuyển lay – Uy vũ không thể khuất phục - Gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau “, “ Người đảng viên phải luôn luôn đặt lợi ích của Đảng của Cách mạng lên trên hết, trước hết. Biết đem lợi ích riêng, lợi ích cá nhân phục tùng lợi ích chung của Đảng, cùa Cách mạng “, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu – Khó vạn lần dân liệu cũng xong”, “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” và “Quan nhất thời – Dân vạn đại” v.v…. Tôi tự giác tu dưỡng rèn luyện và vận dụng thực hiện trong mấy chục năm qua, đến nay nhìn lại thấy mình vẫn đi đúng hướng theo những lời dạy của Bác. Tự thấy mình sứng đáng là người học trò, là con cháu của Bác Hồ.
Sau khi tôi được chuyển về nhận lương hưu trí hàng tháng ở Xã và chuyển sinh hoạt Đảng về chi bộ quê hương thôn Sáp Mai. Bước đầu được kết nạp vào Hội Cựu chiến binh, hội Trọng Thọ..Quá trình tiếp theo tôi được tín nhiệm đã liên tục tham gia các công tác ở Thôn, ở Xã và các Ban Liên Lạc tự nguyện khác, có những lúc kiêm nhiệm 2, 3 chức danh một lúc, cụ thể như sau :
- Chi hội trưởng Cựu chiến binh thôn, Phó chủ tịch hội CCB Xã.
- Chi hội trưởng Người cao tuổi thôn, phó chủ tịch và chủ tịch hội NCT Xã.
- Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Xã, trưởng ban thanh tra nhân dân Xã.
- Trưởng ban liên lạc các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đầy huyện Đông Anh.
- Trưởng phân ban CSCM bị địch bắt tù đầy Nhà Tiền Hà Nội
- Phó ban liên lạc Nguyên phó bí thư và bí thư Huyện đoàn TN Đông anh các thời kỳ.
- Thường trực ban liên lạc Cán bộ hoạt động cách mạng lâu năm huyện Đông anh.
- Phó ban liên lạc Cựu chiến binh Trung đoàn 32 ô tô VTQS anh hùng.
- Trong Ban liên lạc CCB UBKT Cục chính trị Tổng Cục Công nghiệp Quốc phòng.
- Trong Ban liên lạc cán bộ hưu trí xã Võng La.
- Người sáng lập và là Chủ nhiệm CLB thơ Quê hương NCT thôn Sáp Mai
- Người sáng lập và là thành viên Ban chủ nhiệm thơ Sông Hồng NCT xã Võng La.……
Những dấu ấn công việc tôi làm được trong gần 30 năm qua thì nhiều, nhiều lắm. Nhưng tôi chỉ kể lại một số công việc tiêu biểu như sau :
- 84 -
CHUYỂN ĐỊA ĐIỂM XÂY DỰNG NGHĨA TRANG LIỆT SĨ MỚI
Năm 1957-1958 sau khi tôi phục viên thời kỳ chống Pháp về tham gia công tác là Ủy viên Ủy ban hành chính xã Võng La được Bí thư chi bộ Xã và Chủ tịch UBHC xã giao trách nhiệm Trưởng ban quy tập mồ mả Liệt sỹ về Nghĩa trang mới xây dựng ở đầu xóm Đồng thôn Sáp Mai . Quá trình do công tác quản lý trông nom kém, để trâu bò vào, ra ăn cỏ húc đổ các bia mộ, cứ gần ngày 27/7 hàng năm lãnh đạo Xã mới cho gắn lại bia mộ, mới quét vôi một lần. cứ thế nghĩa trang ngày một xuống cấp lở loét xấu xí, mỗi lần tôi về nhà đi qua Nghĩa trang Liệt Sỹ là cảm thấy đau xót, bức súc. Tôi được biết Đảng Ủy xã Võng La đã vài lần ra Nghị quyết chuyển NTLS, thế nhưng sau đó thì đâu vẫn hoàn đấy.
Nhân dịp lễ kỷ niệm 45 năm ngày Thương binh Liệt sỹ 27/7/1992, Đảng ủy, và UBND Xã Võng La có tổ chức lễ kỷ niệm tại hội trường UBND xã, tôi là thương binh nên được mời tham dự cùng các đồng chí thương bệnh binh và thân nhân các gia đình liệt sỹ trong Xã. Đến phần cuối chương trình đồng chí Bí thư Đảng ủy Xã N.N.K lên phát biểu ý kiến, đến cuối bài phát biểu đồng chí có nói “ Tôi thay mặt Đảng Ủy và UBND Xã xin thông báo đến thân nhân các gia đình Liệt Sỹ biết là chúng tôi đã ra Nghị quyết sắp tới sẽ chuyển Nghĩa trang Liệt Sỹ đến nơi mới”. Sau đó Ban tổ chức hỏi xem có ai phát biểu ý kiến không ?.….Tôi liền giơ tay xin được phát biểu và lên bục nói : “ Tôi có ý kiến với Đảng ủy và UBND Xã: Các đồng chí lừa dối người sống chứ không nên lừa dối người chết. Tôi được biết các đồng chí đã mấy lần ra nghị quyết chuyển NTLS nhưng không thực hiện. Tôi nói thắng nếu nhiệm kỳ Đảng Ủy lần này, nhiệm kỳ Hội đồng nhân đân khóa này mà không chuyển được NTLS đi nơi khác là các đồng chí vô ơn bạc nghĩa với các liệt sỹ”. Tôi dứt lời thì ở dưới vỗ tay tán thưởng rầm rầm, vài người nói “hoan hô ông Bào”. Có lẽ ý kiến của tôi quá thẳng thắn và quyết liệt nên có tác động tích cực đến lãnh đạo của Xã.
Thế là chỉ sau đó chưa đầy một tháng thì đồng chí Bí thư Đảng Ủy và chủ tịch UBND Xã mới đồng chí Vũ thế Công chủ tịch hội CCB và tôi phó chủ tịch hội CCB Xã lên gập, các đồng chí thông báo : Đảng Ủy và UBND Xã đã quyết định tiến hành chuyển NTLS đến địa điểm mới và giao nhiệm vụ này cho Hội CCB Xã tổ chức thực hiên. Chúng tôi vui vẻ phấn khởi nhận nhiệm vụ. Sau đó về họp Ban chấp hành hội CCB Xã bàn bạc kế hoạch tổ chức thực hiện. Ban chấp hành phân công đồng chí Vũ chủ tịch Hội trách nhiệm chung,quan hệ với lãnh đạo Xã, còn tôi trực tiếp trưởng ban tổ chức thực hiện. Về phía lãnh đạo Xã có phân công đồng chí Khang, phó chủ tịch UBND Xã trực tiếp chỉ đạo chung trong việc tổ chức chuyển mộ chí và xây dựng NTLS mới của Xã. Trước khi đào bới chuyển các liệt sỹ từ nghĩa trang cũ sang NTLS mới, tôi có một điều băn khoăn trăn trở là không biết bây giờ nên sắp xếp để mộ Liệt Sỹ như hế nào là hợp lý, là hợp lòng người ? và Nghĩa trang mới xây dựng như thế nào cho đẹp ? Thế là tôi bàn với đồng chí Khang “Ta nên đi tham quan tìm hiểu học tập những nơi đã hoàn thành xây dựng NTLS mới trong huyện Đông Anh”, được biết lúc đó chỉ mới có 2 xã Xuân Canh và xã Thụy Lâm là
mới xây dựng xong NTLS . 2 chúng tôi thống nhất sẽ xuống xã Xuân Canh cho gần, khi xuống xã Xuân Canh chúng tôi đến NTLS nghiên cứu đo đạc, ghi chép xem quy cách xây mộ chí, bia mộ, kỳ đài, khắc bia danh sách các Liệt sỹ, tường rào và cổng của nghĩa trang. Sau đó vào nhà gặp đồng chí Phó chủ tịch UBND xã Xuân Canh là người chỉ đạo
- 86 -
tổ chức thực hiện xây dựng NTLS của Xã, sau trao đổi một số vấn đề, tôi có nêu câu hỏi : ‘Thế các đồng chí đặt mộ liệt sĩ thứ tự nên như thế nào là hợp lý, là hợp lòng người ?”, đồng chí Phó chủ tịch xã Xuân Canh;”Trời ơi ! ông đặt câu hỏi sao mà trúng trọng tâm mà chúng tôi bàn đi tính lại mãi, cuối cùng đã quyết định là để thứ tự liệt sỹ theo ngày tháng năm hy sinh, ai hy sinh trước thì để lên trước. Vì vậy đã tạo được sự đồng thuận nhất trí rất cao trong Xã”. Thế là tôi thấy sáng mắt ra đúng là“Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” và “Học Thày không tày học bạn”, trong lòng thật là phấn chấn, một bế tắc khó nhất đã được giải đáp. Về nhà, tôi xem địa thế NTLS mới đã đề xuất và thống nhất với đồng chí Khang là nên để 2 hàng mộ chí ở hai bên từ trên xuống dưới, để lối đi ở giữa. Từ quy mô đó mà tôi đề nghị Ông Nguyễn Minh Thông đang phụ trách về chính sách của Xã căn cứ vào hồ sơ danh sách lưu giữ các Liệt Sỹ ông sẽ lập một bản danh mới sắp xếp thứ tự theo ngày tháng năm hy sinh của các Liệt sỹ. Sau đó tôi căn cứ vào danh sách đó khi đào bới chuyển tiểu hài cốt các liệt sỹ ở NTLS cũ sang NTLS mới sẽ đặt đúng vị trí thứ tự các liệt sỹ như trong danh sách liệt sỹ mới lập .
Tôi đề xuất và được tập thể BCH hội CCB xã nhất trí về phân công hội viên tham gia chuyển mộ liệt sỹ từ Nghĩa trang cũ sang nghĩa trang mới như sau : Căn cứ số lượng hội viên CCB của 3 thôn toàn Xã và căn cứ số lượng mộ liệt sỹ đang có trong NTLS cũ, tính bình quân thì 7 hội viên CCB chịu trách nhiệm đào bới đưa tiểu hài cốt ở NTLS cũ lên, và đào hố ở NTLS mới để hạ tiểu hài cốt xuống. Ban chấp hành CCB xã thống nhất giao chỉ tiêu cụ thể cho 3 chi hội chuẩn bị tổ chức thực hiện.
Thế là một ngày cuối tháng 8/1993 hội CCB Xã Võng La quyết định tổ chức toàn thể hội viên có mặt ở hai địa điểm : Một bộ phận lớn tập trung ở nghĩa trang liệt sỹ cũ đào từng mộ liệt sỹ để lấy tiểu hài cốt đưa lên chuẩn bị chuyển sang NTLS mới. Một bộ phận ít hơn tập trung ở NTLS mới dể đào sẵn các mộ liệt sỹ mới chuẩn bị đón tiểu hài cốt ở NTLS cũ chuyển sang. Công việc phải tiến hành 2 ngày mới hoàn thành xong trong thời tiết còn nắng nóng, mồ hôi các CCB cả 2 nơi đều ướt áo, nhỏ giọt trên mặt mọi người, nhưng không khí thì sôi nổi hăng hái, không một lời kêu ca phàn nàn, vì mọi người đều nhân thức được vinh dự đóng góp công lao động xã hội chủ nghĩa để làm nghĩa cử tình đồng đội cao cả. Trong số hội viên CCB tham gia lao động thật cảm động có mặt nhũng hội viên trên 80 tuối, nhập ngũ anh bộ đội Cụ Hồ từ thời 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược . Đặc biệt có cả những đồng chí thương bệnh binh, trong đó như đồng chí Nguyễn công Đính cụt mất một chân.
Sau khi hoàn thành cất bốc chuyển mộ liệt sỹ xong. Tôi tiếp tục được các đồng chí Lãnh đạo Xã tín nhiệm yêu cầu tham gia giám sát, kiểm tra nắm số liệu tiến độ thi công Nghĩa trang Liệt sỹ mới hàng ngày rồi phản ảnh báo cáo với đồng chí Khang phó chủ tịch UBHC xã phụ trách cho đến khi khánh thành xong NTLS mới vào cuối năm 1993 .
Đền ơn đáp nghĩa
Mấy lời nhắn nhủ hôm nay
Hai bẩy, tháng bẩy là ngày Thương binh
Anh hùng liệt sỹ quang vinh
Hăng say chiến đấu quên mình vì dân
Một thời trai trẻ thanh xuân
- 86 -
Hiến dâng Tổ Quốc chẳng ngần ngại chi
Lời thề trước lúc ra đi
Hết quân xâm lược mới về quê hương
Gian nan, ác liệt coi thường
Mưa bom bão đạn tử thương chẳng lùi
Việt Nam độc lập sáng ngời
Ấm no hạnh phúc cho đời mai sau
Toàn dân khắc cốt ghi sâu
“Đền ơn đáp nghĩa” trước sau vẹn tình ./
GÓP PHẦN KHÔI PHỤC CHÙA PHONG ĐỨC SÁP MAI
Chùa Phong Đức ở thôn Sáp Mai quê tôi đã được xây dựng hàng nghìn năm nay, Thế nhưng từ khi Sư Cụ chủ trì cuối cùng của Chùa viên tịch tháng giêng năm Giáp Tý 1984 cho đến năm 2003 đã trải qua 19 năm Chùa không có Sư nào nào về chủ trì , thành ra Chùa ngày một xuống cấp, tan hoang, phần lớn đất của Chùa Chính quyền Xã cho đặt làm chợ…Các Vãi phải tự phân công nhau ra trông nom đèn hương những ngày lễ vấn, trong đó có cụ Hoàng Thị Nam (Quê ở Hà Nam lên sống với con gái lấy chồng ở làng Sáp Mai) là Vãi có uy tín nhất, hàng ngày Cụ ăn cơm nhà rồi ra trông nom Chủa, Sớm tối Cụ thắp đèn nhang, thỉnh chuông gõ mõ tụng kinh cho ngôi Chùa bớt lạnh lẽo, cô đơn. nhưng cuối cùng vì già yếu đến năm 1995 thì Cụ xin nghỉ trông nom Chùa.
Khi tôi về nghỉ hưu ở quê hương thì đầu năm 1994 được các Cụ hội viên hội Trọng Thọ của thôn bầu làm Hội trưởng. Tôi thấy Hội Trọng Thọ có trách nhiệm tham gia giữ gìn tu bổ đối với Chùa Phong Đức của thôn, nên BCH Hội phân công các cụ bà là hội viên còn khỏe, chưa nhiều tuổi luân phiên ra trông nam chùa. Riêng tôi thấy Chùa tan hoang qúa, thậm chí không có cả nơi đi về sinh, tôi đã đề nghị Lãnh đạo của thôn tài trợ kinh phí, bước đầu tôi tổ chức mua vật liệu thuê thợ bước đầu xây công trình nhà về sinh, và tường bao quanh để chống lấn chiếm. Tôi thấy Chùa chỉ còn vài ngôi Tượng Phật quá cũ kỹ, chơ vơ nên bản thân tôi đi đầu công đức một pho Tượng Phật, rồi đi vân động ngay người nhà của tôi bước đầu đã được một bà chị con Ông Bác là Nguyễn Thị Bé việt kiều ở Pháp về công đức 1 pho Tượng và con gái út của tôi là Nguyễn Thị Nga công đức 1 pho tượng,. Từ kết quả ban đầu với tác phong “Nói đi đôi với làm” tôi đã tiếp tục đi vận động những nhà hảo tâm trong Thôn, cuối cùng được nhân dân công đức và Thôn trích thêm hỗ trợ tài chính, rồi tôi đi xe máy đèo cụ Nguyễn Mộng Lân chi hội phó NCT cuả Thôn, hai người trực tiếp đi sang tận thôn Sơn Đồng là nơi nổi tiếng về khắc Tượng Phật trong vùng Hà Tây để hợp đồng. Kết quả khắc được tổng số 14 ngôi Tượng Phật. Thời gian tôi phải đi lại bằng xe máy vài lần kéo dài gần 2 năm trời mới xong.
Cuối năm Giáp Tuất 1994 có Ông Nguyễn Quang Minh, trưởng một họ Nguyễn trong Thôn Sáp Mai ngưỡng mộ Tâm linh đã mua về công đức chùa Phong Đức một lá cờ Phật rất to. Thế là tôi lại tự mình đi xuống chợ Cổ Điển để mua một cây tre vầu to, thẳng, dài hàng chục mét rồi buộc lên xe máy kéo lê theo đê Sông Hồng về Chùa, rồi tìm
- 87 -
mua một bu ly và giây thừng ni lông dài để buộc vào cột kéo lá cờ Phật lên trên ngọn cột cờ, Sau đó một mình tôi đem cuốc xẻng ra Chùa đào chôn cột cờ vững chắc ở trước cửa Chùa trông lên đê , rồi buộc cờ kéo lên vào chiều 29 tháng chạp trước khi nhân dân đón giao thừa năm mới Ất Hợi 1995. Đầu Xuân năm mới có lá cờ Phật to lớn tung bay trước gió hầu như vẫy gọi các con hương đệ tự trong Thôn và các Thôn xung quanh đến lễ chùa Phong Đức Sáp Mai đông đảo hơn các năm trước.
Sau đó tôi phát hiện Chùa đang có nhiều tổ mối ăn lên cả nóc chùa và Tượng Phật, thế là tôi lại đi xe máy ra phố Láng Hạ bỏ tiền cá nhân ra mua 5-6 mồi nhử đánh mối về mang thang ra trèo lên buộc trên nóc có tổ mối, và một số những gầm ban thờ bên trên có Tượng Phật để buộc các mồi nhử mối, sau đó vài ngày ra mở rắc thuốc diệt mối vào trong hộp nhử mối, tác dụng vừa trực tiếp diệt mối, vừa để những con còn sống chạy về tổ mang theo thuốc diệt mối gây nên một bệnh dịch tiêu diệt hết cả mối chúa và mối thợ đang nằm sâu trong lòng nền của Chùa.
