“ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN”
ĐẠI TƯỚNG VĂN TIẾN DŨNG
Chương 12
CHIẾN DỊCH MANG TÊN BÁC
Trưa ngày 3 tháng 4, cách Bù Gia Mập quãng 50km về phía bắc, chúng tôi gặp đồng chí Thượng tá Mai Văn Phúc (Tư Phúc), Phó Cục trưởng Cục Hậu cần Miền ra đón. Đứng trên đỉnh đồi thông lưa thưa chung quanh còn nhiều vết tích của những trận đánh ác liệt "vượt biên" của Mỹ năm 1970, chúng tôi tay bắt mặt mừng, niềm vui trong từng khóe mắt. Chúng tôi cảm động vì đây là lần đầu được đặt chân lên đất Nam Bộ, miền đất kiên cường, tiền tuyến anh hùng ở xa Trung ương, mảnh đất thành đồng mà Bác Hồ luôn nhớ, luôn thương và Bác đã chỉ thị cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cống hiến tất cả cho sự nghiệp giải phóng miền đất Nam Bộ này. Chúng tôi đứng nhìn cảnh vật chung quanh. Xin kính chào miền Nam đi trước về sau, chiến trường gian khổ của Tổ quốc, kính chào tất cả các đồng chí chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ đã giữ vững gan vàng dạ sắt suốt mấy chục năm trời liên tục chống chọi với những kẻ thù độc ác và giàu mạnh nhất, nêu lên một tàm gương bất khuất, lạc quan cách mạng và liên tục tiến công. Chúng tôi vào nghỉ trưa ở Đoàn 770, một binh trạm của Cục Hậu cần Miền. Đường vào trạm kín đáo, không có dấu bánh xe, nhà cửa vững chãi, kín đáo, có luống rau, vườn chuối, bồn hoa, những dàn phong lan đang nở và có cả một đàn gia súc. Chung quanh nhà có hào giao thông, hầm trú ẩn, trạm gác. Tất cả những gì ở đây tuy nhỏ, còn ít nhưng tiêu biểu cho tinh thần kiên trì bám đất, giữ vững địa bàn, tinh thần tự lực cánh sinh, sẵn sàng chiến đấu của các cơ quan và đơn vị miền Đông Nam Bộ, một trong những căn cứ địa gian khổ và vững chắc của miền Nam. Buổi chiều trên đường về cơ quan của Bộ chỉ huy Miền, chúng tôi đã đi qua những rừng cao su, nhiều chỗ bị máy bay địch đánh phá nham nhở, qua những vườn hồ tiêu, sầu riêng, nhìn thấy những quả mít tố nữ, những rặng dừa mới trồng. Thị trấn Lộc Ninh đã ở trước mắt chúng tôi. Dấu vết chiến tranh còn lại trên thị trấn nhưng đã thấy nhiều nét thay đổi sau ba năm giải phóng. Đường sá đang được mở rộng, nhà tranh mới làm chạy dài hai bên đường, những bãi sắn, vạt ruộng đang lên xanh tốt, và trong rừng cao su nhiều công nhân đang vun gốc, làm cỏ và hứng nhựa. Lộc Ninh được giải phóng năm 1972 cùng với toàn tỉnh Phước Long được giải phóng đầu năm nay đã trở thành một căn cứ quan trọng của ta và hiện nay trở thành một địa bàn rộng lớn rất thuận lợi cho cuộc tiến công vào Sài Gòn sắp tới. Chúng tôi gặp trên đường nhiều đoàn xe chở bộ đội vui vẻ hành quân lên phía trước. Các đồng chí nam nữ du kích Lộc Ninh đứng gác ở các ngã ba đường, kiểm soát kỹ các loại xe cộ đi vào vùng căn cứ. Chào các đồng chí, những chiến sĩ kiên cường. Trong những năm chiến đấu ác liệt, chiến công vang lừng của các đồng chí làm cho chúng tôi rất kính phục và tự hào. Nhìn những trảng lớn, những rừng cao su, những vườn trái, những đồi đất đỏ của Lộc Ninh, tôi nhớ lại một đoạn thơ của đồng chí Tố Hữu trong bài "Nước non ngàn dặm": Bình Long, Nam Bộ ta ơi Buổi đầu mới giáp mặt người sáng nay Cầm hòn đất đỏ trong tay Trái tim bỗng nghẹn như say rượu nồng Ôm anh giải phóng vào lòng Đã mơ chạy khắp cánh đồng Cà Mau. Gần tối ngày 