“Đại Thắng Mùa Xuân” - Đại tướng Văn Tiến Dũng (Tiếp theo Chương 13)

Ngày đăng: 06:45 01/05/2025 Lượt xem: 44

 “ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN”
ĐẠI TƯỚNG VĂN TIẾN DŨNG
 
Chương 13 
THẾ TRẬN ĐANG HÌNH THÀNH
(Tiếp theo Chương 13)

       Trước ngày phát động tổng công kích vào Sài Gòn - Gia Định, cánh quân phía đông đã tạo được một thế chung rất thuận lợi. Phía tây nam Sài Gòn, ta đã điều lực lượng xuống vùng Bến Lức, Long An, đánh thông hành lang Tây Ninh, Kiến Tường, mở xong các vùng Bến Cầu, Bến Sỏi, Quéo Ba, làm chủ một phần sông Vàm Cỏ Tây, tiếp tục tiến xuống vùng Tân An. Thủ Thừa. áp sát và đánh giao thông trên đường số 4, diệt các đồn bốt nhỏ chung quanh, mở ra một vùng giải phóng, tạo bàn đạp cho các lực lượng thuộc Đoàn 232 chuẩn bị tiến công vào Sài Gòn từ phía tây nam. Xe tăng, xe lội nước, pháo bắn thẳng 85. lựu pháo 122 và cả pháo 130 milimét cùng với các tiểu đoàn cao xạ, các sư đoàn bộ binh số 5, số 3, số 9, số 8, các trung đoàn độc lập 16, 88, 24 và hàng trăm tấn đạn, xăng dầu đã đến nơi quy định. Những trận địa hoả tiễn và súng cối được chuẩn bị gấp chung quanh sân bay Cần Thơ, đợi ngày đánh vào căn cứ cuối cùng của không quân địch một khi sân bay Tân Sơn Nhất và Biên Hoà bị khống chế. Tạo thế ở tây nam Sài Gòn là một kỳ công của quân và dân Tây Nam Bộ, vì điều kiện địa hình ở đây rất khó triển khai lực lượng lớn, nhất là binh khí kỹ thuật nặng. Đạn pháo các loại cần dùng hàng chục nghìn quả nhưng phải vác bằng vai hoặc chở bằng thuyền nhỏ. Đường cho xe pháo cơ động rất ít, có thể nói là độc đạo qua những vùng sình lầy trống trải. Trận địa pháo bố trí dọc theo các đường. Tổ chức thông tin từ Sở chỉ huy chiến dịch xuống cánh tây nam chỉ còn một phương tiện độc nhất là vô tuyến điện. Thời gian càng gấp bao nhiêu thì công việc tạo thế của cánh tây nam càng khẩn trương bấy nhiêu. Chuẩn bị cầu phà, đường cơ động, di chuyển hậu cần v.v, phảí hết sức bí mật để giữ được một bất ngờ lớn đối với địch ở hướng quan trọng này. Phía tây bắc Sài Gòn, Sư đoàn 25 của địch vẫn bám chặt địa bàn Tây Ninh. Đúng là đối với chúng, giữ cũng chết mà bỏ cũng chết. Cảnh sát, các cơ quan hành chính nguỵ quyền ở Tây Ninh đã đốt các loại giấy tờ, hồ sơ, chạy về Sài Gòn. Ta không đánh để giải quyết Tây Ninh nhưng phải kìm giữ, phân tán lực lượng của Sư đoàn nguỵ số 2. Ở đây, không cho chúng tập trung lùi dần về vùng sát Sài Gòn. Quân đoàn 3 của ta đã dùng một trung đoàn của Sư đoàn 316 vượt sông Sài Gòn, cắt một đoạn đường từ Trà Vỏ, Bầu Nâu đi Gò Dầu Hạ, không cho địch lên xuống. Các đơn vị bộ đội địa phương của Tây Ninh, Bình Dương bao vây và tiêu diệt các bốt, bảo an, dân vệ, pháo kích vào Trảng Lớn, làm nổ một lúc 20.000 quả đạn pháo 105 và gần 5.000 đạn pháo 175 mi-li-mét. Sư đoàn 25 của địch bị căng ra trên đường số 1 và đường số 22. Các đội biệt động nội thành, ngoại thành Sài Gòn và các đơn vị đặc công đã tiến vào sát Sài Gòn và đã bí mật bố trí sẵn ở các mục tiêu quy định. Sân bay Biên Hoà bị bộ đội đặc công, súng cối và pháo tầm xa của ta đánh liên tục không nghỉ ngày nào. Chiều tối địch đưa hết máy bay ở Biên Hoà về Tân Sơn Nhất tránh pháo kích sân bay Biên Hoà bị ta khống chế tê liệt dần. Ta chuẩn bị nhanh hoả lực để đánh phá hai sân bay cuối cùng khác của