Tiếp theo đợt thứ hai do cụ Nguyễn Mộng Lân chi hội trưởng NCT của thôn Sáp Mai (tôi lên Phó chủ tịch hội NCT Xã) đứng ra tổ chức sửa chữa, tu bổ và trông nom Chùa rất nhiệt tình tâm huyết.
Trong mấy năm liền tôi cùng một số các Vãi đã đến liên hệ với một số Chùa lớn ở Hà Nội như Chùa Thụy Khê, Chùa Yên Phụ, Chùa Phú Gia, Chùa Vân Thượng để xin Sư về chủ trì quản lý trông nom chùa Phong Đức. Thế nhưng không được, vì khi các nhà Sư
Vè thăm thấy chùa cũ nát quá, thiếu phương tiện ăn ở sinh hoạt quá nên từ chối không về.
Mãi đến năm 2003 Lãnh đạo thôn Sáp Mai mới đi liên hệ với Hội Phật Giáo huyện Đông Anh vả hội Phật Giáo thành phố Hà Nội kết quả xin được Sư Thầy Thích Nguyên Bản về chủ trì chùa Phong Đức Sáp Mai (Lúc đầu gọi là Thầy Thích Thanh Tâm), Thầy Tâm còn trẻ trung, khỏe mạnh rất tâm huyết , hăng hái, nhiệt tình quyết tâm nhận về chủ trì Chùa Phong Đức Sáp Mai. Thầy Tâm (Bản) đã có công rất lớn trực tiếp đi vận động các nơi công đức, cộng với sự đóng góp của nhân dân trong Thôn Thầy đã tiến hành khởi công xây một loạt các công trình như nhà thờ Tổ, Trai đường, Nhà thờ Mẫu, nhà thờ Vong, cuối cùng là xây ngôi chùa mới 2 tầng ngay trên nền của chùa cũ và một Tháp bút to cao cùng với một gác chuông cao 4 tầng, đúc một chuông đồng cao to hàng tấn đồng. Các công trình xây dựng liên hoàn trên dã tạo nên một ngôi Chùa uy nghi, khang trang đẹp đẽ sáng sủa thu hút vãy gọi ngày một nhiều con hương đệ tử các vãi tứ phương về họp mặt ở Chùa Phong Đức Sáp Mai trong các ngày Lễ vấn của Chùa. Khi động thổ khởi công xây Chùa mới Thầy Tâm và lãnh đạo Thôn đã nhã ý mời tôi cùng tham gia bổ những nhát cuốc đầu tiên, súc những tảng đất đầu tiên của ngôi Chùa mới.
Sau khi khánh thành Chủa Phong Đức mới, tôi đã làm bài thơ dưới đây :
Phong Đức Tự
\Phong Đức chùa này ở Sáp Mai
Linh thiêng cõi Phật khói nhang bay
Sáng sớm chuông Chùa ngân vàn mãi
Tối về Mõ vọng tiếng kinh Thầy
- 88 -
Chùa cũ trùng tu thay đổi mới
Trai đường, nhà Tổ, Tháp vươn mây
Nhà Mẫu, nhà Vong thờ Liệt Sỹ
Cây cảnh, vườn hoa đẹp đẽ thay
Nay xây Chùa mới thay Chùa cũ
Vững bền đạo Phật ở nơi này
Công lao ghi nhận do Thầy Bản
Cùng dân đóng góp quyết tâm xây ./.
(Kính tặng Đại đức Thích Nguyên Bản, chù trì chùa Phong Đức thôn Sáp Mai)
NGƯỜI CAO TUỔI SỐNG VUI, SỐNG KHỎE, SỐNG CÓ ÍCH
Tôi liên tục 14 năm tham gia công tác Người cao tuổi ( năm 1993 đến năm 2007) bắt đầu được bầu làm hội trưởng hội trọng thọ của thôn Sáp Mai năm 1993, tiếp theo khi thành lập Hội Người Cao Tuổi Việt Nam, chuyển hội trọng thọ sang chi hội NCT thì tôi tiếp tục được bầu làm chi hội trưởng đầu tiên. Đến đại hội thành lập Hội Người cao tuổi xã Võng La tháng 7 năm 1997 tôi được bầu vào Ban chấp hành, được BCH bầu làm Phó chủ tịch Hội NCT Xã khóa đầu tiên 1997 – 1999 (cùng với cụ Hà Văn Khiết chủ tịch Hội) tôi vẫn kiêm chi hội trưởng NCT thôn Sáp Mai. Tiếp Đại hội lần thứ II 1999 – 2002 tôi tiếp tục được bầu là phó chủ tịch Hội NCT Xã. Tiếp đến đại hội lần thứ III 2002 – 2007 tôi được bầu làm chủ tịch hội NCT xã Võng La. Trong quá trình 14 năm phụ trách công tác NCT tôi đã để lại những dấu ấn không phai mờ, đó là :
Là người khởi xướng và chủ trì thành lập 2 câu lạc bộ thơ
của Chi hội NCT thôn Sáp Mai và hội NCT xã Võng La
- Năm 1993 tuy Hội NCT Việt Nam chưa ra đời, lúc đó tôi đang là Hội trưởng hội trọng thọ thôn Sáp Mai đã khởi xướng và trực tiếp đứng ra thành lập “Câu lạc bộ Người cao tuổi thôn Sáp Mai”, hoạt động của CLB gồm 3 nội dung: 1-Thời sự chính sách +
2- Văn nghệ Thơ ca + 3- Thể dục thể thao. Ban chủ nhiệm ban đầu gồm: Nguyễn Ngọc Bào chủ nhiệm kiêm tổ trưởng tổ thời sự, chính sách. + Cụ Nguyễn quốc Sử phó chủ nhiệm CLB kiêm tổ trưởng tổ thơ ca + Cụ Nguyễn Mộng Lân ủy viên kiêm tổ trưởng tổ thể dục thể thao + Cụ Hà Văn Dịu và cụ Nguyễn Xuân Trường ủy viên. Cụ Sử đã chủ trì biên soạn viết tay xuất bản tập thơ “Quê Hương” số 1 đến tập thơ Quê Hương số 10 thì cụ Sử già yếu và bị bệnh nặng từ trần. Sau đó cụ Nguyễn Mông Lân lên phó chủ nhiệm CLB kế tục làm tổ trương tổ thơ ca. Cụ Lân và tôi tiếp tục biên soạn và in ấn phát hành đến tập thơ Quê Hương số 13 thì tôi rút lui (vì lúc này tôi đảm đương chủ tịch Hội NCT xã). Sau đó trở thành “Câu lạc bộ thơ Quê Hương” do các thế hệ NCT sau này thay thế, Ban chủ nhiệm đã duy trì tồn tại và phát triển cho đến ngày nay (2018) CLB thơ Quê Hương đã trải qua 25 năm tồn tại và phát triển, cuối năm 2017 đã biên soạn in ấn phát hành đến tập thơ Quê Hương số 23. Hiện nay tôi vẫn tham gia là hội viên tích cực và nhiệt tình của CLB thơ Quê Hương NCT thôn Sáp Mai.
- 89 -
- Cuối năm 2002 tôi đương nhiệm chủ tịch Hội NCT xã Võng La cũng đã khởi xướng đề xuất và được tập thể BCH hội NCT Xã bàn bạc nhất trỉ tổ chức thành lập “Câu lạc bộ thơ Sông Hồng NCT xã Võng La”. Sau một thời gian chuẩn bị nhân sự ngày 25/12/2002 CLB thơ Sông Hồng chính thức được thành lập và ra mắt. Ban chủ nhiệm CLB do ông Phan Hữu Đắc làm chủ nhiệm, ông Nguyễn Mộng Lân phó chủ nhiệm kiêm thư ký, và 3 ông ủy viên đại diện ở 3 thôn là: Chử Đức Trọng, Nguyễn xuân Trường và Nguyễn văn Thành. Câu lạc bộ ra mắt được 2 tập thơ thì ông Đắc bị bệnh hiểm nghèo từ trần, tiếp theo ông Phan Quang Nhụ chủ nhiệm CLB, rồi tiếp đến ông Nguyễn Mộng Lân chủ tịch hội NCT xã kiêm chủ nhiệm CLB, tôi Nguyễn Ngọc Bào được cử là ủy viên Ban chủ nhiệm. Câu lạc bộ thơ Sông Hồng NCT xã Võng La đã duy trì hoạt động liên tục đến nay được 15 năm, đã biên soạn in ấn phát hành đến tập thơ Sông Hồng số 8 tháng 10/2017 chào mừng 75 năm ngày thành lập Đảng bộ Đảng Cộng Sản VN xã Võng La. Trong đó tôi được phân công trưởng ban biên tập tập thơ số 7 và sô 8. Một vinh dự hiếm có là CLB thơ Sông Hồng đã được Đảng Ủy xã Võng La trao tặng giấy khen trong buổi tổ chức giới thiệu tập thơ Sông Hồng 8 vào sáng ngày 31/10/2017.
- Ngoài dấu ấn trên ra, tôi cùng BCH hội NCT xã Võng La đã xây dựng và duy trì hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao thường xuyên sôi nổi, sâu rộng trong cả 3 chi hội. Tham gia đi đồng diễn, thi đấu các môn trên Huyện tổ chức và 2 lần tham gia đồng diễn môn Thái cực trường sinh ở quảng trường Ba Đình và trong nhà thi đấu Quần Ngựa ở Hà Nội. Là Hội NCT cùng một số Xã mạnh hàng đầu của Huyện Đông Anh, thể hiện trong 5 năm tôi làm chủ tịch Hội NCT xã (2002 – 2007) tập thể Hội hàng năm đều được Huyên tặng giấy khen, một lần được BCH Trung ương Hội NCT VN tặng bằng khen. Riêng cá nhân tôi được BCH trung ương Hội NCT VN tặng 2 bằng khen, được UBND thành phố Hà Nội và Ủy Ban MTTQ thành phố Hà Nội tặng bằng khen và được tặng kỷ niệm chương NCT đầu tiên trong Huyện Đông Anh.
TIẾP TỤC CỐNG HIẾN CHO CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
Măc dù theo auy định của Ban Tổ chức Trung ương Đảng thì những đảng viên sau khi hòan thành nhiệm vụ được nghỉ hưu trí, hoặc bị ốm đau bệnh tật kéo dài có thể làm
đơn đề nghị Chi bộ và Đảng ủy cơ sở xem xét cho được nghỉ miễn sinh hoạt Đảng. Tôi tự thấy mình vẫn còn minh mẫn, sáng suốt, đủ sức khỏe để tiếp tục được tham gia đóng góp vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền địa phương nên cho đến lúc này tôi đã xấp xỉ 85 tuổi đời, 60 năm tuổi Đảng nhưng vẫn đang tham gia sinh hoạt Đảng. Cuối hàng năm vẫn được đảng viên Chi bộ bỏ phiếu tín nhiệm xếp vào loại ‘Hoàn thành tốt nhiệm vụ”. Năm 2005 tôi được chi bộ thôn, Đảng ủy Xã nhận xét xếp tôi vào loại đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu biểu được đi dự họp Tổng kết công tác Đảng toàn Huyện và được tặng Giấy khen của Huyện Ủy Đông Anh. Những dấu ấn tôi tiếp tục cống hiến đó là :
Việc thứ nhất : Cuối năm 2012 Đảng bộ xã Võng La tổ chức lễ kỷ niệm lớn 70 năm ngày thành lập Chi bộ Võng La, tiền thân của Đảng bộ xã Võng La ngày nay (03/11/1942 – 03/11/2012). Sau khi tôi khởi xướng đề xuất với Đảng Ủy Xã Võng La vầ được Đảng Ủy xã chấp nhận tổ chức một cuộc thi tìm hiểu về “Lịch sử và truyền thống
- 90 -
cách mạng 70 năm qua của Đảng bộ và nhân dân xã Võng La” từ tháng 5 đến tháng 10/2012 thì kết thúc, chấm bài thi xếp loại khen thưởng và công bố kết quả, tiến hành trao phần thưởng trong buổi lễ kỷ niệm vào sáng ngày 03/11/2012.. Tôi chỉ là một đảng viên thường nhưng được Đảng Ủy Xã mời tham gia là thành viên trong Ban tổ chức cuộc thi và thành viên Ban giám khảo cuộc thi. Tôi được giao giúp Lãnh đạo Xã viết bản thảo nội dung 7 câu hỏi và bản đáp án của cuộc thi. Kết quả đã có 980 người tham gia cuộc thi đạt tỷ lệ trên 10% dân số trong Xã. Tôi được Ban Giám khảo ủy nhiệm chấm bài, dự kiến các phần thưởng, sau đó thông qua Ban giám khảo, Ban Tổ chức và Ban chỉ đạo cuộc thi xét duyệt, cuối cùng Xã tổng kết trao thưởng trong buổi mít tinh kỷ niệm sáng ngày 03/11/2012.
Mừng Vui
(Chào mừng 70 năm ngày thành lập Đảng bộ xã Võng La)
Đảng đã về đây năm bốn hai (1942)
Tại nhà cụ Bạch ở Làng Chài
Tổ chức ra đời Chi bộ Đảng
Lãnh đạo dân mình hướng tương lai
Đánh đuổi xâm lăng Tây-Nhật-Mỹ
Hòa bình thống nhất ánh ban mai
Xây dựng quê hương bao đổi mới
Dân giàu, Xã mạnh chẳng kém ai
Đảng bộ, chính quyền luôn vững mạnh
Bẩy mươi năm một chặng đường dài
Cờ đỏ búa liềm tươi rực rỡ
Lòng dân tin Đảng chẳng mờ phai ./.
Hạnh phúc đời tôi !
Hạnh phúc đời tôi được sinh ra
Quê hương đất mẹ xã Võng La
Danh hệu “Anh Hùng” thời chống Pháp
Hòa bình xây dựng nở như hoa
Kinh tế đi lên thời đổi mới
Thương trường, dịch vụ được bung ra
Làng xóm phong quang xanh sạch đẹp
Thể thao, văn nghệ hát, thơ ca
An ninh chính trị luôn ổn định
Bệnh xá, Nhà trường chuẩn Quốc gia
Toàn dân đoàn kết chung một khối
Thật đáng tự hào xã Võng La ./
- 91 -
Việc thứ hai : Tiếp theo sau 5 năm cũng lại nhân dịp kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng bộ xã Võng La (03/11/1942 – 03/11/2017). Giữa năm 2017 Đảng ủy xã Võng La đã quyết định tiếp tục tổ chức cuộc thi lần thứ II tìm hiểu “Lịch sử truyền thống cách mạng 75 năm của Đảng bộ và nhân dân xã Võng La” . Tôi lại liếp tục được Đảng ủy Xã chỉ định tham gia là thành viên Ban Tổ chức cuộc thi, lần này được đưa lên Phó ban giám khảo cuộc thi. Tôi lại được Thường vụ Đảng Ủy Xã giao trách nhiệm viết dự thảo 6 câu hỏi và đáp án của cuộc thi (Lần này quả thực rất khó vì làm sao đặt ra câu hỏi và đáp án có khác với lần thi lần thứ Nhất). Kết quả cuối tháng 10/2017 đã có 1.050 người tham gia cuộc thi, đạt tỷ lệ 12% dân số, có tăng hơn lần trước. Tôi lại được chấm bài, dự kiến các tập thể và cá nhân trúng các giải trưởng theo quy định của Ban chỉ đạo cuộc thi. Rồi trình bày thông qua tập thể cả Ban tổ chức và Ban giám khảo xét quyết định khen thưởng lần cuối cùng.. Sau đó Đảng Ủy Xã tổng kết và trao thưởng vào lễ niệm ngày 03/11/2017.
Việc thứ ba : Năm 2017 có 2 sự kiện lớn: Kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh Liệt sỹ và kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản xã Võng La. Ngay từ đầu năm 2017 Ban chủ nhiêm CLB thơ Sông Hồng NCT xã Võng La do cụ Nguyễn Mộng Lân làm chủ nhiệm đã bàn bạc và quyết định sẽ biên soạn in ấn xuất bản tập thơ Sông Hồng số 8 vào cuối năm 2017, với trọng tâm của tập thơ là tập trung vào chủ đề 2 ngày lễ lớn trên. Ban chủ nhiệm CLB thơ Sông Hồng lại phân công tôi tiếp tục làm Trưởng ban biên tập (sau Trưởng ban bên tập tập thơ Sông Hồng số 7 xuất bản năm 2015). Kết quả sau khi hoàn thiện tập thơ với tổng số 167 bài, thì một khó khăn
cản trở lớn nhất là chưa có nguồn tài chính để in ấn xuất bản tập thơ, lúc này tôi nhớ đến lời dậy của Bác Hồ “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, thế là tôi cùng cụ Nguyễn Mộng Lân chủ nhiệm CLB trực tiếp lên đề nghị và được UBND Xã đồng ý sẽ ký tên và đóng dấu đỏ của UBND xã vào vài chục “Bức Thư ngỏ” gửi đến các Doanh nhân, doanh nghiệp và những Mạnh thường quân trong Xã Võng La. Sau đó cho phép Ban chủ nhiệm CLB thơ chúng tôi chia nhau thành vài Tổ đến trực tiếp các đầu mối UBND Xã đã gửi thư để tiếp nhận sự hảo tâm, tấm lòng vàng ủng hộ tài chính cho CLB Thơ Sông Hồng. Thật quá bất ngờ kết quả tổng số tiền được trên 51 triệu đồng. Thế là Ban chủ nhiệm CLB thơ Sông Hồng đã quyết định thay đổi từ chỗ lúc đầu dự kiến in có 200 quyền, bìa và giấy bình thường, chuyển sang in 500 quyển. bìa cứng dầy, giấy tốt nhất có in bóng mờ hình trống đồng. Số lượng tăng lên 300 quyển là để tặng mỗi Đảng viên trong Đảng bộ xã Võng La một quyển, lưu niệm trong dịp kỷ niệm 75 năm Đảng bộ xã Võng La ra đời (03/11/1942 – 03/11/2017) .