3 tháng 4, chúng tôi về đến cơ quan của Bộ chỉ huy Miền ở phía tây thị trấn Lộc Ninh. Đồng chí Đinh Đức Thiện đi thẳng vào cơ quan Cục Hậu cần của Bộ chỉ huy Miền. Phần lớn các đồng chí Trung ương Cục đều đã tới. Tôi liền sang thăm đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, ở nhà phía bên kia khóm cây. Nhìn vào nhà, dưới ánh sáng ngọn đèn phòng tôi thấy đồng chí đang ngồi bên bàn, áo phanh hở ngực, tay cầm chiếe quạt bằng vải dù. Thấy tôi tới, đồng chí đứng dậy vui vẻ: "Chúng tôi đang chờ đồng chí đây". Chúng tôi bắt tay và ôm hôn nhau, mừng vui xiết bao khi tôi nói với đồng chí là thắng lợi vượt bậc, nhanh quá, cho nên tôi vào đây sớm hơn dự tính như khi họp ở Hà Nội. Sài Gòn chắc chắn sẽ được giải phóng đúng thời hạn Bộ Chính trị chỉ thị. Tôi nói qua về thắng lợi Tây Nguyên, đồng bằng ven biển Khu 5, về tình hình các binh đoàn chủ lực của ta đang trên đường hành quân vào mặt trận này. Sau đó chúng tôi trao đổi ý kiến về chương trình làm việc trong những ngày sắp tới, trước khi đồng chí Lê Đức Thọ đến. Văn phòng Bộ chỉ huy Miền đã thu xếp trước nơi làm việc và sinh hoạt của Đoàn A.75. Một số nhà gỗ lợp lá được cấp tốc dựng lên. Hầm hố phòng không được đào thêm. Và để chuẩn bị cho cán bộ đến tiếp sau, một số lều vải được tạm thời dựng chung quanh. Đêm xuống, khu rừng trở nên rộn ràng, tiếng máy nổ phát điện, tiếng động cơ các loại xe đi đi, về về hoà lẫn tiếng đài thu thanh trong các lán. Đây là đêm đầu tiên chúng tôi nghỉ trên đất miền Đông Nam Bộ. Đồng chí Trần Văn Trà đi xuống Quân đoàn 4 để kiểm tra kế hoạch của quân đoàn tiến công Xuân Lộc cũng vừa về trong đêm. Trời vừa sáng, đồng chí đã sang chỗ tôi ở. Chúng tôi vui mừng kể cho nhau nghe những chuyện vừa qua ở từng chiến trường và bàn sơ bộ về cách tổ chức làm việc giữa Đoàn A.75 với Bộ Tham mưu Miền. Sáng sớm ngày 4 tháng 4, chúng tôi đã liên lạc được bằng điện thoại với Hà Nội. Đây là một cố gắng lớn của tiểu đoàn thông tin vừa ở Tây Nguyên đến và có sự phối hợp chặt chẽ của đơn vị thông tin Miền. Tiểu đoàn thông tin này vừa được tổ chức xong đầu năm 1975 thì hành quân vào Tây Nguyên, bảo đảm cho Sở chỉ huy làm việc suốt thời gian chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Tất cả cán bộ và chiến sĩ lại được lệnh lên đường vào Nam Bộ phục vụ trận quyết chiến chiến lược cuối cùng phối hợp với tất cả các đơn vị và phương tiện thông tin khác của Miền. Đồng chí Thượng tá Hoàng Niệm, Phó Tư lệnh bộ đội thông tin, ngày đêm vất vả, vừa tổ chức thông tin cho Sở chỉ huy, vừa huấn luyện cho các chiến sĩ thông tin mới bước vào chiến trường này. Xe gắn máy, một phương tiện giao thông độc đáo ở đây, hoạt động liên tục ngày đêm. Các đồng chí lái chở chúng tôi đi trong khu vực của các cơ quan trực thuộc Bộ chỉ huy Miền, đóng phân tán trong một vùng rộng đề phòng máy bay địch đánh phá. Khi chúng tôi còn ở Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh B.2 (gồm Nam Bộ và Khu 6) biệt phái một đội xe gắn máy lên giúp, nay cùng trở về miền Đông Nam Bộ với đoàn xe hơi. Các đồng chí lái xe cổ quấn khăn rằn, vai đeo tiểu liên báng gập đi sát đoàn xe chúng tôi, hướng dẫn đi đúng lộ trình, khi thì vượt lên trước với tốc độ cao để bắt liên lạc với xe tiền trạm, khi thì tụt lại sau tìm xe chậm, bị