địch là Tân Sơn Nhất và Cần Thơ nhằm giảm bớt khả năng chiến đấu của không quân địch, uy hiếp tinh thần địch, chống phá kế hoạch "di tản" của chúng và góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc tông tiến công vào Sài Gòn - Gia Định. Sáng ngày 8 tháng 4, chúng tôi đang làm việc thì được tin một sĩ quan yêu nước lái chiếc máy bay F5E của không quân nguỵ vừa ném bom Dinh Độc lập và đưa máy bay ra vùng giải phóng hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long. Đây là Trung uý không quân Nguyễn Thành Trung, quê ở Bến Tre, một đảng viên của ta hoạt động bí mật từ lâu trong không quân nguỵ. Anh là con một đồng chí huyện uỷ viên đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cách mạng. Nguyễn Thành Trung cho biết: không quân nguỵ chỉ còn 120 chiếc máy bay A.37 và 70 chiếc máy bay F-5, khả năng xuất kích của chúng thường chỉ được hai phần ba. Ngày huy động máy bay nhiều nhất đi đánh phá cũng chỉ được 120 lần chiếc. Nếu ta pháo kích sân bay Biên Hoà, không cần bắn liên tục, cứ nửa giờ bắn một phát. Vì khi phát đạn đại bác nổ, phải nửa giờ sau bọn lái nguỵ mới từ hầm ra được tới máy bay. Bắn như thế thu được kết quả tốt mà lại tiết kiệm được đạn. Chúng tôi nảy ra một ý kiến và đề nghị Bộ Tổng tư lệnh cho phép đưa ngay Nguyễn Thành Trung ra Đà Nẵng hướng dẫn một số đồng chí lái máy bay chiến đấu của ta sang lái máy bay A.37 của Mỹ mà ta thu được khá nhiều và lập một phi đội máy bay A.37 để khi cần sẽ dùng đến. Các đơn vị đặc công mặt trận Sài Gòn, những chiến sĩ thông minh, mưu trí, gan dạ mà chiến công vang lừng cả nước, trước khi vào chiến dịch được tổ chức lại thành 6 đoàn có chỉ huy thống nhất. Đoàn 10 đứng ở khu Nhà Bè - Lòng Tàu, đánh tàu và cắt đường sông Lòng Tàu ra biển của địch. Đoàn 116 đứng ở Nước Trong - Long Bình. Đoàn 113 phụ trách vùng Biên Hoà. Đoàn 115 đứng ở Lái Thiêu, Quán Tre chờ lệnh vào Sài Gòn. Đoàn 117 đứng ở Vườn Thơm, Bà Vu chờ lệnh đánh vào hướng tây Sài Gòn. Đoàn 429 chuẩn bị đánh các trận địa pháo ở Quận 8 và Quận 9. Các chiến sĩ biệt động Sài Gòn nổi tiếng từ lâu, chiến đấu thầm lặng và dũng cảm đã bao phen làm cho Mỹ, nguỵ kinh hoàng. Những chiến sĩ từng đánh các khách sạn Mỹ ở Sài Gòn như: Caraven, Brinh, Víchtôria, Mêtơrôpôn, đánh Tổng nha cảnh sát nguỵ, sứ quán Mỹ, nhấn chìm tàu Cađơ trên sông Sài Gòn, nhiều lần pháo kích "Dinh Độc lập", sân bay Tân Sơn Nhất, lễ "quốc khánh" của nguỵ, hôm nay lực lượng lớn mạnh hơn nhiều, đứng ở thế vững chắc cả trong và ngoài thành phố. Ngoại thành có 4 tiểu đoàn và nhiều đội quân biệt động, trong nội thành ta có sẵn 60 tổ biệt động, 300 quần chúng vũ trang và lực lượng quần chúng đông đảo do quân biệt động tổ chức và chỉ huy. Lực lượng vũ trang của thành đội Sài Gòn Gia Định cũng khá mạnh. Ở các quận Nhà Bè, Bình Chánh Nam, Bình Chánh Bắc, Tân Bình, Hóc Môn, Gò Vấp mỗi nơi trước có một trung đội, bước vào chiến dịch đều tăng lên thành một hoặc hai đại đội. Riêng Thủ Đức có một tiểu đoàn. Củ Chi càng mạnh hơn. Thành đội còn có các trung đoàn chủ lực đã triển khai sẵn ở Gia Định. Đấy là chưa kể những cán bộ, chiến sĩ ta làm công tác đặc biệt từ nhiều năm hoạt động trong thành phố, làm việc trong những cơ quan của địch, cung cấp kịp thời những tin tức cần thiết và mong chờ ngày đại quân tiến