- 92 –
THAM GIA TUYÊN TRUYỀN GIÁO DỤC LỊCH SỬ
TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CHO THẾ HỆ TRẺ
Trên 20 năm qua, với tư cách là một Cựu chiến binh VN, tôi đã được các Thầy Cô giáo Hiệu trưởng qua các thời kỳ của Trường Phổ thông cơ sở xã Võng La ưu ái, quý mến đã nhiều lần đến mời tôi ra nói chuyện với các cháu học sinh của Trường nhân dịp kỷ niệm những ngày Lễ lớn. Tôi đều vui vẻ nhận lời vì thấy đây là một vinh dự và thời cơ được thực hiện nhiệm vụ của một hội viên CCB Việt Nam. Thế nhưng có 2 cái khó đối với tôi: Thứ nhất đây là khoa sư phạm mới mẻ và khó vì đối tượng là các cháu học sinh mới từ 12 đến 15 tuổỉ trong trắng chưa hiểu gì về lịch sự cách mạng, thời gian lại khống chế chỉ được gói gọn không quá một giờ đồng hồ (đáng lẽ ít nhất cũng phải là một buổi). Thứ hai là nhiều nội dung Nhà trường đề nghị thì tôi lúc đó chưa sinh ra, hoặc còn nhỏ tuổi, hoặc không được trực tiếp tham gia v.v.. nên mỗi lần chuẩn bị nói chuyện với các cháu học sinh tôi lại phải mất rất nhiều thời gian để đi tìm hiểu, sưu tầm các tài liệu liên quan, rồi tổng hợp biên soạn rút gọn lại làm sao chỉ trong một tiếng đồng hồ, tim cách truyền đạt làm sao dí dỏm, hấp dẫn thu hút được các cháu ngồi trật tự lắng nghe v.v. quả là một nghệ thuật đầy khó khăn, vất vả, nhất là đối với tôi khi mà tuổi tác ngày càng cao, trí tuệ hiểu biết thì có hạn.
Một nghĩa cử tốt đẹp của tôi dành cho Nhà Trường THCS xã Võng La, đó là Kệ sách của tôi ở gia đình trong mấy chục năm qua ngày một được bổ xung tăng dần lên nhiều loại, trong đó quý nhất là tôi đã sưu tầm được hơn 10 quyển kể chuyện về Bác Hồ với thiếu nhi và các tầng lớp nhân dân.Tôi suy nghĩ mình già rồi ít sử dụng, nếu mai đây mình đi đài hóa thân hoàn Vũ Văn Điển phải bỏ lại chắc gì con cháu nó đã sử dụng đến. Thế là trước khi bước vào khai mạc năm học 2015-2016 tôi đã ra Nhà Trường gặp và trao đổi với Thầy hiệu trưởng để đạt nguyện vọng được ủng hộ vào Tủ sách của Nhà Trường tổng số là 130 đầu sách các loại, với điều kiện lễ bàn giao và tiếp nhận được kết hợp tổ chức trong buổi lễ Khai trường đầu năm học mới. Sự kiện diễn ra đúng như tâm tư nguyện vọng tôi đề xuất, Một bất ngờ là Nhà Trường còn trao tặng giấy khen của Nhà trường cho cá nhân tôi nữa.
Một kỷ niệm đẹp, có lẽ là lần cuối cùng gắn bó giữa tôi với nhà trường PTCS xã Võng La, đó là theo sự phân công của Ban Văn Hóa Xã thì Trường PTCS phối hợp với thôn Sáp Mai chuẩn bị và tiến hành tổ chức một buổi tối liên hoan văn nghệ với nội dung: Chào mừng lễ kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng bộ xã Võng La vào tối 02/11/2017.. Thầy hiệu trưởng Nguyễn Hữu Sướng và thầy Vũ Thế Lượng phụ trách văn nghệ TDTT của Trường vào tận gia đình để gặp tôi thiết tha đề nghị tôi tham gia cùng một số cháu học sinh của Trường dựng lên một kịch bản có tính chất Sử thi: Tôi đóng vai một Cựu chiến binh lão thành được sinh ra và lớn lên ở xã Võng La, đã được chứng kiến và trực tiếp tham gia các phong trào cách mạng, hiểu biết tường tận bối cảnh lịch sử 75 năm qua từ khi Chi bộ Võng La ra đời cho đến nay. Rồi kể lại theo từng chủ đề mà các cháu học sinh nêu ra thành những câu hỏi nhằm tuyên truyền về lịch sử, truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Võng La trải qua 75 năm qua. Thời gian mở đầu và kết thúc gói gọn không quá 30 phút.
- 93 -
Trong cả Xã Võng La hiện nay cũng chỉ có vài Cụ có khả năng đảm nhiệm được vai diễn này. Thế nhưng mấy Cụ đều trên dưới 90 tuổi, già yếu không tự đi lại được, đầu óc không còn minh mẫn lúc nhớ lúc quên, hoặc đang khiếm thị hay khiếm thính… Tôi suy nghĩ mình năm nay cũng đã 84 tuổi rồi, nhưng nhờ có ưu việt hơn là đầu óc trí tuệ còn đang minh mẫn, sức khỏe còn đang đi xe máy tốc độ 50-60 km /giờ, vẫn có nhiệt tình tâm huyết với công việc của xã hội, lại có duyên nợ mấy chục năm gắn bó giúp đỡ Nhà Trường nên tôi không nỡ từ chối, đành phải nhận lời. Thế là hàng ngày tôi phải ra Nhà Trường để cùng luyện tập với các cháu, do tự biên tự diễn nên mất mấy ngày đầu tôi và Thầy giáo Lượng phải bàn bạc thay đi, đổi lại những nội dung đối thoại giữa tôi và các cháu làm sao cho đơn giản và dễ hiểu nhất. Qua gần nửa tháng Ông – Cháu cùng luyện tập với nhau ngày một thuần thục và tiến bộ. Đến đêm liên hoan văn nghệ ở sân khấu Nhà văn hóa thôn Sáp Mai tối 02/11/2017 kết quả tiết mục Sử Thi mà tôi tham gia với Nhà Trường đã thành công tốt đẹp. Thật là một kỷ lục hiếm có : Sự kiện cách mạng diễn ra trong 75 năm, nay chắt lọc thu gọn lại thể hiện chỉ có 30 phút đồng hồ.
TIẾP TỤC GÓP PHẦN XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG ĐỔI MỚI
Đến nay tôi dã nghỉ hưu hơn 30 năm về sống trong lòng dân ở quê hương bản quán, ngay từ đầu tôi đã nhận thức được câu ca “Quan nhất thời – Dân vạn đại”, tự xác định mình mới về chỉ là “Phó thường dân”, chưa thể là người Thường dân bình thường ở địa phương. Nên tác phong thái độ phải thể hiện khiêm tốn, giản dị, chan hòa cởi mở với mọi tầng lớp nhân dân. Nếu kiêu ngạo công thần, sống xa dân thì chỉ tổ cho người ta bàn tán chê cười. Trong 30 năm qua tôi đã tham gia nhiều công tác, đóng góp cống hiến tâm trí cho phong trào chung. Nhưng với quê hương làng Sáp Mai thì có mấy việc đậm nét đáng nhớ đó là :
Việc thứ nhất : Trong một lần sinh hoạt chi bộ đầu năm 2003, Chi bộ ra nghị quyết lãnh đạo triển khai đổ bê tông đường làng ngõ xóm.Đến mục thảo luận tôi có tham gia ý kiến nhắc nhở các đồng chí lãnh đạo thôn khi cử người tham gia GIÁM SÁT làm đường bê tông nên chọn những người có nhiệt tình và trách nhiệm, không được để thông đồng với bên B để họ làm ăn gian dối bớt xén nguyên vật liệu sẽ ảnh hưởng đến chất lượng công trình sau này. Thế là khi kết luận đồng chí bí thư chi bộ nói thẳng luôn “Chi bộ sẽ cử đồng chí Bào làm trưởng ban giám sát đổ đường bê tông”(Không hiểu có ý trù dập hay không ?), mặc dầu lúc đó tôi đương nhiệm Chủ tịch hội NCT Xã, Phó chủ tịch MTTQ
Xã nhưng với tôi bản chất anh bộ đội Cụ Hồ luôn có tác phong: “Nói đi đôi với làm” nên tôi vui vẻ nhận nhiệm vụ ngay và hứa trước Chi bộ là sẽ tổ chức thực hiện nghiêm túc việc giám sát làm đường bê tông sắp tới. Sau đó tôi đề nghị với Trưởng thôn yêu cầu 4 tổ dân cư mỗi tổ cử ra 2 người và tôi đề nghị Thôn cử thêm ông Hà Quang Kịch có trình độ kỹ thuật làm phó ban giám sát. Thế là ban giám sát tổng số có 10 người do tôi trưởng ban điều hành chung. Quá trình thôn triển khai làm đường bê tông bên B là người trong thôn, cùng tổ dân cư lại có họ hàng xa với tôi. Mặc dù vậy nhưng khi triển khai đổ đường bê tông tôi trực tiếp chỉ đạo phân công trong Ban giám sát chia từng tổ giám sát từng ngày. Sau khi thống nhất với bên B về Mác bê tông, tỷ lệ xi măng với đá, với cát vàng và nước
- 94 -
pha trộn Những ngày bên B đổ bê tông đường thì đều có phân công một người theo dõi đếm đúng số lượng thúng đổ đá, một người theo dõi đúng số thúng đổ cát vàng pha trộn
với 1 bao xi măng 50 kg, kịp thời ngăn chặn không để cho thợ cố ý đổ thừa đá hoặc thừa cát vàng. Mặc cho những ngày nắng nóng, hoặc mưa rào và thời gian đổ bê tông thường kéo dài đến 12 giờ trưa thậm chí đến 1 giờ chiều nhưng vẫn đảm bảo có người giám sát theo dõi sát sao, mặc cho mồ hôi ướt áo và mưa ướt rét run người. Duy trì cứ 16 giờ chiều thứ bầy hàng tuần là họp toàn Ban giám sát để sơ kết đánh giá kết quả giám sát trong tuần, rút kinh nghiệm phát huy ưu điểm khắc phục khuyết điểm, biểu dương và nhắc nhở trong nội bộ Ban giám sát. Cứ thế duy trì Ban giám sát hoạt động thường xuyên liên tục, bền bỉ dẻo dai không để sẩy ra tình trạng “đầu voi – đuôi chuột” , trong suốt thời gian 3 năm (từ tháng 11/2003 đến tháng 10/2006) thi công đổ đường bê tông đợt đầu trên các trục đường chính ở xóm đồng và xóm bãi Sáp Mai.
Việc thứ hai : Năm 2005 lúc đó tôi đương nhiệm Chủ tịch hội NCT xã, Phó chủ tịch MTTQ xã kiêm trưởng ban thanh tra nhân dân Xã quá trình theo dõi phát hiện tại thôn Sáp Mai có một số sai phạm, qua mấy lần sinh hoạt chi bộ thôn, sinh hoạt cán bộ ở Xã tôi đều nêu lên những vụ việc sai phạm đó, đề nghị lãnh đạo thôn, Xã quan tâm xử lý giải quyết, trong đó đậm nét là việc Thôn tự ý chưa có hợp đồng, Xã chưa phê duyệt đã thuê bên B là người trong thôn tiến hành thi công đổ đất nâng cao con đường từ trên đê sông Hồng chạy xuống xóm Bãi Sáp Mai, mặc dầu UBND xã đã có quyết định đình chỉ ngừng thi công nhưng thôn không chấp hành cứ cho thi công tiếp, cuối cùng họ tự thanh quyết toán với nhau hết trên 500 triệu đồng công quỹ, có biểu hiện móc ngoặc ăn chia tham nhũng với nhau. Tôi không thể chấp nhận cái kiểu thách đố “Chúng mày cứ nói – Chúng tao cứ làm” như vậy được, nên tôi đã đăng ký và được trực tiếp gập ông Nguyễn Đức Biền chủ tịch UBND huyện Đông Anh, tôi có đề xuất trong buổi gập đó mời cả đồng chí Bí thư Đảng ủy xã Võng La tham dự. Tôi báo cáo phản ảnh nội dung một số việc làm sai của thôn Sáp Mai, trong đó có việc thi công đắp đường xóm bãi Sáp Mai. Qua bàn bạc trao đổi, cuối cùng UBND Huyện giao cho UBND xã võng La tổ chức một đoàn Thanh tra xuống thôn Sáp Mai kiểm tra làm rõ đúng, sai những việc tôi báo cáo phản ảnh. UBND xã Võng La đã thành lập đoàn kiểm tra do ông Nguyễn Công Lương phó chủ tịch UBND làm trưởng đoàn, tôi làm phó trưởng đoàn. Sau một thời gian xuống trực tiếp kiểm tra trên sổ sách giấy tờ và thực địa, cuối cùng Ông Nguyễn Trọng Hào chủ tịch UBND xã Võng La tổ chức một cuộc họp giữa đoàn Thanh tra với cán bộ thôn Sáp Mai và bên B thi công để công bố kết luận thanh tra, trong đó riêng việc tổ chức đắp đường bãi Sáp Mai là đã chi quá số liệu tính toán, quyết định bên B phải hoàn trả lại cho bên A thôn Sáp Mai là 97 triệu đồng. Ông Hào hỏi tôi có ý kiến gì nữa không ?. Tôi đã phát biểu với nội dung như sau : “Nếu tôi không nói thì có thể cho là tôi dốt nát không biết gì? Tôi hỏi các đồng chí việc thi công đắp đường xóm bãi không có bản hợp đồng kinh tế chính thức giữa bên A và bên B, thì bên B làm sao có thể tính khoản thuế giá trị gia tăng 10% được ? Làm sao có thể tính khoản chi làm lán trại cho công nhân ở được ? Làm sao có thể tính do đường hẹp mất bao nhiêu giờ máy húc, máy múc phải chờ đợi được ? Làm sao xe ô tô chạy đổ đất trên cung đoạn đường bình quân chưa đầy 600 m, nhưng lại quyết toán chạy 1.200 m được ? Nếu tính lại trừ 4 khoàn tiền chi phí đó chắc chắn bên B phải –
- 95 -
trả lại bên A thêm vài chục triệu nữa. Nhưng thôi tôi chấp nhận như kết luận của UBND
Xã để taọ thuận lợi sử lý giải quyết cho dứt điểm xong những vụ việc ớ Sáp Mai.
Việc thứ ba : Trong cuộc hop chi bộ đầu tháng 4 năm 2015 tôi có khởi xướng đề xuất với chi bộ là nên lãnh đạo tiến hành viết “ Bản Hương Ước làng Sáp Mai”. Chi bộ bàn bạc nhất trí sẽ tổ chức một Tổ soạn thảo và giao cho tôi làm tổ trưởng chịu trách nhiệm sưu tầm tài liệu chủ biên viết dự thảo “Bản hương ước Làng Sáp Mai”. Tôi đã vận động mời 4 đồng chí là Nguyễn Ngọc Diệp, Nguyễn Mộng Lân, Hà Văn Muộn và Phan quang Nhụ tham gia là thành viên Ban soạn thảo, sau đó đồng chí Hà Thế Vĩnh bí thư chi
bộ triệu tập họp Ban soạn thảo giao nhiệm vụ và phân công trách nhiệm.
Một thuận lợi cơ bản là do tôi biết đánh máy chữ do được con gái út Nguyễn Thị Nga trang bị cho bộ máy tính và cháu Nguyễn Thành Công gọi tôi là chú ruột tặng cho tôi một chiếc máy in cũ nên qua mầy mò tìm hiểu trên mạng và đồng chí Hà Thế Vĩnh bí thư chi bộ đi liên hệ xin được một bản quy ước mẫu trên Huyện về giao cho tôi. Thế là trải qua gần 2 tháng tôi mới biên soạn xong bản dự thảo đầu tiên trên máy tính rồi đem in phô tô ra 7 bản đưa cho mỗi thành viên Ban soạn thảo một bản, đồng chí Hà Thế Vĩnh Bí thư chi bộ 1 bản và đồng chí trưởng thôn Phan Văn Thịnh 1 bản đề nghị đọc và tham gia sửa chữa bổ xung thêm, sau đó chuyển cho tôi tổng hợp chỉnh sửa lại trên máy tính trở thành Bản dự thảo tương đối hoàn chỉnh ban đầu gồm 8 chương và 30 điều. – Tiếp theo tôi in ra trên 50 bản đề nghị Bí thư chi bộ để gửi đến mỗi đảng viên 1 bản yêu cầu từng đảng viên tham gia chỉnh sửa bản Hương Ước làng Sáp Mai. Sau đó chi bộ họp chuyên đề hẳn 1 buổi để đảng viên tham gia đóng góp ý kiến. Tôi tiếp thu các ý kiến đóng góp của đảng viên tiếp tục chỉnh sửa trực tiếp trên máy cho hoàn chỉnh thêm. Tiếp theo đồng chí bí thư chi bộ yêu cầu mỗi đoàn thể họp 1 buổi thứ tự là chi hội NCT, chi hội CCB, chi hội phụ nữ để nghe tôi đọc toàn văn bản dự thảo rồi các hội viên tham gia ý kiến bổ xung, chỉnh sửa. Sau mỗi cuộc họp tôi lại tiếp tục chỉnh sửa, bổ xung những điểm mới, ý mới cho thêm hoàn chỉnh. Riêng Điều 8 “Đối với chùa Phong Đức làng Sáp Mai” tôi đã phải 4 lần ra chùa trực tiếp gặp thầy Thích Nguyên Bản để bàn bạc thống nhất từng câu chữ cho phù hợp với Nhà Phật. Bản dự thảo cuối cùng được in gửi đến đồng chí Bí thư Đảng Ủy Xã, đồng chí Phó bí thư thường trực và đồng chí chủ tịch UBND xã để tranh thủ xin ý kiến sửa chữa của Lãnh đạo chủ chốt Xã. Sau đó tổ soạn thảo họp phiên cuối cùng, để cùng nhau bàn bạc thống nhất thông qua lần cuối cùng.