lạc. Đêm đêm, trong các đường rừng gồ ghề, khúc khuỷu, các đồng chí mang các bức điện đến các xe thông tin vô tuyến, thường làm việc về đêm, vì ngày phải hành quân, và bao giờ cũng trú quân ở cách xa chúng tôi để bảo đảm an toàn bí mật cho các đồng chí chỉ huy và hệ thống điện đài, tránh sự trinh sát điện tử của máy bay và biệt kích địch. Các đồng chí trong Trung ương Cục và Quân uỷ Miền hoạt động nhiều năm trên chiến trường Nam Bộ, am hiểu sâu sắc về địch và ta, về tình hình Sài Gòn, giúp chúng tôi tìm hiểu được mau tình hình chiến trường Nam Bộ nói chung và tình hình Sài Gòn - Gia Định nói riêng. Sau mấy ngày nghe các đồng chí trong Bộ Tham mưu Miền báo cáo, ngày 7 tháng 4, chúng tôi dự họp với Trung ương Cục và Quân uỷ Míền. Trong buổi họp hôm đó có các đồng chí Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc), Trần Nam Trung, Trần Văn Trà, Phan Văn Đáng (Hai Văn), Võ Văn Kiệt (Sáu Dân), Phạm Văn Xô (Hai Xô) và các đồng chí Trung tướng Lê Đức Anh, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Miền, Thiếu tướng Nguyễn Huy Tưởng (Hai Lê), phó Chính uỷ Bộ chỉ huy Miền, Thiếu tướng Đồng Văn Cống, Phó Tư lệnh Miền, Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, Đại tá Lương Văn Nho và một số cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần. Đồng chí Trung tướng Đinh Đức Thiện cùng dự họp. Ở đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục, cũng như các đồng chí khác, luôn luôn có một tác phong giản dị, một niềm lạc quan sôi nổi, một ý chí quyết thắng sắt đá. Phòng họp luôn có tiếng cười hồn nhiên, thoải mái. Hội nghị đã xem xét kỹ tình hình Nam Bộ, đặc biệt là tình hình thành phố Sài Gòn trong thời cơ thắng lợi chúng ta đã tiêu diệt và làm tan rã hai quân đoàn, giải phóng các tỉnh, thành phố trong hai Quân khu 1 và 2 của địch. Hội nghị nghiên cứu quán triệt những chỉ thị của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và bàn các biện pháp cần thực hiện nhằm đẩy mạnh hoạt động quân sự, chính trị, giành thắng lợi mới, tạo thời cơ và điều kiện cho trận quyết chiến tổng công kích và nổi dậy giải phóng Sài Gòn, giải phóng các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Khi bàn đến vấn đề bảo đảm hậu cần, đồng chí Phạm Hùng hỏi tình hình đạn dược của ta đã chuẩn bị đến đâu, đồng chí Đinh Đức Thiện đưa ra bản thống kê số đạn đã nhận được, số đạn đang chở các nơi đến và nói: - Xin báo cáo với các anh là đạn của ta đủ bắn để nó sợ đến ba đời. Và mỗi lần bàn đến từng thứ cần thiết chuẩn bị cho chiến dịch, có cái đã gần đủ, có cái còn thiếu nhiều, thì đồng chí Phạm Hùng lại chỉ thị biện pháp khắc phục, thỉnh thoảng nhắc lại câu nói của đồng chí Đinh Đức Thiện: làm sao cho có, cho đủ và nhanh "để đánh cho nó sợ đển ba đời" khiến mọi người trong cuộc họp cười rộ lên. Trung ương Cục và Quân uỷ Miền họp trong một không khí khá sôi nổi, náo nức của toàn Miền: các huyện, tỉnh ở Khu 9, Khu 8 liên tiếp báo về những thành tích chiến đấu và xây dựng trong mấy ngày đầu tháng 4 năm 1975. Trà Vinh cho biết, trước chỉ có 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương, nay đã tăng lên 5 tiểu đoàn rồi. Rạch Giá có xã tuyển trong một ngày được 200 tân binh để lập thêm tiểu đoàn của tỉnh, còn ở mọi xã có một đại đội du kích. Bộ đội