vào. Thành uỷ Sài Gòn - Gia Định in và rải hàng trăm nghìn tờ truyền đơn, lập những đội tuyên truyền xung phong. Khí thế quần chúng sôi nổi làm cho tinh thần địch đang hoang mang càng thêm hoang mang, dao động và bộ máy kìm kẹp ở cơ sở của địch lỏng thêm một bước. Trong mấy ngày ta đã đưa vào trung tâm thành phố thêm hàng trăm cán bộ, hàng trăm đội viên vũ trang. Giữa Sài Gòn đã có mặt hàng chục đồng chí thành uỷ viên và cán bộ cấp tương đương, có các uỷ viên ban cán sự quận, hàng mấy trăm đảng viên, hàng nghìn đoàn viên các đoàn thể, hàng chục nghìn quần chúng có thể huy động xuống đường. Ta đã có các cơ sở chính trị trong các phố, nắm cả một số nhà in to, nhỏ, chuẩn bị hàng trăm xe hơi có loa phóng thanh, đưa hàng chục nghìn mét vải cho nhiều hiệu may để may cờ. Một số lượng lớn cán bộ chuẩn bị tiếp quản thành phố đã chuyển đến ở sát ngoại ô thành phố. Để thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền đã bàn và thông qua các kế hoạch về cuộc tổng tiến công và việc chuẩn bị đòn nổi dậy toàn B.2. Đồng thời, cử đồng chí Võ Văn Kiệt trực tiếp làm Bí thư Thành uỷ Sài Gòn - Gia Định chuyên lo vấn đề tổ chức và chỉ đạo kế hoạch quần chúng nổi dậy để phối hợp với cuộc tiến công của các binh đoàn chủ lực vào thành phố. Như thế là, trước khi nổ súng tổng công kích vào Sài Gòn ta đã hình thành được thế trận bao vây thành phố từ nhiều mặt. Ở phía đông ta đã cắt hoàn toàn đường số 1, áp sát đến Trảng Bom, sẵn sàng cắt đứt đường số 15, sông Lòng Tàu và khống chế Vũng Tàu, đang làm tê liệt sân bay Biên Hoà. Phía tây và tây nam, lực lượng Quân khu 9 đã áp sát đoạn Cái Vồn và nam Cần Thơ. Quan trọng hơn cả là đã áp sát ven con đường số 4 huyết mạch từ Sài Gòn chạy về đồng bằng sông Cửu Long. Những đơn vị thuộc Khu 8 đã mở rộng hoạt động ở nam Long An, chuẩn bị sẵn sàng để cắt đường số 4 và kênh Chợ Gạo, các lực lượng lớn của chiến dịch cũng đã tiến dần vào vị trí triển khai. Quân đoàn , sau khi chiếm Xuân Lộc, đã áp sát vào Trảng Bom. Ở phía đông nam, Quân đoàn 2 đã tiến sát vào Long Thành, Vũng Tàu, Nước Trong, Bà Rịa. Đoàn 232 đã áp sát vào tuyến sông Vàm Cỏ Đông và Hậu Nghĩa. Sư đoàn 5. Sư đoàn 8 đã đứng sát đường số 4 và từ Tân An đến Cai Lậy, áP sát Mỹ Tho, đặc biệt hai trung đoàn bộ binh đã vào đứng ở Cần Đước, Cần Giuộc phía nam Quận 8 Sài Gòn. Hướng tây bắc và hưởng bắc đã có một vùng giải phóng mở rộng nối liền từ Lộc Ninh đến Phước Long. Quân đoàn 1 đã vào khu vực tập kết ở nam sông Bé, Quân đoàn 3 ở khu vực Dầu Tiếng. Đường hành lang từ các cánh, các hướng đều thông suốt, đường vận chuyển chiến dịch và chiến lược đã được nối liền, có chất lượng tốt, bảo đảm được mật độ các loại xe chạy với tốc độ cao. Cũng là lần đầu tiên trong suốt mấy chục năm kháng chiến ở Nam Bộ, xe hơi của tuyến vận tải Cục hậu cần Miền và hậu cần các quân khu từ miền Đông chạy xuống tận đường liên tỉnh số 26 ở bắc Củ Chi, chạy xuống tận Bình Cơ, Bình Mỹ ở bắc Tân Uyên và có thể chạy suốt đến Long Khánh - Bà Rịa. Lực lượng lãnh đạo của Đảng và chính quyền cách mạng đã về ở vùng ven. Có nhiều bộ phận đã vào nội thành để chuẩn bị cho việc nổi dậy của quần chúng và tiếp quản thành phố. Tình hình trong thành Phố Sài Gòn được nắm chắc và báo cáo ra hàng ngày cho Bộ chỉ huy chiến dịch. Và ngay tại Tân Sơn