Đến sáng ngày 01/9/2015 Thôn tổ chức buổi mít tinh kỷ niệm Quốc khánh 2/9 có gần 400 cán bộ đảng viên và đại diện các hộ gia đình trong thôn đến dư. Sau phần lễ kỷ niệm tôi được Ban tổ chức giới thiệu lên đọc thông qua toàn văn “ Bản Hương Ước làng Sáp Mai”, sau đó xin ý kiến các đại biểu tham gia, rôi lấy biểu quyết 100% các đại biểu dơ tay nhất trí thông qua. Sau đó bản Hương Ước chính thức cuối cùng đề ngày 01/9/2015 có chữ ký của Trưởng thôn Phan Văn Thịnh và chữ ký của Trưởng ban Công tác Mặt trận thôn Hà thế Vĩnh ký gửi lên đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Xã Võng La xét duyệt ra quyết định công nhận để thôn triển khai thực hiện. Sau khi UBND xã phê duyệt xong (Chỉ phải sửa chuyển đổi danh từ “ Hương Ước sang danh từ “ Quy Ước”), tôi lại giúp Thôn trực tiếp đi xe máy sang đường Phong SẮc quận Bắc Từ Liêm để thuê in ấn tổng số trên 600 quyển Quy Ước làng Sáp Mai đem về để Thôn cấp phát cho mỗi Hộ gia đình một quyến bắt đầu thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 trở đi .
- 96 -
Thế là phải trải qua 7 tháng (từ tháng 5 đến tháng 12 năm 2015) thật là gian nan, vất vả từ bản dự thảo Hương Ước ban đầu qua 7 lần thông qua tập thể. Tôi đã kiên trì công sức không biết mệt mỏi, khi kết thúc không nhận một đồng tiền bồi dưỡng nào của thôn. Đồng chí Hà Thế Vĩnh bí thư chi bộ tâm sự động viên tôi : “Cháu chịu Cụ, tuổi đã trên 80 mà còn minh mẫn thế, mà cũng chẳng có ai nhiệt tình tâm huyết với công việc chung của thôn như Cụ. Cụ đáng là tấm gương sáng để thế hệ chúng cháu học tập noi theo”.
Cảnh chiều Quê
Chiều quê đẹp cảnh hoàng hôn
Khu nhà văn hóa đầu thôn diệu kỳ
Tiếng thơ vang vọng canh khuya
Đường hồ vẳng tiếng thầm thì gió bay
Sáo diều lơ lửng tầng mây
Chuông chùa văng vẳng hương bay ngọt ngào
Tiếng bà ru cháu vui sao
Tiếng trẻ em học ngọt ngào vang xa
Ung dung mấy Cụ bình thơ
Thả hồn lai láng, ước mơ dạt dào
Quê hương đổi mới đẹp sao ?
Nhà xây san sát vươn cao nhiều tầng
Nhân dân phấn khởi vui mừng
Đời sống vật chất, tinh thần nâng cao
Đêm khuya đẹp cảnh trăng sao
Sáp Mai yêu dấu thắm bao nhiêu tình ./.
TÍCH CỰC GÓP PHẦN XÂY DỰNG HỌ NGUYỄN LÊ CỦA TÔI
Họ Nguyễn Lê của chúng tôi là một giòng Họ sinh sau đẻ muộn ở làng Sáp Mai, mới ra đời từ cuối thế kỷ XVIII, cho đến nay mới tồn tại và phát triển được trên dưới 150 năm , hiện nay trong nội tộc mới có 12 hộ và 45 nhân khẩu của thế hệ đời thứ III đến thế hệ đời thứ VI .
Theo trào lưu phát triển chung của đất nước ta thì từ cuối thế kỷ 20 đến nay vấn đề củng cố xây dựng duy trì hoạt động của các dòng Họ mới được quan tâm khôi phục, việc quy tập mồ mả lập nghĩa trang từng dòng họ mới bắt đầu sôi động, và gần đây các gìòng họ bắt đầu đua nhau xây dựng Từ Đường (nhà thờ Họ). Họ Nguyễn Lê của chúng tôi cũng nằm trong quỹ đạo chung đó.
Công việc thứ nhất : Quy tập mồ mả xây dựng nghiã trang của Họ Nguyễn Lê :
Năm 1990 nhân dân thôn Sáp Mai đã để một khoảnh ruộng ở khu cánh đồng Khắn theo hình chữ nhật chạy dọc theo bờ mương phía Bắc của kênh tiêu úng Việt Thắng để xây dựng nghĩa trang chung của nhân dân. Thôn đem chia cho mỗi dòng họ một lô đất để quy tập mồ mả của dòng họ về lô đất đó trở thành thành nghiã trang của từng giòng họ, thống nhất đều theo một hướng Đông – Tây, có đường ngang dọc vào nghĩa trang của từng dòng họ.
- 98 -
Với họ Nguyễn Lê của chúng tôi mà nòng cốt là tập trung vào 3 người: Ông Nguyễn Van Vy trưởng họ đời thứ IV, cụ Nguyễn Ngọc Diệp là trưởng Chi B và tôi là ngành thứ em trai của cụ Diệp, mãi đến năm 1994 mới bàn bạc thống nhất mức đóng góp tiền theo nhân khẩu, rồi tổ chức đi đào cất bốc các tiểu hài cốt của các vị tiền nhân trong họ đã qua đời nằm rải rác các nơi đưa về quy tập trong nghĩa trang của Họ. Địa thế của nghĩa trang họ Nguyễn Lê rất đẹp, nằm ngay sát bờ mương, lại ở ngay vị trí đầu tiên của nghĩa trang chung toàn thôn (Từ đường quốc lộ 23 đi theo dọc bờ mương thoát nước vào). Nhưng sau đó một yếu điểm đã sẩy ra là khu nghĩa trang chung nằm trong khu đất thấp nên cứ đến mùa mưa là đều bị nước ngập gần hết các mộ chí, khi có ngày giỗ thì con cháu của mỗi Họ phải lội vào nghĩa trang để thắp hương khấn vái rất bất tiện. Mãi đến cuối năm 2013 do có điều kiện thuận lợi là các hộ gia đình trong Họ đã phát triển kinh tế
Có đời sống khá lên nên trong Họ đã bàn bạc thống nhất mức tiền đóng góp để tiến hành cải tạo nâng cấp nghĩa trang của họ Nguyễn Lê lần thứ 2: Phải xây tường và cổng cao hơn 1 mét rồi đỏ cát nâng nền nghĩa trang cao hơn mặt đường bờ mương 20 cm, phải xây đôn cao 11 mộ cũ lên ngang mặt bằng rồi đặt mua Mộ bằng đá từ Thanh Hóa chuyển về lắp ghép thống nhất một kiểu như nhau. Tiến hành xây mộ Tổ cao to rồi cũng đặt mua đá chuyển về lắp ghép cao 3 tầng 8 mái toàn bằng đá trông rất uy nghi trang trọng. Trong cả hai lần xây dựng và tu bổ tôn tạo nghĩa trang họ Nguyễn Lê, mặc dầu tôi chỉ là trai ngành thứ, nhưng tôi luôn chủ động đề xuất, đóng góp ý kiến sử lý giải quyết các tình huống, giành nhiều thời gian trực tiếp trông nom kiểm tra đôn đốc quá trình xây dựng và tôn tạo, chủ động nhận đi giải quyết những công việc khó khăn, chung vai gánh vác các công việc, chứ không chịu thụ động ỷ lại phó thác cho Trưởng Họ và Trưởng Chi.
Công việc thứ hai : Viết Tộc phả Họ Nguyễn Lê
Nhân ngày giỗ Tổ họ Nguyễn Lê sáng mồng 2 tháng 2 năm Canh Dần 2010 tôi đã khởi xướng đề xuất với các thành ciên trong Họ là sẽ tiến hành viết quyển Tộc Phả họ Nguyễn Lê. Sau đó tôi đã đi sưu tầm, tìm hiểu các mối liên quan của những người trong Nội Tộc và Ngoại Tộc từ đời thứ I đến đời thứ VI, trước hết tôi lập ra 4 bản Phả đồ gồm: Phả đồ thứ I là 2 cụ Tổ : Với Tổ Khảo (cụ ông) xuất phát từ họ Lê ở làng Văn Quán, Với Tổ Tỷ (cụ bà) họ Nguyễn ở làng Sáp Mai + Phả đồ thứ II là sự phát triển của gia đình cụ Trưởng họ chi A từ đời thứ II đến đời thứ VI + Phả đồ thứ III là sụ phát tiển của gia đình cụ Trưởng chi B từ đời thứ II đến đời thứ VI + Phả đồ thứ IV là phát triển của gia đình 2 Cụ bà đời thứ II đã xuất giá cũng từ đời thứ II đến đời thứ VI. Qua 4 bản Phả đồ này lưu giữ lâu dài sẽ giúp cho các thế hệ hậu sinh của Họ Nguyên Lê nhanh chóng nhận biết được mối liên quan giữa những người trong Nội tộc và Ngoại tộc của họ Nguyễn Lê làng Sáp Mai từ đời thứ VI trở lên đến đời thứ I.
Sau đó tôi mới giành thời gian bắt đầu suy nghĩ trực tiếp viết bản thảo trên máy vi tính toàn bộ quyển Tộc Phả họ Nguyễn Lê dài 68 trang khổ giấy A4. Thời gian kiên trì nghiên cứu, sưu tầm tư liệu rồi viết và chỉnh sửa, bổ xung kéo dài mất 6 năm (Từ tháng 3/2010 đến tháng 3/2016) phải qua 3-4 lần bàn bạc thống nhất trong Họ mới hoàn thiện rồi đem đi in ấn 10 quyển khổ giấy A4 bìa cứng mầu đỏ, chữ vàng rất đẹp (kèm theo 4 bản Phả Đồ nội ngoại họ Nguyễn Lê). Trong ngày giỗ Tổ khảo mồng 2 tháng 2 năm Bính
- 99 -
thân 2016 đã cấp cho mỗi gia đình nội tộc một quyển Tộc Phả Họ Nguyễn Lê để lưu giữ lâu dài.
Công việc thứ ba : Xây dựng Ban Khuyến học họ Nguyễn Lê :
Giữa năm 2005 tôi đề xuất và cùng Ông Trưởng họ Nguyễn Văn Vy, cụ Nguyễn Ngọc Diệp trưởng chi B thống nhất thành lập Ban Khuyến học họ Nguyễn Lê, đây là giòng họ thứ hai ở thôn Sáp Mai thành lập Ban Khuyến học. Ngay từ đầu tôi đã soạn thảo ra bản Quy chế “Tổ chức, hoạt động của Ban Khuyến học dòng họ Nguyễn Lê thôn Sáp Mai, xã Võng La, huyện Đông Anh, TP Hà Nội”, lập thường trực Ban khuyến học gồm có 5 người và quy định trách nhiệm của từng vị trí đảm nhiệm :
- Ông Nguyễn Văn Vy trưởng họ Trưởng ban
- Ông Nguyễn Trung Kiên, trưởng Chi B đời IV Phó ban
- Cụ Nguyễn Ngọc Diệp trưởng chi B đời III Ủy viên cố vấn
- Cụ Nguyễn Thị Nhung Ủy viên, Thủ quỹ
- Cụ Nguyễn Ngọc Bào Ủy viên thư ký, kế toán
Bản quy chế quy định duy trị hàng năm họp Ban khuyến học dòng họ vào tuần thứ 3 của tháng 8 hàng năm để: Tổng kết năm học cũ, đề ra định hướng năm học mới và tiến hành trao phần thưởng cho con cháu học sinh và sinh viên trong Họ, đánh dấu bằng sự kiện ngày 20/8/2005 buổi họp ban Khuyến học họ Nguyễn Lê lần đầu tiên và sau đó duy trì nền nếp thường xuyên, liên tục từ đó đến nay là 13 năm , luôn được Ban Khuyến học của Thôn, của Xã nhận xét xếp vào loại hàng đầu của Thôn và của Xã. Cuối năm học 2008 --2009 được Xã xếp loại xuất sắc nhất Xã nên tháng 4 năm 2009 tôi được đại diện Ban khuyến học họ Nguyễn Lê đi dự hội nghị Hội Khuyến Học toàn huyện Đông Anh. Tại hội nghị này tôi được lên báo cáo thành tích cùng kinh nghiệm thành lập và duy trì hoat động của Ban Khuyến học họ Nguyễn Lê, sau đó được Hội nghị trao tặng giấy khen của UBND huyện Đông Anh cho Ban khuyến học họ Nguyễn Lê của chúng tôi.
Đến năm học 2015-2016 Ban Khuyến học đã tổ chức họp tổng kết 10 năm xây dựng và duy trì hoạt động của Ban Khuyến học họ Nguyễn Lê, sau đó bàn giao thế hệ cao tuổi đời thứ III chúng tôi xin nghỉ bàn giao cho lớp Con cháu thế hệ đời thứ IV đảm nhiệm thay thế Kết quả vẫn giữu vững và duy trì Ban Khuyến học họ Nguyễn Lê hoạt động thường xuyên liên tục, ngày một tiến bộ cho đến nay.
Công việc thứ bốn : Xây dựng Từ Đường họ Nguyễn Lê
Nguyện vọng mong muốn xây dựng Từ Đường họ Nguyễn Lê của các gia đình trong Họ đã nung nấu từ lâu. Thế nhưng lực bất tòng tâm vì không có điều kiện về đất đai và tài chính để thực hiện. Mãi đến đầu năm 2017 thời cơ thuận lợi đã xuất hiện : Với tấm lòng thành tâm thơm thảo Ông trưởng họ Nguyễn Văn Vy nhận cung tiến 80 m2 đất thổ cư liền kề với nhà đất đang ở + Ông Nguyễn Trung Kiên, trưởng chi B đời thứ IV hứa sẽ cung tiến 1 tỷ đồng Việt Nam để xây dựng Từ Đường họ Nguyễn Lê và nói thêm: Nếu còn thiếu bao nhiêu ông Kiên sẽ chi nốt. Hội đồng gia tộc họ Nguyễn Lê qua 2 lần họp đã quyết định : Ngoài đất đai và tiền cung tiến của Ông Vy và Ông Kiên ra, các gia đình trong Họ tùy tâm và tùy hoàn cảnh kinh tế của gia đình mà đóng góp mỗi nhân khẩu tử 3 triệu đồng trở lên.
- 100 -
Trong Họ thống nhất cử ra Ban chỉ đạo xây dựng gồm :
- Ông Nguyễn Văn Vy trưởng họ Trưởng ban
- Ông Nguyễn Trung Kiên Phó ban
- Ông Nguyễn Ngọc Quyền Phụ trách kỹ thuật
- Cụ Nguyễn Ngọc Bào Thủ quỹ, thư ký
- Cụ Nguyễn Ngọc Diệp Giám sát
Kết quả khởi công xây dựng từ ngày 10 tháng 6 năm Đinh Dậu (01/8/2017) đến cuối tháng 12 năm Đinh Dậu cơ bản đã hoàn thành với diện tích nhà thờ 60 m2 xây 2 tầng, đồng thời cũng đã hoàn chỉnh trang trí nội thất. Ngày 23 tháng chạp họ hàng nội tộc tập trung vào Tạ Mộ trong nghĩa trang họ Nguyễn Lê, kính mời Tổ Tiên và các vị tiền nhân trong Họ về nhà thờ của Họ cùng ăn tết năm Mậu Tuất 2018 với các hậu duệ đời sau.
Một việc làm có ý nghĩa là tôi đã đi sưu tầm lựa chọn tìm được 3 cặp câu đối cổ trong hàng trăm cặp và 3 Chữ trên Hoành phi bằng chữ hán có nội dung, ý nghĩa phù hợp, sâu sắc giáo dục đời sau. Tôi đã phân tích thuyết phục được Ban xây dựng chấp thuận nội dung của hoành phi câu đối và khắc lên hoành phi, câu đối bằng tiếng Việt chứ không khắc bằng chữ hán. Thể hiện lòng tự tôn chữ quốc ngữ của Dân tộc Việt Nam. Vừa có tác dụng thiết thực để hậu duệ các đời sau ai cũng đọc được, hiểu được và suy ngẫm tu dưỡng hướng thiện làm theo. Cho đến nay đây là Từ Đường duy nhất ở làng Sáp Mai làm được điều này .
Nhân ngày mồng 02 tháng 02 năm Mậu Tuất 2018 là ngày húy giỗ lần thứ 76 Tổ Họ, đã kết hợp làm lễ khành thành Từ Đường của họ Nguyễn Lê một cách trang trọng, được đón tiếp Ông Trưởng thôn và Bí thư chi bộ Đảng của thôn cùng đại diện các gia đình họ hàng Nội Ngoại ở các nơi về dự.
Với tôi trách nhiệm là thủ quỹ kiêm thư ký nên đã bận rộn thường xuyên, liên tục trong suốt thời gian thi công xây dựng, sau khi hoàn thành công trình tôi tổng hợp Quyết toán nhanh chóng, minh bạch, rõ ràng đã được sự nhất trí cao trong nội tộc họ Nguyễn Lê. Tổng chi phí cho xây dựng và trang trí nội thất ngôi Từ Đường họ Nguyễn Lê là
NỖI ĐAU ĐI THEO HẾT CUỘC ĐỜI
Ngay từ khi học tiểu học thời thực dân Pháp còn xâm lược cai trị nước ta câu ca dao cổ : “Công cha như núi thái sơn – Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra – Một lòng thờ Mẹ kính Cha – Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con” nó đã ăn xâu vào tâm trí của tôi suốt cuộc đời rồi. Đến nay nhìn lại quá khứ của cuộc đời, tôi có thể tự khẳng định là khi Cha Mẹ và kể cả người Vợ hai của Bố tôi khi còn sống thì tôi đã luôn luôn làm tròn bổn phận một người con hiếu đễ, đem lại niềm tự hào cho Bố Mẹ, chưa làm điều gì để Cha Mẹ phải đau khổ, xấu hổ vì có đứa con như tôi. Nhưng cuộc đời tôi lại không được hưởng niềm diễm phúc làm tròn đạo hiếu khi Thầy U tôi lâm chung trút hơi thở cuối cùng thì tôi đều vắng mặt, đơn giản chỉ vì tôi đi bộ đội xa nhà. Đó là một sự đau khổ xót xa, day dứt lương tâm cứ kéo dài đi theo cùng năm tháng, mỗi khi nghĩ đến Cha Mẹ là lại tự hỏi lòng mình như vây là có bất hiếu với Cha Mẹ hay không ?