địa phương Quân khu 9 đánh chiếm cứ điểm Cái Vồn, Chợ Gạo, Long An đang mở rộng nhanh vùng giải phóng. Chiều ngày 7-4, chúng tôi đang họp thì một chiếc xe gắn máy chở một đồng chí người dong dỏng cao, mặc áo sơ mi màu xanh da trời, quần ka ki, đầu đội mũ cứng bộ đội, vai đeo một chiếc xà cột to bằng da màu đen, đến đỗ ngoài sân. Chúng tôi nhận ra ngay đấy là đồng chí Lê Đức Thọ. Cả phòng họp náo động, vui lên, mọi người đứng dậy. Chúng tôi ôm nhau hôn, mừng rỡ sung sướng. Đây là chuyến đi công tác thứ ba vào Nam Bộ của đồng chí Lê Đức Thọ trong ba mươi năm qua, kể từ khi Nam Bộ bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ. Có lần đồng chí đi bộ, vượt qua những đoạn đường rừng hiểm trở, băng qua những bãi bom B.52, mang theo cơm nắm, lương khô. Lần này đồng chí đi máy bay, đi xe hơi và đi cả xe gắn máy để vào tới đây. Đồng chí Lê Đức Thọ tươi cười kể chuyện trong nước, dư luận thế giới trước thắng lợi của ta, chuyện hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa và cả chuyện đi đường. Đồng chí cho biết: trước khi đồng chí lên đường, Bộ Chính trị và Bác Tôn căn dặn là "Ra đi không thắng thì không được về". Ngày 8 tháng 4, trong cuộc họp đông đủ của Trung ương Cục, Quân uỷ Miền và Bộ Tư lệnh B.2, có thêm các cán bộ của Bộ Tổng tư lệnh tham dự, đồng chí Lê Đức Thọ phổ biến nội dung Nghị quyết của Bộ Chính trị họp ngày 25 tháng 3 ở Hà Nội. Đồng chí nói về nhận định của Bộ Chính trị về tình hình địch, ta trên chiến trường, âm mưu Mỹ - nguỵ trước những thất bại vừa qua và nguy cơ sụp đổ sắp đến của chúng. Sau đó đồng chí nói kỹ về quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, nhấn mạnh đến tư tưởng chỉ đạo để thực hiện bằng được quyết tâm đó. Cuối cuộc họp, đồng chí phổ biến quyết định của Bộ Chính trị về việc thành lập Bộ chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định gồm có tôi làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng, Chính uỷ, đồng chí Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Phó Tư lệnh. Riêng đồng chí Lê Đức Anh lại kiêm phụ trách chỉ huy cánh quân phía tây nam Sài Gòn, tức là Đoàn 232. Đồng chí Trung tướng Lê Trọng Tấn đang chỉ huy cánh quân phía đông được chỉ định làm Phó Tư lệnh Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Đồng chí Đinh Đức Thiện là Phó Tư lệnh phụ trách về mặt hậu cần, giúp đồng chí Thiếu tướng Bùi Phùng, Cục trưởng Cục Hậu cần Miền. Đồng chí Trung tướng Lê Quang Hoà đang phụ trách Bí thư Ban cán sự cánh quân phía đông được điều động về làm Phó Chính uỷ kiêm Chủ nhiệm chính trị của Bộ chỉ huy chiến dịch. Đồng chí Lê Ngọc Hiền được chỉ định quyền Tham mưu trưởng chuyên trách về tác chiến. Bộ chỉ huy chiến dịch sử dụng các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần vốn có của Miền để làm việc, có tăng cường thêm số cán bộ của Đoàn A.75 vừa ở Tây Nguyên tới và từ Bộ Tổng Tham mưu phái vào, trong đó có các đồng chí Thiếu tướng Doãn Tuế, Tư lệnh bộ đội Pháo binh, Đại tá Nguyễn Chí Điềm, Tư lệnh bộ đội Đặc biệt tinh nhuệ, Đại tá Lê Quang Vũ, Cục phó Cục quân báo, Đại tá Nguyễn Quang Hùng, Phó Tư lệnh bộ đội Phòng không - Không quân, Thượng tá Trương Đình Mậu, Cục phó Cục quân huấn, Thượng tá Lê Xuân Kiện, Phó Tư lệnh bộ đội Xe tăng, v.v.
(Chương 12 còn nữa)