Nhất, trong những ngày sôi động trên toàn miền Nam, có một bộ phận cán bộ và chiến sĩ ta vẫn ở trong đó. Đấy là phái đoàn quân sự của ta trong Ban liên hợp quân sự hai bên do đồng chí Thiếu tướng Hồ Xuân Anh (tức Hoàng Anh Tuấn) làm trưởng đoàn. Thông báo tin tức hàng ngày vẫn giữ được đều đặn và trong những ngày đó các đồng chí cũng đoán chắc là ta sắp đánh vào Sài Gòn rồi, mặc dù chúng tôi không điện cho các đồng chí đó biết kế hoạch. Các đồng chí sống giữa vòng vây của quân địch đã gần ba năm, giữ vững lập trường đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù, chấp hành nghiêm túc và nhanh chóng các chỉ thị của cấp trên và cũng kịp thời báo cáo cho chúng tôi những tin tức, dư luận các giới đồng bào, tin tức về địch mà các đồng chí ở đó nắm được bằng nhiều cách, kể cả quan sát bằng mắt thường. Thấy máy bay địch từ các nơi dồn về Tân Sơn Nhất nhiều quá, đậu gần ngay khu nhà của phái đoàn ở, các đồng chí điện ra đề nghị bắn pháo vào sân bay. Bức điện có đoạn viết: "Chúng tôi sẽ đào hầm và giữ vững vị trí chiến đấu tại đây. Nếu địch ngoan cố, pháo binh ta cứ bắn thật mãnh liệt, đừng lo cho chúng tôi ở trong này. Chúng tôi rất lấy làm vinh dự sẵn sàng nhận sự hy sinh để chiến dịch toàn thắng, sự nghiệp cách mạng toàn thắng". Khu nhà các đồng chí ở, do nguỵ quyền bố trí, mái tôn, nền đất, tường ván và chung quanh "trang trí" toàn bằng hàng rào kẽm gai. Nhưng gặp tình huống như hiện nay thì có nhiều khó khăn trong việc đào công sự cá nhân, phát triển thành hào giao thông, hào chiến đấu. Các đồng chí đào hầm về đêm, không có xẻng, cuốc, phải dùng cọc dây thép gai và dao găm để đào, đất đào đem ép xuống nền nhà hoặc cho vào bao tải, gói vào quần áo, cất vào kho. Nhân dịp có việc trao đổi một số nhân viên Ban liên hợp quân sự bị mắc kẹt hôm ta đánh ở Buôn Ma Thuột chúng tôi chủ trương đưa ra mấy đồng chí thật cần thiết cho chiến dịch, còn anh em vẫn ở lại, trong đó có cả đồng chí trưởng đoàn. Và khi làm kế hoạch cho pháo bắn vào Tân Sơn Nhất, chúng tôi đã nhiều lần chỉ dẫn các đống chí phụ trách pháo binh biết khu vực phái toàn ta đang ở để bảo đảm an toàn cho các đồng chí đó. Trong thế trận chung to lớn ta đã hình thành chuẩn bị bước vào Chiến dịch Hồ Chí Minh, các đồng chí của ta ở Tân Sơn Nhất cũng có một cái thế riêng của mình, thế đứng công khai hiên ngang giữa lòng địch. Thế đứng đó không những tiêu biểu cho cách mạng, cho đại nghĩa về mặt chính trị mà còn giúp cho Đảng hiểu được thêm lòng dân đối với sự nghiệp giải phóng và hiểu kẻ thù trước những ngày chúng giãy chết, chắc là trong những ngày đêm sôi sục này, các đồng chí mong đợi quân ta vào hơn ai hết. Sau lần ta tiến công vào Sài Gòn dịp Tết Mậu Thân 1968, kẻ địch ngạo nghễ và huênh hoang nói: "Không bao giờ Việt cộng còn có sức đánh vào Sài Gòn lần nữa". Hôm nay, nhìn thế trận đã tạo ra, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng của ta bên trong và bên ngoài thành phố Sài Gòn, nhìn thấy các địa bàn chắc chắn ta đang chiếm lĩnh, nhận ra các mục tiêu ta sẽ đánh đúng ngay từ đầu, tính toán thời gian và hoàn tất các công việc còn lại trước giờ G, giờ G cuối cùng của cuộc chiến tranh và cũng là giờ G lớn nhất của lịch sử dân tộc ta hơn một trăm năm nay, chúng tôi vui mừng, sung sướng và tự hào.
 
tin tức liên quan