- 101 -
VỚI U TÔI
Năm 1956 sau khi anh trai trưởng của tôi xây dựng gia đình, vì chị dâu nhà con một nên anh chị đã sang ở trông nom bên gia đình nhà vợ. Còn U tôi và 2 cô em gái trẻ tuổi vẫn sống chung cùng vợ chồng tôi, U tôi vẫn giữ vai trò chủ sự của gia đình
(vì tôi thoát ly lên Huyện công tác) cho đến khi 2 cô em trưởng thành đi lấy chồng, U tôi ngày một già yếu cho đến khi 71 tuổi, không may 22 giờ ngày 18 tháng 6 năm Tân Dậu tức ngày 19/7/1981 thì U tôi bị bệnh tai biến đột ngột từ trần. Lúc này tôi đang cùng Trung đoàn 232 đóng quân làm nhiệm vụ ở khu vực Kim Tân – Cổ Tế thuộc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa, mãi 16 giờ chiều ngày hôm sau 20/7/1981 một xe con của Sư đoàn 387 ở Hà Nội vào báo tin đột ngột cho tôi biết, tôi vội bàn giao công việc cho đồng
chí phó chính ủy trung đoàn rồi lên xe con quay trở ra về tới gia đình đã hơn 10 giờ đêm, trong lòng biết bao bức xúc đau đớn, chỉ vội chạy đến ôm xác mẹ già khóc lóc kêu gào cho đến khi mệt lả (vì nhịn đói chưa ăn bữa cơm chiều). thế là tôi mang tội bất hiếu với U tôi rồi, cả cuộc đời U tôi gian nan vất vả vì các con, các cháu. Lúc ốm đau tôi chưa
được chăm sóc, lúc trút hơi thở cuối ở ngay tại nhà tôi mà tôi cũng vắng mặt. Từ đó đến nay cứ mỗi khi nghĩ về Mẹ, nhất là những ngày giỗ hàng năm là tôi không sao kìm nổi hai hàng nước mắt,, trong lòng lại thổn thức xót xa chỉ vì việc Nước, việc dân mà mang tội bất hiếu với U tôi.
Quên làm sao được những hình ảnh đậm nét của U tôi: Về riêng tư U tôi là người bị thiệt thòi về hạnh phúc quá lớn vì khi Thầy tôi lấy U tôi (1930-1931) đang là cán bộ kỹ thuật về đê điều, cầu đường của nhà nước thường xuyên đi trông nom các công trình xa gia đình, chỉ thỉnh thoảng mới về nhà thăm vợ con một lần. Cho đến năm 1939 khi Thầy tôi lấy thêm người vợ thứ hai (Vợ lẽ) thì Thầy tôi ở hẳn với người vợ hai trên thị xã Phúc Yên, chỉ ngày giỗ ngày tết mới về qua nhà một hai ngảy rồi lại đi. Một mình U tôi phải ngày đêm vất vả cấy thuê làm mướn, chạy chợ buôn bán lặt vặt kiềm đồng tiền nuôi các con khôn lớn. Năm 1943 khi giặc Nhật hất cẳng thực dân Pháp cai trị nước ta thì một lần U tôi đi mua sợi cây đay đã ngâm là hàng quốc cấm của Nhật từ quê ngoại Cổ Bi huyện Gia Lâm đi tàu hỏa xuống Hải Phòng để bán, không may bị bọn giặc Nhật bắt được chúng đã bỏ tù mất 4 tháng, sau đó chúng mới tha, ba anh em chúng tôi phải sống nhờ cậy vào Ông Bà ngoại cưu mang.(Vì Ông Bà nội của chúng tôi đã qua đời từ lâu rồi).
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, khi hai anh em chúng tôi xung phong đi bộ đội lúc mới 15 tuổi U tôi đều đồng ý cho đi, lại còn vui vẻ động viên các con cố gắng hoàn thành nhiệm vụ sao cho bằng anh bằng em. Đến khi Anh trai tôi năm 1950 bị giặc Pháp bắt được phải chịu tù đầy ở nhiều trại giam thì Mẹ tôi vài tháng lại phải đi tiếp tế quần áo thuốc men. Còn tôi đang công tác ở Tỉnh Đội Vĩnh Phúc, khổ thế vì thương nhớ con nên U tôi đã đi bộ từ trong hậu địch ra vùng tự do Thái Nguyên rồi đi bộ lên vượt qua ngọn núi Tam Đảo sang tận huyện Lập Thạch, một con đường đi đầy gian nan vất vả, rừng núi hiểm trở để thăm tôi, lại trong lúc tôi bị bệnh sốt rét nặng đang nằm điều trị ở Bệnh xá Tỉnh Đội, Mẹ con ở với nhau được 3 ngày thì U tôi lại phải đi về theo con đường cũ vì 2 cô em gái tôi còn nhỏ bé đang ở nhà. Tiếp theo lần thứ hai U tôi đi thăm tôi ở vùng tự do huyện Phổ Yên Thái Nguyên, hai mẹ con gặp nhau được gần một ngày đến chiều tối U tôi lại quay về hậu địch ; Lần thư ba U tôi tiếp tục đi thăm tôi, hai mẹ con gặp nhau ở ngay Điệp Thôn xã Tráng Việt nằm trong khu du kích vùng địch tạm
- 102 -
chiếm đóng, sau đó vài ngày thì tôi bị giặc Pháp càn quét bắt được ở ngoài bãi sậy xã Tráng Việt.
Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước thì đầu tháng 4 năm 1965 anh trai tôi là Nguyễn Ngọc Diệp đang là chủ nhiệm HTX nông nghiệp ở quê nhà nhận được lệnh tái ngũ lên đường trở lại quân đội tập luyện chuẩn bị hành quân vào Nam chiến đấu. Tiếp theo đến ngày 01 tháng 5 năm 1965 chỉ chưa đầy một tháng thì tôi cũng nhận được lệnh tái ngũ trở lại quân đội. Khác với lần trước trong kháng chiến chống Pháp lúc đó chúng tôi còn ít tuổi, nay thì hai anh em tôi đều có gia đình vợ con riêng, là cả một gánh nặng để lại ở hậu phương mà U tôi phải gánh vác trông năm, chăm sóc. Ấy thế mà U tôi không
hiểu gan to bằng ngần nào mà khi cả hai con lên đường U tôi vẫn không than phiền khóc lóc gây cản trở, trái lại U tôi vẫn bình tĩnh động viện chúng tôi: “ Các con cứ yên tâm lên đường làm nhiệm vụ, mong sao chân cứng đá mềm vượt qua bom đạn chiến tranh để lại trở về đoàn tụ với gia đình như thời kỳ kháng chiến chống Pháp thắng lợi, còn ở nhà U sẽ thay mặt các con trông nom gia đình các con chu đáo”. Riêng tôi được hưởng một diễm phúc lớn là U tôi đang sống cùng vợ con gia đình tôi, nên tôi rất yên tâm tin tưởng lên đường làm nhiệm vụ. Sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, hai mẹ con có những lúc tâm sự, U tôi có thổ lộ tâm tư nói thế này:“ Thời chống Pháp hai anh em chúng mày đều bị địch bắt cả, bố chúng mày thì ở tận trên chiến khu Việt Bắc, thế là hết tương lai, lắm lúc đi ra Hà Nội để tiếp tế cho thằng Diệp tao cứ muốn nhảy vào đường tầu điện để chết quách đi cho xong, nhưng kịp nghĩ lại vì còn hai đứa em gái chúng mày nó đang còn nhỏ dại nên tao lại thôi kịp dừng lại. Trong chống Mỹ khi hai anh em chúng mày nhận lệnh tái ngũ, trong lòng U buồn lắm, lo lắng lắm, đau đớn lắm thế nhưng bên ngoài vẫn phải cố bình tĩnh để động viên chúng mày yên tâm lên đường. Sau đó lắm đêm U nằm suy nghĩ thấy tủi thân buồn bã lắm chỉ một mình khóc thầm không thành tiếng sợ vợ con chúng máy biết được sẽ càng thêm buồn phiền lo lắng”. Vì vậy cho đến nay đôi lúc tôi cứ suy nghĩ “Nếu như 2 anh em chúng tôi chiến đấu đều đã hy sinh thì chắc chắn U tôi đã được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng rồi”, nhưng hạnh phúc lớn điều đó không sảy ra. Cho nên trong sâu thẳm trái tim tôi thì tôi vẫn cứ tự suy tôn U tôi xứng danh một bà mẹ Việt Nam anh hùng.
VỚI THẦY TÔI
Năm 1967 trong khi miền Bắc nước ta đang chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, anh trai Nguyễn Ngọc Diệp của tôi đã lên thị xã Phúc Yên đón Cha tôi và Dì Hai cùng về quê quán làng Sáp Mai để thuận tiện chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già. Hai Cụ vẫn sống riêng một gia đình, Dì hai tôi vẫn đi ruộm quần áo đủ nuôi sống nhau. Mãi cho đến cuối năm 1984 Dì Hai tôi cũng già yếu không thể nuôi sống được nhau, nên 2 Cụ bàn bạc thống nhất thôi đành phải chia ly mỗi người đi một nơi: Gì hai tôi lên ở với con gái và con rể ở trên thị trấn Hương Canh, còn Thầy tôi thì tôi đón về sống với gia đình vợ chồng chúng tôi. Trong lúc này tôi đã được Bộ Quốc phòng điều động về công tác ở Ủy ban kiểm tra Đảng ủy Tổng cục Kỹ Thuật, cơ quan ở trong thành Hà Nội có điều kiện chiều thứ bẩy hàng tuần hết giờ làm việc đi xe đạp về gia đình nghỉ ngày chủ nhật thăm nom Thầy tôi. Bất ngờ 9 giờ sáng ngày ngày 5 tháng 4 năm 1985
- 103 -
(tức ngày 16 tháng 3 năm Ất Sửu 1985) thì đồng chí thường trực của Tổng Cục điện xuống văn phòng UBKT báo tin cho tôi biết là vừa nhận điện thoại của một người cháu của tôi điện vào báo là Cha tôi ở nhà vừa mới từ trần. Thế là tôi vội vàng bàn giao công việc, rồi nhanh chóng đi xe đạp về gia đình khoảng gần 11 giờ trưa ngày 5/4/1985 cùng anh chị em ruột thịt bàn bạc tổ chức đám tang cho Thầy tôi. Có lẽ Thầy tôi bị bệnh trụy tim mạch đột ngột tắt thở ra đi về cõi vĩnh hằng với Tổ Tiên rất nhanh. Trong lúc ở nhà trụ cột là anh trai Nguyễn Ngọc Diệp của tôi lại đang bị bệnh phổi rất nặng và kéo dài, mọi người thân lo lắng có khi sắp ra đi về với Tổ Tiên. Thế nhưng chẳng ai có thề ngờ được rằng Thầy tôi lại bất ngờ ra đi nhanh như vây ?. Anh trai tôi đành chịu nằm bẹp một chỗ khi Thầy tôi mất. Tôi về phải đứng ra lo liệu đám tang cho cha tôi, và một điều
lại day dứt lương tâm kéo dài theo năm tháng tự đặt câu hỏi tại sao mình lại gập bất hạnh như vậy ? Thế là cà Mẹ và Cha tôi khi tắt thở vĩnh biệt trần gian thì tôi đều bị vắng mặt.
Xót xa !
Cha mẹ lâm chung lúc tuổi già
Con đi bộ đội phải xa nhà
Lương tâm day dứt cùng năm tháng
Bất hiếu - thôi đành - dạ xót xa !
VỚI NGƯỜI VỢ RẤT ĐỖI YÊU THƯƠNG CỦA TÔI
Vợ tôi tên là Nguyễn Thị Tý, sinh năm 1936, vĩnh biệt bỏ bố con tôi về cõi vĩnh hằng lúc 22 giờ ngày 04 tháng 11 năm 1995 (Tức ngày 12 tháng 9 năm Ất Hợi 1995), chỉ thọ có 59 tuổi. Đám cưới của hai chúng tôi đã được mô tả là “Độc nhất, vô nhị” ở trên phần đầu tập Ký và Thơ này. Chúng tôi kết hôn với nhau mới được 39 năm, trong đó tôi đi thoát ly lên Huyện công tác và tái ngũ quân đội kéo dài gần 30 năm, vợ chồng chỉ được chung sống trọn vẹn vbên nhau hơn 3 năm sau khi cưới và trên 5 năm sau khi tôi được nghỉ hưu. Đây là một sự thiệt thòi lớn lao về hạnh phúc lứa đôi của vợ chồng chúng tôi. Chúng tôi đã sinh hạ được 3 người con: 1 con trai đầu lòng là Nguyễn Ngọc Bằng + con gái thứ hai là Nguyễn Thị Nguyên và con gái út là Nguyễn Thị Nga.
Cả cuộc đời người vợ đối với tôi thật đáng trân trọng, thật đáng yêu thương, thấm đẫm tình người sẽ đi theo cùng năm tháng đến hết cuộc đời của tôi. Tuy chỉ là một người nông dân thuần túy, hiền lành ít nói, chân lấm tay bùn, trong hoàn cảnh kinh tế gia đình thường xuyên khó khăn thiếu thốn, lại phải thay chồng phụng dưỡng Cha Mẹ chồng, phải nuôi dậy 3 con ăn học khôn lớn. Cả cuộc đời vợ tôi có thể nói là sống bền bỉ nhẫn nại tất cả vì chồng vì con. Nếu tôi không có một hậu phương vững chắc nhờ có công lao to lớn của người vợ hiền thì tôi làm sao có thể thể yên tấm phấn đấu tiến bộ được như ngày nay. Điều đáng nói là khi tôi được nghỉ hưu vẫn đang còn bệnh tật ốm yếu, mình chẳng giúp được gì cho vợ, trái lại còn để cho vợ phải ngày đêm lo lắng, chăm sóc, nhường nhịn bồi dưỡng cho chồng. Đến khi tôi khỏe lên thì lại hăng say tham gia các công việc ở địa phương, quên lãng công việc của gia đình vì ỷ lại có người vợ hiền tận tụy đảm đang, nói
ít làm nhiều. Vợ chồng tôi sau khi lo cưới vợ, gả chồng cho 3 đứa con xong, gia đình chúng đều ở ngoài thành phố Hà Nội, ở quê chỉ còn có hai vợ chồng chúng tôi sống với
- 104 -
nhau thôi. Nhân dịp đầu xuân năm mới Ất Hợi 1995 tôi có nói với các con thế này: “Sang năm 1996 bố mẹ cưới nhau được 40 năm, muốn các con tổ chức một buổi liên hoan kỷ niệm. Trước hết bố mẹ mong các con hãy học tập ở bố mẹ 3 điểm: Thứ nhất chưa bao giờ bố mẹ phải mày tao với nhau một lần nào ? Thứ hai chưa bao giờ bố thô bạo đánh mẹ các con lần nào ? Thứ ba chưa bao giờ bố mắng nhiếc xúc phạm đến nhân phẩm của mẹ các con”. Các con tôi hứa hẹn sang năm sẽ tổ chức để bố mẹ vui lòng.
Thế nhưng có ai học được chữ ngờ, đến tháng 9 năm 1995 vợ chồng con trai cả Nguyễn Ngọc Bằng của chúng tôi sinh thêm được cháu gái thứ hai. Thế là bà phải thu xếp ra trông nom cháu nội. Được hơn tuần lễ thì bất ngờ vợ tôi bị tai biến mạch máu não các con phải đưa ra cấp cứu điều trị ở Bệnh viện Bạch Mai, tôi phải thu xếp tạm đóng cửa nhà ở quê để ra Bệnh viện trông nom chăm sóc vợ tôi. Thời gian kéo dài suốt 15 ngày không sao, chiều tối hôm thứ 15 con trai tôi vào bệnh viện trông nom thay để tôi về nhà nghỉ đêm, trên đường về không may xe máy tôi bị một xe máy của 2 thanh niên chạy ngược chiều va quệt nhẹ làm xe máy của tôi bị đổ ra, tôi chỉ bị sây sát nhẹ, nhưng ở một
chân bị bong gân đau đi lại khó khăn.Thế là hôm sau tôi không vào bệnh viện trông nom vợ tôi được nữa, thì đến chiều tối ngày thứ 16 vợ tôi tắt thở vĩnh biệt bố con tôi . Thế là số phận khốn khổ của tôi cuối cùng lại cũng không gập được người vợ thân yêu của tôi trong giờ phút sinh ly tử biệt nhắm mắt xuôi tay của cuộc đời. Thật hụt hẫng, đau xót, tổn thất lớn lao không gì bù đắp được. Mặc dù đến nay thời gian đã lùi xa trên 23 năm nhưng với tôi vẫn không sao có thể nguôi ngoai lãng quên được những ngày tháng đau thương tang tóc đó được. Những lúc vắng vẻ, cô quạnh nhìn lên bức ảnh của vợ trên bàn thờ, hồi tưởng lại những lúc đương thời còn sống bên nhau thì tôi không sao cầm được những giọt nước mắt âm thầm nhỏ xuống vì quá thương nhớ đến người vợ thương yêu, là ân nhân của cuộc đời tôi.
Viếng mộ bạn đời !
Nghĩa trang tĩnh lặng áng mây trôi
Chỉ thấy ảnh em chẳng thấy người
Nhớ khi chúng mình đang còn trẻ
Chỉ vì giặc Mỹ sống đôi nơi
Năm tháng chiến tranh ở chiến trường
Xa em trăm nhớ với ngàn thương
Hậu phương vợ hiền ba con nhỏ
Ắt hẳn nhiều đêm nghĩ vấn vương
Đất nước thanh bình anh trở về
Sao em nỡ vội sớm ra đi
Để thương để nhớ cho con cháu
Để vợ chồng mình phải biệt ly
- 105 -
Anh thắp nén nhang viếng mộ em
Trong lòng thổn thức biết bao đêm
Nhớ thương bạn đời không còn nữa
Trong lòng trống trải nỗi cô đơn ./.
x
Nhớ thương Bạn đời !
Hai mươi năm trọn em đi xa
Hình bóng thực hư cứ nhạt nhòa
Vụt tắt niềm vui thay nỗi nhớ
Người vợ thủy chung sống thuận hoà
Má lúm đồng tiền trông duyên dáng
Đen nhánh hàm răng tựa hạt na
Thay chồng nuôi dạy con khôn lớn
Hiếu thảo dâu hiền với Mẹ Cha
Em ơi ! chúng mình khi đang trẻ
Anh đi đánh giặc phải xa nhà
Khi về xum họp đang hạnh phúc
Không ngờ em nỡ bỏ đi xa
Tuy anh huyền tục bên vợ kế
Êm ấm bên nhau lúc tuổi già
Em vẫn còn đây, luôn ẩn hiện
Lòng thương nỗi nhớ chẳng phôi pha ./.
(Cảm súc ngày giỗ vợ sau 20 năm : 12/9 Ất Mùi 2015)
NIỀM VUI – HẠNH PHÚC CUỐI CUỘC ĐỜI
Có lẽ mỗi con người sống trên trần gian này tùy theo hoàn cảnh cụ thể mà có những nhu cầu, những mong muốn muôn mầu muôn vẻ khác nhau, khi đã được đáp ứng thì cảm thấy đó là niềm vui - hạnh phúc của cuộc đời mình.
Với tôi ơn nhờ âm đức của Tổ Tiên Ông Bà, Cha Mẹ để lại. Ơn nhờ Đảng – Bác và chế độ đã tạo bệ phóng cho cuộc đời tôi. Những đổi thay, cay đắng, ngọt bùi trong mấy chục năm qua thì nay đã thuộc về quá khứ. Nguồn động viên khích lệ và là động lực giúp tôi đi tiếp con đường xuống đến chân dốc của cuộc đời, đó là những niềm vui và hạnh phúc của cây đời mà tôi đang được thụ hưởng ngày một đơm hoa kết trái, hương thơm quả ngọt thấm đậm tình người. Niềm vui và hạnh phúc của đời tôi hiện nay thì nhiều, nhiều lắm. Nhưng tôi chỉ thổ lộ ra đây vài sự kiện mà tôi thấy nó có tính chất bền vững lâu dài có ý nghĩa cao cả về lý chí, tình cảm, tinh thần, nhân văn, tâm linh nhiều hơn là giá trị về vất chất đời thường.
- 106 -
CÓ NGƯỜI VỢ KẾ ĐIỂM TỰA VỮNG CHẮC CUỐI CUỘC ĐỜI
Sau khi người vợ yêu quý của tôi không còn nữa, hạnh phúc bị tổn thương quá sâu sắc, tôi một mình sống cô quạnh ở quê nhà (vi gia đình của 3 đứa con đều ở ngoài nội thành Hà Nội cả). Hàng ngày chỉ lấy những công tác xã hội đang gánh vác là niềm vui và cùng một số ông bà già họ hàng làng xóm nhóm họp đánh chắn ngay tại nhà để giết thời gian. Ngày qua ngày, tháng qua tháng kéo dài cảnh sống cô đơn như vây, khiến mọi người thân ruột thịt đều ái ngại không đồng tình. Từ anh chị em ruột thịt, kể cả bên ngoại vợ tôi cho đến bạn bè đồng chí, đồng đội thân thiết đều khuyên tôi nên đi bước nữa, đã chân thành giới thiệu nhiều đối tượng để tôi lựa chọn. Các con tôi cũng cảm nhận được câu ca “Con nuôi cha – Không bằng bà nuôi ông” nên chúng chỉ đề đạt nguyện vọng “Bố tìm hiểu xây dựng với ai là tùy bố, nhưng người đó phải xứng đáng là mẹ kế của các con, là bà của các cháu”.
Sau khi được sự đồng thuận và thúc bách của người thân trong gia đình, thì ngày 19/5/1997 hai chúng tôi Nguyễn Ngọc Bào và Phạm Thị Tươi đã chính thức làm thủ tục “Giấy Kết Hôn” tại trụ sở UBND xã Võng La, và ngày 22 tháng 5 năm 1997 (16 tháng 4 năm Đinh Sửu) chính thức làm lễ cưới giữa hai gia đình, nhà trai tổ chức đón dâu đàng hoàng. Với tôi coi đây là một việc làm cực chẳng đã chứ chẳng sung sướng cái nỗi gì nên
chỉ hạn chế ăn uống bó hẹp có 6 mâm gồm người thân anh chị em, con cháu ruột thịt trong gia đình nhà tôi và bên ngoại vợ cũ của tôi, nếu vui vẻ mở rộng quá thì chỉ tổ để người ta chê cười. Sau đám cưới hai chúng tôi làm “Giấy Báo Hỷ” gửi qua Bưu điện đến hầu hết người thân họ hàng xa và bạn bè đồng đội để biết, thông cảm khỏi chê trách.
Tóm tắt Người vợ kế của tôi là Phạm Thị tươi, sinh năm 1944 (kém tôi 10 tuổi) quê quán thôn Vệ, xã Nam Hồng cùng huyện Đông Anh với nhau, cũng đã qua một đời chồng 4 năm thì ly hôn, không có con riêng; Là Cựu TNXP thời chống Mỹ, rồi công nhân nhà máy đóng Tầu thủy Hà Nội đã nghỉ hưu. Từ ngày chúng tôi huyền tục tái giá về sống với nhau tính đến nay đã được trên 21 năm không sinh thêm con riêng nào nữa. Thời gian sống bên nhau đã đủ khẳng định là tiếp tục gắn ở tuổi xế chiều đi tiếp chặng đường xuống đến chân dốc của cuộc đời. Người vợ kế của tôi có những điểm đem lại niềm vui, hạnh phúc cho tôi đáng được ghi nhận đó là :
- Trước hết là trong nội bộ gia đình đã đáp ứng được nguyện vọng của con trai, con gái, con dâu, con rể của tôi xứng đáng là người “Mẹ kế của các con và Bà của các cháu”, niềm vui nhất và hạnh phúc nhất để tôi ham sống và muốn sống thọ đó là sự đoàn kết hòa thuận giữa Mẹ kế với con chồng ngày một thấm đậm, thương yêu quý mến, gắn bó với nhau. Câu ca “Con nuôi cha, không bằng bà nuôi ông” trên thực tế chứng minh các con tôi đều phải thừa nhận là đúng. Thực sự đã giúp các con tôi yên tâm làm ăn xây tổ ấm xa nhà đỡ phải băn khoăn lo lắng về đời sống và sức khỏe của người bố đẻ ngày một già yếu.
- Chẳng những chỉ êm thắm trong gia đình nhỏ hẹp của tôi, mà sự ứng sử đáng khen, đáng nể của bà xã nhà tôi còn mở rộng mối quan hệ giao tiếp tình cảm chan hòa gần gũi cởi mở ra hầu hết các gia đình trong họ hàng nội, ngoại gần xa của tôi, nhất là đối với họ hàng ruột thịt bên ngoại người vợ cũ của tôi. Hai vợ chồng cháu trưởng Nguyễn Văn Cối đã từng nói “Chúng cháu quý Cô như Cô ruột của chúng cháu”.
- 107 -
- Đối với công tác xã hội và hoạt động tâm linh tín ngưỡng, tình nghĩa của bà Xã nhà tôi cũng đáng khen : Tích cực, thường xuyên liên tục tham gia các hoạt động tâm linh, tín ngưỡng ở các Chùa, nhất là ở chùa Phong Đức làng Sáp Mai. Rồi BCH Xã kiêm chi hội trưởng cựu TNXP của thôn kéo dài nhiều nhiệm kỳ đến nay vẫn chưa nghỉ, rồi một thời cả hai vợ chồng cùng hoạt động là nhân tố tích cực trong các phong trào của Người cao tuổi như cùng nhau luyện tập và tham gia đi đồng diễn, thi đấu các môn Thái cực quyền, Thái cực trường sinh, Ba la trùy, 56 động tác, cầu lông, bóng cửa ở nhiều nơi kéo dài hàng chục năm trời, có thể xếp vào lớp người “Việc nhà thì nhác – Việc chú bác thì thiêng”. Nói thế thôi chứ bà xã nhà tôi rất chi là cần cù siêng năng lao động, nhà cửa luôn vào loại Xanh Sạch Đẹp. Chăm sóc ăn uống, thuốc men cho chồng tận tình chu đáo. Có thể nói từ ngày tái hôn xây dựng tổ ấm lần thứ hai với người vợ kế Phạm Thị Tươi của tôi đã thực sự là chỗ dựa vững chắc để tôi yên tâm tham gia các công tác của thôn, của Xã, của các tổ chức tình nghĩa đồng đội liên tục kéo dài trên 20 năm qua đến nay vẫn chưa nghỉ. Rất phấn khởi là chỉ sau vài năm tái hôn với nhau thì cán bộ các cấp và Người cao tuổi cả Xã ai cũng biết bà Tươi là vợ kế của ông Bào.
Trong cuộc sống chẳng bao giờ có chuyện”Trời yên, bể lặng – Thuận buồm xuôi gió”cả. Đôi lúc cũng có sóng gió lăn tăn do trình độ, cá tính, sở thích khác nhau, nhưng do hiểu nhau đã biết kiềm chế, tiến lên lùi xuống chiều nhau đúng lúc, nên chẳng bao giờ giận hờn với nhau được một buổi. Niềm vui và hạnh phúc vẫn là trên hết. Nhưng dù niềm vui hạnh phúc đến đâu thì cũng chẳng có chuyện “Có mới - nới cũ” chi phối được tâm tư luôn nhớ thương người vợ cũ của tôi, cho nên mới có câu thơ : “ Tuy anh huyền tục bên vợ kế - Êm ấm bên nhau lúc tuổi già – Em vẫn còn đây, luôn ẩn hiện – Niềm thương nỗi nhớ chẳng phôi pha”.
Vợ kế của tôi
Vợ kế của tôi Phạm Thị Tươi
Hơn bảy mươi xuân vẫn đẹp người
Thanh niên xung phong thời chống Mỹ
Công nhân nhà máy nửa cuộc đời
Về hưu sinh hoạt khu tập thể
Gian nhà trống vắng sống đơn côi
Bào – Tươi huyền tục nên chồng vợ
Ở tuổi xế chiều vẫn sánh đôi
Họ hàng nội ngoại cùng con cháu
Anh em, bè bạn đến chung vui
Năm tháng qua đi sao nhanh thế
Hai mốt năm rồi vẫn thế thôi !
- 108 -
CON CHÁU HIẾU THẢO, ĐOÀN KẾT YÊU THƯƠNG
Niềm vui, hạnh phúc thứ hai đối với tôi đó là các con, các cháu ruột thịt của tôi thực sự có lòng hiếu thảo với Ông bà, Cha mẹ. Đúng là “Mỗi cây mỗi hoa – Mỗi nhà mỗi cảnh” nhưng các con, các cháu đều chan hòa, đoàn kết, yêu thương gắn bó với nhau, tương trợ giúp đỡ nhau từ lúc còn nhỏ cho đến ngày hôm nay. Tôi có 3 người con đã thành 3 tiểu gia đình đều đã có cháu nội, cháu ngoại cả rồi, cụ thể:
- Con trai cả Nguyễn Ngọc Bằng, sinh đầu năm 1958. Vợ là Nguyễn Thị Hiền sinh năm 1966. Cả hai vợ chồng đều là công nhân viên Công ty thoát nước Hà Nội đã nghỉ hưu. Có 3 con là : Nguyễn Thị Hải Yến, đã lấy chồng mới sinh con gái, là một tấm gương về hiếu học trong Họ Nguyễn Lê, cháu vừa công tác, vừa mang thai mà vẫn khắc phục mọi khó khăn học tập tại chức 3 năm liền thi tốt nghiệp nhận Bằng Thạc Sĩ là bằng cấp cao nhất hiện nay trong Họ. Con thứ hai là Nguyễn thị Ngọc Ánh y sĩ đang là điều dưỡng
viên Bệnh viện Hồng Ngọc Hà Nội. Con thứ ba là Nguyễn Lê Hồng Phúc, đang học sinh trung học cơ sở. Cả nhà đang cư trú ở Làng Tám, Phường Giáp Bát, quận Hai Bà Trưng Hà Nội. Tuy nghèo về kinh tế nhưng lại giàu về đạo đức nhân văn, cương thường đạo lý, được mọi người yêu mến, chưa có tỳ vết gì để họ hàng, làng xóm chê trách. Tôi chỉ có một người con dâu, nhưng biết ăn ở cư sử hiếu đễ lễ phép với bố mẹ chồng, gia đình và họ hàng nhà chồng, thường xuyên mua thuốc men, thực phẩm, hoa quả về bồi dưỡng bố mẹ chồng, dù no đói nhưng lúc nào cũng vui vẻ, nói ít làm nhiều, kiên trì bền bỉ tận tụy vì chồng vì con, một tổ ấm tuy nghèo vật chất, nhưng giàu tình cảm, lúc nào cũng đầm ấm rộn tiếng cười, dạy bảo con cái ngoan ngoãn, chăm học từ tốn lễ phép với mọi người. Tôi rất vui và hạnh phúc có một cặp con trai và con dâu luôn được nghe mọi người khen nhiều hơn chê.
- Con gái thứ hai của tôi là Nguyễn Thị Nguyên, sinh năm 1962. Là Y tá Công ty thoát nước Hà Nội đã nghỉ hưu. Chồng là Ngyễn Văn Ngữ, sih năm 1960, thượng úy Công An đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ truy quét bọn tội phạm đêm mồng 2 tết năm Bính Tý 1996, được Nhà Nước công nhận là Liệt Sỹ và truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Hai vợ chồng sinh được 2 con trai , mẹ Nguyên ở vậy nuôi 2 con khôn lớn trưởng thành. Con trai lớn là Nguyễn Minh Tiến tiếp tục kế tục sự nghiệp của bố đang là Thượng ủy Công An của Sở Công An Hà Nội, đã lấy vợ và đã sinh được con gái đầu lòng. Con trai thứ hai Là Nguyễn Ngọc Việt, đang học Thạc sĩ năm thứ 3. Cả nhà đang cư trú ngôi nhà tình nghĩa của Sở Công An Hà Nội xây tặng ở Làng Tám, phường Giáp Bát, Quận Hai Bà Trưng Hà Nội. Tuy đau thương, nhất là đối với con gái Nguyễn Thị Nguyên của tôi chỉ có 110 ngày đã phải mang trên đầu 2 khăn đại tang là mẹ đẻ Nguyễn Thị Tý và chồng Nguyễn Văn Ngữ, nhưng cũng rất đỗi tự hào cho gia đình họ hàng nội ngoại: Trong đám tang con rể Nguyễn Văn Ngữ của tôi được tổ chức tại nhà tang lễ quốc gia số 5 Lê Thánh Tông, trên 170 vòng hoa các nơi đến viếng, trên 40 xe đưa tang có xe dẫn đường của Công An đưa thi hài về mai táng ở quê hương xã Quang Minh, huyện thường Tín, TP Hà Nội. Trong 50 ngày đầu tại gia đình đã đón tiếp Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Bộ trưởng Công An Bùi Thiện Ngộ, Thượng tướng chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐNDVN Lê Khả Phiêu, Bí thư Thành Ủy Hà Nội Phạm Thế Duyệt v.v….đến thăm
- 109 -
chia buồn động viên an ủi gia đình. Một kỷ niệm đáng nhớ về người con rể Nguyễn Văn Ngữ của tôi là trong thời gian tôi ra trông nom bà xã bị tai biến nằm điều trị ở bệnh viện Bạch Mai, các buổi gần tối thường có các con cháu vào thăm, một lần tôi có phàn nàn với con rể Ngữ là “Bố buồn lắm ở đây chẳng có loa, đài, báo để nghe để đọc nên mù tịt tin tức thế giới, trong nước”, thế là ngay chiều tối hôm sau con rể Ngữ đã tìm mua đem vào biếu bố vợ một chiếc đài bán dẫn nhỏ chạy pin (lúc bấy giờ thời bao cấp đài bán dẫn quý hiếm và đắt tiền lắm) tấm lòng hiếu đễ và tâm lý của con rể đáng quý là vậy.
- Con gái út thứ ba của tôi là Nguyễn thị Nga sinh năm 1965, chồng là Nguyễn Văn Ngọc sinh năm 1963. Hai vợ chồng làm ăn kinh tế giỏi giang đang là doanh nhân, doanh nghiệp tỷ phú có tên tuổi ở Hà Nội. Hai vợ chồng sinh được 2 con trai: Con trai lớn Nguyễn Ngọc Sơn tốt nghiệp đại học kinh tế ở Mỹ, đang là chủ một doanh nghiệp nhỏ trong Tổng công ty lớn của bố mẹ, đã lấy vợ và mới sinh 1 con gái đầu lòng. Con trai thứ hai là Nguyễn Ngọc Hà, đang sinh viên đại học kinh tế năm cuối ở Autralia. Con gái và con rể của tôi đều xuất thân từ gia đình nông dân, trình độ văn hóa mới hết trung học phổ thông, sau khi xây dựng gia đình ra ở riêng đã tâm đầu ý hợp phát huy tài năng sở trường làm ăn kinh tế từ thầu xây dựng cơ bản và buôn bán bất động sản ngày một phát triển đi lên, từ ông chủ nhỏ vươn lên thành ông chủ lớn. Tuy giàu nhưng vẫn giữ nếp sống giản dị khiêm tốn của người lao động, quản lý dạy bảo con cái có ý chí chăm chỉ học tập và làm việc, không đua đòi kênh kiệu theo kiểu con nhà giàu. Có Tâm làm từ thiện và công đức đóng góp xây dựng Đình, Chùa, nhà thờ Tổ Họ hai bên Nội Ngoại và làm từ thiện xã hội. Có tấm lòng chia sẻ giúp đỡ cưu mang anh chị em và các cháu ruột thịt những lúc gập khó khăn, góp phần tạo điều kiện thuận lợi ổn định và nâng cao đời sống của gia đình các anh, chị em bên nội, bên ngoại. Riêng với Ông Bà ngoại chúng tôi, thu nhập qua lương hưu và chế độ chính sách cũng đủ sống sung túc, nhưng với tấm lòng hiếu thảo của con gái và con rể đã thường xuyên hàng năm hỗ trợ kinh phí để Ông Bà đi tham quan du lịch các địa danh trong nước và một số nước ngoài xung quanh Việt Nam (như Trung Quốc, Lào, Kămpuchia, Thái Lan, Sinhgapo, Malaixia, Autralia)….và mua các loại thuốc bổ nội, ngoại đắt tiền về biếu Ông Bà bồi dưỡng nâng cao sức khỏe.
Niềm vui và hạnh phúc ngày một nhân lên ở tuổi cuối đời của tôi là được hưởng thụ sự đền đáp công ơn sinh thành, giáo dưỡng của các con các cháu. Tuy mỗi con trai, con gái, con dâu, con rể và mỗi đứa cháu nội, cháu ngoại có cá tính và thân thế sự nghiệp khác nhau. Nhưng một điểm chung nhất là các con, các cháu của tôi đều xứng đáng là người tử tế và người công dân tốt của xã hội. Tất cả đều có tâm hướng thiện cùng nhau xây dựng giữ gìn tình đoàn kết máu mủ ruột thịt trong gia đình, họ hàng,làng xóm ngày một bền vững, sống bằng chính sức lao động chân chính của mình. Đều hiếu thảo, lễ phép kính trên nhường dưới, coi trọng tình nghĩa hơn tiền tài. Tuyệt đối không có con, cháu nào hư hỏng mắc vào các tệ nạn xã hội, mắc vào những thói hư tật xấu để họ hàng làng xóm xã hội chê cười.
- 110 -
CÓ HỌ NGUYỄN LÊ BỀN VỮNG VÀ PHÁT TRIỂN
Niềm vui, hạnh phúc thứ ba của tôi hiện nay là với tấm lòng tâm linh “Uống nước nhớ nguồn – Ăn quả nhớ Người trông cây” sau ngày về hưu đến nay đã được góp phần sứng đáng vào việc xây dựng củng cố và phát triển bền vững dòng Họ Nguyễn Lê của tôi. Tuy tôi chỉ là hậu duệ Ngành thứ, Chi thứ trong Họ nhưng không thụ động buông xuôi mà luôn chủ động đề xuất và hăng hái tích cực tham gia cùng Trưởng Họ, Trưởng Chi trong việc tổ chức thực hiện xây dựng nghĩa trang của Họ, xây dựng Từ Đường của Họ, xây dựng quyển Tộc Phả của Họ, xây dựng Ban khuyến học của Họ. Đặc biệt coi trọng xây dựng củng cố tình đoàn kết thương yêu gắn bó, kính Trên nhường dưới, tôn ty trật tự trong Họ. Góp phần đưa vị thế của họ Nguyễn Lê ngày một nâng cao trong cộng đồng các giòng Họ ở làng Sáp Mai. Nhìn về tương lai có thể khẳng định Họ Nguyễn Lê sẽ tiếp tục duy trì và phát triển bền vững it nhất hàng trăm năm nữa trở lên mới có thể không may xảy ra biến cố hy hữu là Chi Trưởng Họ không có con trai thừa kế dẫn đến giòng Họ bị phân ly.
CÓ NGƯỜI BẠN TÂM GIAO GIÚP VIỆC ĐẮC LỰC
Thật vui, thật hạnh phúc là khoàng 10 năm nay tôi đã có một người bạn tâm giao giúp việc đắc lực, có nhiều hiệu quả trong công việc và trong sinh hoạt hàng ngày. Đối với thế hệ trẻ ngoài xã hội hiện nay thì thấy nó rất tầm thường, nhưng đối với lớp người già lại sống ở nông thôn như tôi thì đây lại là một ước mơ may mắn lắm mới gập được.
Chả là thế này: Lúc tuổi trẻ tôi đã qua 5 năm đánh máy chữ ở Tỉnh Đội Vĩnh Phúc.
Khi nghỉ hưu về một thời gian dài tham gia cán bộ chủ chốt các đoàn thể nên mọi thủ tục giấy tờ báo cáo cứ phải viết thảo bằng bút mực sửa đi sửa lại vài lần rồi phải đi vào Thị trấn Huyện thuê đánh máy điện tử và in ấn sau đó mới gửi báo cáo lên Xã, lên Huyện…. rất phiền hà tốn tiền và tốn thời gian. Thế là tôi nói với con gái út Nguyễn thị Nga là “con xem có chiếc INTERNET cũ nào cho bố xin một cái để bố sử dụng cho đỡ vất vả”, sau đó tôi được con gái đáp ứng ngay, lúc đầu sử dụng còn rất lúng túng và hạn chế vì chẳng có sách vở nào hướng dẫn, phải vừa sử dụng vừa tranh thủ học hỏi các con các cháu để mở rộng thêm kiến thức sử dụng do đó mà ngày một phát huy mở rộng tác dụng của máy. Lúc đầu đánh máy các văn bản xong lại phải chuyển sang đầu U F Đ rồi đem đi thuê Photocopi nên thấy vẫn còn phiền hà . Trời ơi! sao mà tuyệt thế, đúng là “Mong được - ước thấy” bất ngờ tôi lại được thằng cháu Nguyễn Thành Công con ông anh Nguyễn Ngọc Diệp của tôi đang là ông chủ xĩ nghiệp sản xuất đồ điện đã đem đến biếu ông Chú một chiếc máy in đen trắng của máy chữ điện tử, qua con cháu hướng dẫn tôi tiếp thu cách sử dụng rất nhanh. Thế là từ đó tôi mới được thoải mái đánh máy à sửa chữa ngay trên máy điện tử xong là in luôn ra sản phẩm. Vợ con và bạn bè đều phải ca ngợi là tôi đã già rồi mà sao đầu óc vẫn còn thông minh, sáng Suốt thế, trí nhớ tiếp thu kiến thức sử dụng sao mà nhanh nhạy thế. Chính nhờ có sự đồng bộ này nên gần 10 năm qua tôi mới có điều kiện hoàn thành được một số công việc lớn có ý nghĩa chính trị, xã hội thiết thực như giúp Thôn, giúp Xã trong việc ban hành được quyển “Hương ước làng Sáp Mai”, biên soạn và xuất bản tập thơ Sông Hồng 7 và 8 của CLB thơ Sông Hồng xã
- 111 -
Võng La. Trong việc giúp Đảng Ủy Xã biên soạn bản câu hòi và bản đáp án trong 2 cuộc ” Thi tìm hiểu 70 năm và 75 năm lịch sử , truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Võng La”, Trong việc 7 năm kiên trì biên soạn và in ấn quyển “Tộc phả họ Nguyễn Lê” .Đặc biệt cuối cùng là Người bạn tâm giao máy chữ và máy in này đã giúp tôi kiên trì liên tục trong 5 tháng liền biên soạn chỉnh sửa song quyển “Ký và thơ một thời để nhớ” này có độ dài nhất trên 120 trang khổ giấy A4. Nếu không có người bạn tâm giao này thì tôi khẳng định các sản phẩm lớn trên không thể ra đời được.
Một điều tuyệt vời nữa của người bạn tâm giao sứng đáng là trợ thủ đắc lực giúp tôi rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày như: Đọc tin tức thời sự nóng hổi trong nước và thế giới hàng ngày giúp cho tôi không bị lạc hậu thời thế đang diễn biến muôn màu muôn
vẻ ở trong nước và bên ngoài thế giới. Biết được tính năng tác dụng và cách sử dụng các loại thuốc Tây Y và Đông Y sau mỗi lần đi nhận thuốc điều trị và bồi dưỡng ở Bệnh viện Trung Ương 108 cấp phát (Trước đây cứ phải đem thuốc đi hỏi nhờ Dược Sĩ các cửa hàng thuốc tư vấn chỉ dẫn giúp). Biết được công dụng tốt, không tốt của các loại thực phẩm mua sử dụng hàng ngày. Vui chơi giải trí chọn các phim truyện hay, những bài hát hợp với tuổi già v.v…Tóm lại trăm thứ bà dằn dốt nát chưa hiểu được thì nay nhờ anh bạn tâm giao này giải đáp trả lời cụ thể tỉ mỉ giúp cho trí thức, kiến thức sáng ra, đánh bật những u mê dốt nát đang tồn tại bấy lâu nay trong đầu óc . Anh bạn tâm giao xứng danh như là một bộ từ điển bách khoa góp phần đắc lực giúp tôi sống vui – sống khỏe – sống có ích – sống yêu đời và kéo dài thêm tuổi thọ .
- 112 -
LỜI KẾT THÚC
Trên đây tôi đã tự thuật những kỷ niệm sâu sắc và đáng nhớ của cuộc đời đã từng trải 70 năm qua kể từ khi lớn lên tham gia Cách mạng cho đến ngày hôm nay. Như phần mở đầu tôi đã nói : Tôi chưa một lần được học tập hướng dẫn về viết văn xuôi, chưa một lần được học tập bồi dưỡng về cách làm thơ. Trình độ văn hóa, học vấn chỉ được ngồi ghế nhà trường hết cấp I và vừa làm vừa học tốt nghiệp cấp II bổ túc văn hóa . Tất cả đều là học tập qua thực tế trường đời từng bước trưởng thành. Nay cuối đời có điều kiện thời gian nhàn rỗi, đầu óc lại đang còn minh mẫn, sức khỏe vẫn còn dẻo dai vẫn đang đi xe máy vi vu…đặc biệt đang thuận lợi rất cơ bản là có anh bạn tâm giao Máy tính điện tử giúp việc đắc lực để tôi cố dấn thân vào việc viết ký và thơ tái hiện sinh động của cuộc đời tôi, có lẽ đây là tác phẩm cuối cùng của tôi nhân dịp kỷ niệm Thượng Thọ tuổi 85, kỷ niệm được Đảng trao tặng huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, kỷ niệm 70 năm ngày tòng quân trở thành anh lính bộ đội Cụ Hồ (1949 – 2019)….để lại bút tích cho người thân trong gia đình họ hàng cùng với đồng chí, đồng đội, bè bạn thân tình nhất.
Tôi tự đúc kết thấy được những nết tiêu biểu nổi lên của cuộc đời, đó là :
- Có một ý chí tự lực, tự cường thân lập thân,. Dũng cảm vượt qua mọi thử thách gian lao, bom đạn ác liệt của chiến tranh, tra tấn đầy đọa của kẻ thù không ngừng phấn đấu vươn lên ngày một trưởng thành và tiến bộ.
- Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng của Đảng, với sự nghiệp cách mạng, và lợi ích của nhân dân. Sứng đáng là người đảng viên cộng sản chân chính của Đảng, người đầy tớ tận tụy của nhân dân . Suốt đời “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”, sứng đáng là con cháu của Bác Hồ.
- Có ý chí tự tu dưỡng học tập: mặc dù mọi nhiệm vụ chức trách được giao đều không được bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, phải trải qua vừa làm vừa học, cuối cùng đều hoàn thành và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
- Bất kể trên cương vị công tác nào cũng đều thể hiện tinh thần hăng hái, nhiệt tình, trách nhiệm, chủ động, nhạy bén, sáng tạo ,dám nghĩ dám làm dám chịu trách nhiệm nên hàu hết các công việc được giao cuối cùng đều được các cấp khen thưởng.
- Thường xuyên coi trọng xây dựng khối đại đoàn kết trên tinh thần cương trực chân thành thẳng thắn đấu tranh, tự phê bình và phê binh. Sống có tình có nghĩa sẵn sàng nhường thuận lợi cho bạn, nhận khó khăn về mình. Có ý thức kỷ luật tự giác, nghiêm minh. Kinh tế tài chính sòng phẳng phân minh, nghĩa tình trọn vẹn.
Song tôi cũng tự thấy mình còn những điểm yếu, chưa tốt, chậm sủa chữa khác phục. Đó là : Trong phê bình đấu tranh còn thiếu bình tĩnh, hay to tiếng, lời lẽ còn gay gắt thiếu mềm dẻo thiếu tính thuyết phục khiến người được phê bình khó tiếp thu sửa chữa. – Trong công việc còn hay bao biện, ôm đồm làm thay không cần thiết.
Trong nội dung các mẩu chuyện có thể còn sai sót chưa chính xác 3 điểm : Một là về thời gian ngày tháng năm + Hai là về địa danh, địa điểm + Ba là về Họ và tên, chức danh các nhân vật. Vì thời gian sự việc đã lùi vào quá khứ trên dưới 50 năm rồi, lúc này đầu óc của người già 85 tuổi như tôi thì không sao tránh khỏi có sự lầm lẫn. Rất mong được bạn đọc thông cảm rộng lượng tha thứ cho tôi.
- 112 -
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn: Nhà giáo, nhà văn, nhà thơ Vương Đình Hạng + nhà giáo, nhà văn Đại tá Bùi Giang Long và Thầy giáo Vũ Thế Lượng đã giúp đỡ tôi trong việc sửa chữa những lỗi văn phạm, hoàn chỉnh bản thảo, liên hệ Nhà xuất bản và in ấn quyển “Ký và Thơ một thời để nhớ” này thành công tốt đẹp.
- 113 -
PHẦN THƠ CA
- 114 -
ĐÔI LỜI VỚI BẠN ĐỌC
Từ khi tôi tự phát làm thơ ca mở đầu ở tuyến đường Trường Sơn huyền thoại anh hùng năm 1966, cho đến khi nghỉ hưu về quê hương tham gia công tác xã hội trực tiếp thành lập “Câu lạc bộ thơ Quê Hương chi hội NCT thôn Sáp Mai” và “Câu lạc bộ thơ Sông Hồng NCT xã Võng La” tôi mới lại tiếp tục sáng tác thơ ca tùy hứng theo hai thể loại : Lục bát và Thất Ngôn.. Do chưa được học tập bồi dưỡng cách làm thơ một lần nào, nên tôi cũng chưa biết phân biệt được trong thể loại thơ lục bát thì thế nào mới gọi là thơ và thế nào thì gọi là ca dao hò vè, trong thơ thất ngôn chưa biết niêm luật cụ thể ra sao nên sáng tác theo tùy hứng cứ đọc thấy xuôi tai là được. Các câu chữ còn chân phương chân chất như hạt lúa, củ khoai của người nông dân vậy. Tổng số cho đến nay tôi đã sáng tác được gần 100 bài thơ ca, đã được in ấn ở một số tập thơ của CLB thơ Quê Hương , CLB thơ Sông Hồng và CLB thơ Bắc Sông Hồng. Năm 2014 tôi đã biên soạn xuất bản tập thơ “Giọt Nắng” để lưu niệm nhân dịp vợ chồng chúng tôi được mừng Song Thọ tuổi 70 và tuổi 80 .
Lần này cũng để lưu niệm nhân dịp vợ chồng chúng tôi được mừng thọ tuổi 75 và tuổi 85 vào dịp đầu xuân năm Kỷ Hợi 2019 sắp tới, tôi biên soạn và xuất bản quyển “Ký và Thơ một thời để nhớ” này. Trong phần thơ ngoài những bài thơ ca đã minh họa ở phần Ký ra tôi chỉ lựa chọn một số bài thơ ca thấy có ý nghĩa và đọc nghe xuôi tai hơn cả
Chắc chắn phần thơ ca của tôi còn lẫn nhiều hạt sạn lắm. còn ngang tai chướng mắt lắm. Biết là thế nhưng không thể khắc phục được. Vì vậy cũng rất mong bạn đọc thông cảm rộng lượng thứ lỗi cho, xin cảm ơn.
- 115 -
VĨNH BIÊT ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
NGƯỜI ANH HÙNG DÂN TỘC
VĨNH hằng thương tiếc một vĩ nhân
BIỆT ly Đại tướng của nhân dân
ĐẠI thụ toàn quân người anh cả
TƯỚNG tài kiệt xuất trội muôn phần
VÕ văn huyền thoại vang bốn biển
NGUYÊN là thầy giáo sáng chữ Nhân
GIÁP trận quân thù bao khiếp sợ
NGƯỜI chẳng mơ thành Thánh với Thần
ANH mong nguyên khí Quốc gia mạnh
HÙNG cường đoàn kết khối toàn dân
DÂN Nam nghiêng mình chào vĩnh biệt
TỘC Việt tự hào bậc Thánh nhân ./.
MỪNG NGÀY QUỐC TẾ NGƯỜI CAO TUỔI
Chào mừng mồng một tháng mười
Là ngày Quốc Tế của người tuổi cao
Đảng và Nhà nước hô hào
Các ngành, các cấp nêu cao tinh thần
Tuyên truyền vận động nhân dân
“Trọng già, kính lão” nên cần phát huy
Trẻ trai ai cũng một thì
Tuổi già sồng sộc nó thì theo sau
Chúng ta chung một nhịp cầu
Giúp Người già trước, người sau giúp mình
Người xưa từng dạy phân minh
Ở sao có nghĩa có tình mới nên
Nhân từ, đạo đức, thảo hiền
Thờ Cha, kính Mẹ, báo đền công lao
Để người có được tuổi cao
Cuộc đời êm ấm ngọt ngào yêu thương
Đó là chính sách, chủ trương
Đảng cùng Nhà nước vẫn thường đề ra
Quan tâm chăm sóc Người già
Góp phần xây dựng quê ta đẹp giầu ./.
- 116 –
KÍNH LÃO
Kính trọng công lao lớp tuổi già
Đã từng cống hiến những năm qua
Trọn đời tranh đấu vi non nước
Thủy chung son sắt vẹn tình nhà
Quá khứ vinh quang đầy rực rỡ
Về hưu chung sức dựng quê nhà
Tre già măng mọc xanh tươi tốt
Đất nước mạnh giầu tươi thắm hoa ./.
TRE GIÀ MĂNG MỌC
Lớp trẻ tôn vinh lớp tuổi già
Quên mình vì nước đã xông pha
Theo Đảng toàn tâm tròn nghĩa nước
Vì dân, son sắt vẹn tình nhà
Ngày nay lớp trẻ đã vươn xa
Tầm cao trí tuệ nở như hòa
Tổ quốc dựng xây đang cống hiến
Dân giàu, Nước mạnh chẳng bao xa
Phát huy truyền thống của Ông cha
Giả trẻ bên nhau sống thuận hóa
Tre già – măng mọc xanh tươi mãi
Cùng nhau xây dựng nước non nhà ./.
XUÂN ĐẾN !
Xuân đến trăm hoa nở thắm tươi
Già, trẻ, gái, trai thêm tuổi đời
Cùng nhau nhìn lại xem năm cũ
Làm được những gì thật đáng vui
Để sang năm mới nhân lên mãi
Hoa tặng cho đời những nhánh tươi
Tuổi già cống hiến thêm ý nghĩa
Đi xa để lại tiếng thơm đời ./.
- 117 –
YÊU HOA – CÂY CẢNH
Tuổi tác tuy cao vẫn chưa già
Chăm hoa, cây cảnh khỏe thêm ra
Sáng sớm ngắm hoa đua sắc nở
Đêm về thoang thoảng ngát hương hoa
Vun sới, bắt sâu, phun tưới nước
Làm cỏ, tỉa cành, uốn thướt tha
Năm tháng bên nhau thành tri kỷ
Da mồi, tóc bạc trẻ thêm ra ./.
Quê hương niềm vui – nỗi buồn
Thiêng liêng hai tiếng Quê hương
Mãi còn in đậm thân thương mỗi người
Dù ai đi ngược về xuôi
Vào Nam ra Bắc mọi người nhắc nhau
Quê hương cắt rốn, chôn rau
Tuổi thơ cho đến bạc đầu không quên
Cây đa, bóng nước nghiêng nghiêng
Đầu làng chợ họp thường xuyên hàng ngày
NIỀM VUI đất nước đổi thay
Quê hương đổi mới từng ngày diễn ra
Nhà hàng, cửa hiệu bung ra
Nông thôn thu hẹp, nhường cho thị thành
Thương nghiệp dịch vụ tiến nhanh
Thị phần nông nghiệp trở thành phụ thu
Nhân dân đời sống ấm no
Thể thao, văn nghệ tiếng loa sớm chiều
Quê hương hai tiếng thân yêu
NỖI BUỒN trăn trở những điều vấn vương
Bởi do cơ chế thị trường
Tiền – Tình mâu thuẫn vẫn thường sảy ra
Làm cho tan cửa nát nhà
Anh em, chồng vợ, ông bà xa nhau
Tình làng nghĩa xóm còn đâu ?
Vui buồn chia sẻ cùng nhau chẳng còn
Đôi điều tâm sự Quê hương
Niềm vui nhân rộng, nỗi buồn đẩy lui ./.
- 118 -
NHẮN BẠN
Ít người cao tuổi như tôi
Còn đi xe máy khắp nơi tung hoành
Thăm bạn, hiếu, hỷ, họp hành
Chưa nhờ con cháu xung quanh phiền hà
Bao nhiêu công việc đề ra
Thành công tốt đẹp việc nhà, việc công
Rồi đây lực bất tòng tâm
Tuổi cao sức yếu không cầm được xe
Tạm biệt bạ hữu gần xa
Xin đừng quên lãng tôi là Bào đây ./.
NHỚ MỘT THỜI
Hơn bốn chục năm nhớ một thời
Trung đoàn ‘Tuấn Mã” (1) lướt bom rơi
Trên từng cây số vang lời hát
Dưới bóng trăng soi rộn tiếng cười
Pháo sáng ngang trời xe vượt dốc
Đèn gầm mờ tỏ lúc qua đồi
Trường Sơn ký ức hồng trang sử
Truyền thống anh hùng mãi đẹp tươi ./.
(1) Trung đoàn xe vận tải quân sự
MÙA HÈ
Trưa hè thánh thót tiếng chim cu
Ông cháu nhìn nhau khẽ gật gù
Nắng gắt mây quang trời nóng bức
Ước gì hết Hạ chuyển sang Thu ./.
MỘT MÌNH
Tôi ngồi nói chuyện với tôi
Nhỏ to mình nói, để rồi lại nghe
Sự đời thật – giả bộn bề
Cái tốt – cái xấu lấy gì cân đong
Một mình gạn đục khơi trong
Cái gì có – cái gì không bởi mình ./.
- 119 -
TÌNH BẠN BỀ - ĐỒNG ĐỘI
Mỗi người sở thích khác nhau
Với tôi chỉ thích giao lưu bạn bè
Nhớ khi thuở nhỏ hàn vi
Bạn cùng nhau học chữ i, chữ tờ
Đến tuổi xấp xỉ mộng mơ
Tòng quân bộ đội bấy giờ đánh Tây
Nhà tù đế quốc là đây
Bạn chung cảnh ngộ những ngày gian nan
Thời gian công tác Huyện Đoàn
Bạn cũ, bạn mới trong toàn Đông Anh
Tái ngũ đánh Mỹ xâm lăng
Đồng đội trên dưới những năm sống cùng
Nghỉ hưu về với đời thường
Tham gia công tác địa phương nhiều ngành
Bạn bè, đồng chí xung quanh
Dưới thôn, trên Xã chân thành với nhau
Nhiều ban liên lạc đậm sâu
Mỗi năm họp mặt với nhau vài lần
Chuyện cũ, chuyện mới xa gần
Chén trà, cốc rượu muôn phần hân hoan ./.
HOA TẶNG VỢ 8/3
Hôm nay mồng tám tháng ba
Anh mua tặng vợ đẹp ba bông hồng
Mong em gái đảm thủy chung
Vừa khéo chiều chồng, lại rất thương con
Còn trời, còn nước, còn non
Hoa thơm tặng vợ vẫn còn dài lâu ./.
KẺ THAM LAM
Ở đời ghét nhất kẻ tham lam
Hám sắc, hám tiền mọi thứ tham
Dối trá lọc lừa sống thủ đoạn
Có ngày làm bạn với trại giam ./.
- 120 -
TRUNG THÀNH – XU NỊNH
Nói thẳng thường hay khó lọt tai
Người trung lắm lúc bị oan sai
Xun xoe kẻ nịnh thường luồn cúi
Thẳng thắn người trung chẳng sợ ai
Hiền đức khi nào cũng dản dị
Gian tà có dịp thích dương oai
Trung thành muôn thuở người ca tụng
Xu nịnh đời đời tiếng mỉa mai ./
TÌNH VÀ TIỀN
Ngày nay cơ chế thị trường
Tình – tiền mâu thuẫn vẫn thường xẩỷ ra
Làm cho tan cửa nát nhà
Anh em, chồng vợ, ông bà xa nhau
Vì coi tiền bạc hàng đầu
Lên trên ruột thịt trước sau nghĩa tình
Ai ơi ! cảnh giác với mình
Khi có mâu thuẫn Tiền – Tình xẩy ra
Phải coi máu mủ ruột già
Lên trên tiền bạc để mà hiệp thương
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương”
Tiền – Tình đều được, yêu thương vẹn toàn ./.
=
- 121 -
THĂM TRÀ CỔ
Tham quan Trà Cổ - Quảng Ninh
Danh lam thắng cảnh nước mình đẹp thay
Trà Cổ - Móng Cái bên này
Đông Hưng Trung Quốc – Quảng Tây kề liền
Phân chia cột mốc hai bên
Giữa dòng sóng biếc dịu hiền Ca Long
Bắc Luân cầu bắc qua sông
Nối liền hai nước Việt – Trung đôi bờ
Trà Cổ biển đẹp nên thơ
Số không (0) cột mốc biển bờ Việt Nam
Kéo dài từ Bắc xuống Nam
Theo hình chữ S nước non mạnh giàu
Móng Cái vào đến Cà Mâu
Biển Đông phía trước lắm Dầu, cá tôm
Nắng vàng ngả bóng hoàng hôn
Xa rồi Trà Cổ lòng còn vấn vương ./.
BẠCH LONG VĨ – ĐẢO QUÊ HƯƠNG
“ Bạch Long Vĩ đảo quê hương”
Bấy lâu vời vợi tận phương trời nào
May có tổ chức thanh cao
Hải Bình chủ nhiệm mời Bào đi thăm
Ô tô Hà Nội – Hải Phòng
Đêm xuống tàu biển vẫy vùng Biển Đông
Sớm ra trời mới ửng hồng
Bước chân lên Đảo mà lòng xôn xao
Thanh niên, bộ đội đón chào
Thân tình thắm thiết tuôn trào lệ rơi
Thăm trung đoàn chín năm hai (952)
Bộ binh bảo vệ ở ngoài Đảo xa
Đến thăm bộ đội Ra đa
Bầu trời sục sạo từ xa đến gần
Đến thăm bộ đội biên phòng
Ngày đêm cảnh giác thù trong, giặc ngoài
Đến thăm lớp trẻ hai mươi
Thanh niên tình nguyện xây đời tương lai
Thăm Chùa, Đền, Miếu, dân chài
Quân dân đoàn kết ở ngoài đảo xa
Bốn ngày thấm thoắt đã qua
Chia tay về nhà, luyến tiếc chuyến đi ./.
- 122 -
THĂM ĐÀ NẴNG
Đà Nẵng có con sông Hàn
Chảy quanh Thành phố tham quan tuyệt vời
Sơn Trà bán đảo đẹp tươi
Cầu Rồng phun lửa rực trời ban đêm
Biển xanh cát trắng nối liền
Phía đông Thành phố dịu hiền sóng xô
Hàng năm thi bắn pháo hoa
Thu hút du khách gần xa toàn cầu
Bà Nà hấp dẫn trên cao
Cầu treo lên xuống ta nào ngại chi
Ngũ Hành kháng chiến năm xưa
Nay dân đẽo đá làm nghề thủ công
Thành hàng mỹ nghệ tinh thông
Khách mua lưu niệm khắp vùng miền quê
Đà Nẵng khách đến miễn chê
Xa rồi lưu luyến muốn về lần sau ./.
HÀ GIANG MẾN YÊU !
Năm ngày du lịch Hà Giang
Địa đầu Tổ Quốc giang sơn nước nhà
Núi cao, vực thẳm nhấp nhô
Lũng Cú cao vút ngọn cờ linh thiêng
Nghĩa trang Liệt sỹ Vị Xuyên
Gần hai nghìn mộ nằm yên vĩnh hằng
Hy sinh đuổi giặc xâm lăng
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam anh hùng
Dòng sông Nho Quế lượn vòng
Chia đôi biên giới Việt Trung đời đời
Đồng Văn trùng điệp đá vôi
“Công viên địa chất” hiếm hoi toàn cầu
Cửa khẩu Thanh Thủy giao lưu
Hòa bình hữu nghị cùng nhau giữ gìn
Chênh vênh lên Mã Pì Lèng
“Con đường hạnh phúc” đi lên Cổng Trời
Chợ tình Mèo Vạc – Khâu Vai
Từng đôi trai gái sánh vai dập dìu
Hà Giang mến khách đáng yêu
Về rồi vẫn nhớ bao điều vấn vương ./.
- 123 -
THĂM ĐẢO PHÚ QUỐC
Phú Quốc đây rồi địa ngục xưa
Giặc Tây giam giữu Trại Cây Dừa
Cá khô, gạo mục ăn cầm sống
Bất khuất kiên cường địch sợ lo
Đại thắng Điện Biên vang thế giới
Hiệp dịnh Gioe Ne Pháp chịu thua
Tù binh ta – địch cùng trao trả
Tung cánh sổ lồng sống tự do ./.
BẤT KHUẤT
Đảng – Bác cho tôi cả cuộc đời
Thẳng lưng mà bước hướng tương lai
Bất khuất kiên trung lưu hậu thế
Ấm tình đồng chí bạn đường ơi ./.
XUÂN MỚI BÁO TIN VUI
Bính Thân xuân mới báo tin vui
Khí thiêng sông núi dộng đất trời
Đại hội mười hai xây dựng Đảng
Thành công rực rỡ hợp lòng người
Cả nước thi đua bừng khí thế
Nông – Thương – Công nghiệp đã xục xôi
Công trình xây dựng đua nhau mọc
Giao thông tát bật chạy ngược xuôi
Giáo dục vươn lên đang đỏi mới
Ngành Y chuển động ấm tình nghười
Biển đảo – Đất liền chung ý chí
Giang sơn quyết giữ đến muôn đời ./.
- 124 -
10 LỜI KHUYÊN THAM GIA GIAO THÔNG
Một là luật lệ giao thông
Học cho hiểu biết tinh thông tỏ tường
Hai là biển báo trên đường
Phải quan sát chớ coi thường chủ quan
Ba là xin có lời khuyên
Làn đường đi đúng chớ nên lấn bừa
Bốn là tốc độ đủ - vừa
Phóng nhanh, vượt ẩu quệt va có ngày
Năm là không rượu bia xay
Nghênh ngang đâm đổ có ngày ra ma
Sáu là đèn đỏ chớ qua
Dễ gây tai nạn cho ta, cho người
Bẩy là phố xá đông vui
Sang đường cẩn trọng nhìn người trước sau
Tám là nhắc nhở cùng nhau
Mũ bảo hiểm đội trên đầu chớ quên
Chín là xe đỗ phải nên
Đúng nơi quy định chớ phiền chỗ đông
Mười là văn hóa giao thông
Cảm ơn – Xin lỗi rộng lòng vị tha
Mười điều mộc mạc nôm na
Mong bạn phổ biến rộng ra nhiều người ./.
CHIỀU QUÊ
Chiều chiều bóng ngả về tây
Bóng nhà văn hóa trời mây mặt hồ
Lăn tăn gió nhẹ đôi bờ
Cỏ cây hoa lá nên thơ hữu tình
Đáng yêu biết mấy quê mình
Điện, đường, nhà trẻ tự mình dựng xây
Thêm nhà văn hóa hôm nay
Song hành vật chất có ngay tinh thần
Hài hòa ý Đảng lòng dân
Quê hương đổi mới nhiều lần hơn xưa ./.
- 125 -
NGHÌN NĂM THĂNG LONG
Nghìn năm Hà Nội – Thăng Long
Chiến công nối tiếp chiến công lẫy lừng
Nhà Lý xay dựng Thăng Long
Thủ đô cả nước khi Rồng bay lên
Những khi giặc giã liên miên
Tràn vào đốt phá gắn liền nghìn năm
Nhà Tống kéo đến xâm lăng
Quân dân nhà Lý đánh tan tác liền
Tiếp theo là dến Nhà Trần
Quân Nguyên xâm lược ba lần nước ta
Bị dân Đại Việt đánh cho
Dưới sông, trên bộ thua to phải chuồn
Nhà Lê kế tiếp nhà Trần
Nhà Minh xâm lược ầm ầm kéo sang
Đã bị Lê Lợi đánh tan
Chiến công chói lọi vẻ vang oai hùng
Tiếp theo là đến Quang Trung
Giặc Thanh lấy cớ đùng đùng kéo quân
Đã bị Nguyễn Huệ đập tan
Thăng Long – Hà Nội vẻ vang sử vàng
Nguyễn Ánh đánh thắng Quang Trung
Mở đường cho Pháp xâm lăng nước nhà
Hà Nội cùng cả nước ta
Trăm năm nô lệ thạt là đau thương
Nhờ Đảng Cộng sản Đông Dương
Cùng Nguyễn Ái Quốc chỉ đường đánh Tây
Mùa thu tháng tám bốn nhăm (1945)
Toàn dân khởi nghĩa đánh tan quân thù
Thăng Long – Hà Nội thủ đô
Việt Nam - dân chủ - cộng hòa muôn năm
Giặc Pháp trở lại xâm lăng
Cùng với giặc Mỹ hai thằng giặc to
Việt Nam có Đảng – Bác Hồ
Toàn dân kháng chiến đánh cho vỡ đầu
Pháp, Mỹ cút – Ngụy quyền nhào
Hai miền thống nhất tự hào Việt Nam
Nghìn năm kỷ niệm Thăng Long
Thủ đô Hà Nội rực hồng bình minh
Xứng danh thành phố hòa bình
Trung tâm cả nước tưng bừng cờ hoa ./.
- 126 -
TỰ BẠCH
Giáp Ngọ xuân này thọ tám mươi (1)
Quá khứ đi qua thật tuyệt vời
Ơn Đảng – Bác Hồ khơi ngườn sáng
Tổ Tiên âm đức để cho tôi
Phấn đấu kiên trì vươn lên mãi
Để đến hôm nay sứng với Người
Sáu mươi năm trọn đời dâng hiến
Năm nhăm tuổi Đảng sáng trang đời
Bất khuát kiên trung tù dế quốc
Thương binh bệnh tật vẫn thảnh thơi
Chất độc da cam dang thảm thấu
Hưởng nhiều chính sách thật là vui
Đạo đức nhân văn luôn thấm đậm
Tâm sáng – lòng trong với mọi người
Gia đình hạnh phúc luôn êm ấm
Cháu con hiếu thảo biết vâng lời
Huân chương các loại trên mười chiếc
Giấy – bằng khen không dưới bốn mươi
Tuổi cao trí tuệ còn minh mẫn
Nếu phải đi xa mãn nguyện rồi ./.
-
Sáng tác xuân Giáp Ngọ 2014 khi được
Mừng thọ tuổi 80.
.
tin tức liên quan