---------------------
KÝ ỨC NGƯỜI LÍNH
Ban liên lạc Cựu chiến binh Quân khu Trị - Thiên tổ chức gặp mặt giao lưu nhân kỷ niệm 55 năm cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân, năm 1968. Bên lề hội nghị, tôi gặp một cựu chiến binh thuộc Tiểu đoàn 815 bộ binh, Trung đoàn 9 anh hùng. Anh cho biết đã tìm được người thân của đồng chí đại đội trưởng của anh trong chiến dịch xuân Mậu Thân tại Huế. Bây giờ anh mới biết người nhà của thủ trưởng mình vẫn chưa biết anh ấy từng có một đứa con. Một đứa con mà suốt sáu chục năm trời không hề biết cha mẹ ruột của mình là ai. Và điều đặc biệt hơn là sự trùng hợp ngẫu nhiên đến lạ lùng. Người nuôi con cho chiến sĩ giải phóng quân đó lại chính là ông Thu, người mà bao năm nay dân làng tôi cho là kẻ phản bội đi theo giặc. Cái án theo giặc đã bôi đen lý lịch ông đến cuối cuộc đời đến nỗi ông chẳng dám về quê.
*
* *
Nhà ông Thu ở gần cầu Kho Rèn, bên dòng sông An Cựu. Ông Thu bây giờ đã 98 tuổi, cái tuổi gần đất xa trời. Ông đi bằng đôi chân giả. Đôi chân của ông đã bị mảnh bom tiện mất từ đầu gối xuống. Ông ngồi trên chiếc xe lăn ra mở cổng đón chúng tôi. Mặc dù bị cụt mất đôi chân nhưng nhìn mái tóc ông ra dáng nghệ sĩ lắm. Cái đầu đã bạc trắng, hai mái tóc dài trắng như cước tràn qua thái dương phủ xuống bờ vai. Phía trước tóc ông đã rụng hết để lại cái trán hói láng bóng. Kể ra những người sống đến cái tuổi này mà còn tinh tường minh mẫn như thế là rất hiếm. Đa số họ đều mụ mị, quên ngược, quên xuôi cả rồi.
Biết tôi là người làng, ông Thu kể giọng đều đều pha một chút ngậm ngùi. Trong đôi mắt ông vẫn phảng phất nỗi buồn hoang vắng khi nhớ về một thời quá vãng.
Trước cách mạng tháng Tám ông đã từng bị giặc Pháp bắt giam ở Hỏa Lò. Trong những ngày sục sôi của tổng khởi nghĩa, ông đã cùng đồng đội vượt ngục trở về. Phe đồng minh giải giáp quân đội Nhật, ông về làng tham gia xây dựng chính quyền non trẻ ở quê hương. Giặc Pháp quay lại gây hấn ở Nam Bộ, ông cùng với ông Vơn, người làng tôi gia nhập chi đội Lê Trực ở Quảng Bình. Tháng 3 năm 1947, giặc Pháp đổ bộ vào cửa sông Nhật Lệ và sông Gianh. Chúng tập trung hơn 500 quân tiến đánh các xã phía tây huyện Bố Trạch. Đây là một huyện bán sơn địa có nhiều xã miền núi và vùng gò đồi, trung du. Quyết tâm của địch là phải đè bẹp sự kháng cự của du kích làng Cự Nẫm để dựng được hệ thống hội tề dọc tuyến sông Son. Truông Mòn là cửa ngõ lý tưởng của địch đổ bộ vào làng theo hướng từ dưới sông lên.
Trung đội trưởng của ông Thu đã cử ông với ông Trần Vơn đi trinh sát các cánh quân của địch để đặt bom, gài mìn. Mỗi người mang theo hai trái mìn với một cuộn dây thừng. Gài xong, họ men theo bãi ngô ven bờ sông xanh mướt từ Khương Hà đi lên Bùng Lai. Cánh đồng bạt ngàn ngô ở đây đến thời kỳ phun râu thoang thoảng thơm nồng hương phấn đang độ chín. Những lá ngô cọ vào nhau nghe lào rào khi có một ngọn gió thoảng qua. Khi nào phát hiện địch càn vào làng Cự Nẫm thì hai người sẽ bí mật chạy theo vạt ngô này về rừng Truông Mòn để giật bom. Tiếng bom nổ cũng sẽ báo hiệu cho du kích chuẩn bị chống càn.
Quá trưa hai người ngồi xuống bên đám đất hoang giở cơm nắm ra ăn. Ăn xong họ xách ống lồ ô xuống sông lấy nước uống. Thủy triều ở sông Son cứ nửa tháng đầu lên xuống mỗi ngày một lần, nửa tháng sau lại lên xuống mỗi ngày hai lần mang theo con nước lớn ròng. Nước phía dưới gần cửa biển thì mặn chát nhưng từ chợ Khương Hà lên phía trên động Phong Nha hoàn toàn nước ngọt. Ngọt nhất là khi con nước ròng.
Bỗng trong ruộng ngô gần đó có tiếng sột soạt. Một toán lính Pháp hùng hổ xông ra. Đi đầu là tên quan một, râu ria xồm xoàm. Ông Thu nhận ra có một tên Việt gian là người trong làng. Thằng này biết nói tiếng Tây. Hắn có dáng người nhỏ thó, nhăn hàm răng trắng nhởn như con chuột nhắt ra cười với ông. Chỉ có hắn mới chỉ điểm cho bọn Pháp phục kích đúng vị trí đặc biệt này. Bọn Pháp trói nghiến cả hai người lại. Thằng râu xồm hỏi: “Dans quelle mission êtes-vous les gars ?”. Tên Việt gian dịch đúng nguyên văn: “Các bạn đang thực hiện nhiệm vụ gì?”. Hai người vẫn im lặng không nói.
Thằng Việt gian quát: “Nói!”. Ông Vơn vẫn đứng nhìn hắn trân trân. Thằng râu xồm chĩa khẩu súng lục vào trán ông Vơn. Một tiếng súng nổ. Ông Vơn ngã vật xuống bãi cỏ. Hắn sai người chặt đầu ông Vơn xách lên cắm trên mố cầu Bùng.
Thằng Việt gian chỉ vào cái đầu của ông Vơn và nói với ông Thu: “Mày thấy đó. Mày mà ngoan cố như thằng Vơn thì quan lớn cũng sẽ bêu đầu mày ở đây thôi”.
Nghe thấy thế ông Thu làm bộ sợ hãi, tái mặt quỳ sụp xuống trước mặt tên quan một, giọng van lơn: “Ở trên rừng khổ quá. Việt Minh đã đói lại bị sốt rét liên miên không có thuốc kí ninh để uống. Đa số bị chết dần chết mòn, chúng tôi đi về xin hàng các quan Tây. Chúng tôi xin hồi chánh”.
“Thế mày hãy dẫn quan lớn đi vào làng Cự Nẫm. Nhưng mày phải đi trước để tránh dẫm trúng bom mìn của bọn Việt Minh làm chết quan Tây. Mày mà chạy, các quan sẽ bắn nát đầu, không tha cho mày đâu”.
Ông Thu đi trước dẫn bọn địch qua con đường có quả bom do ông Vơn cài. Bọn Pháp vẫn giữ một khoảng cách khá xa đối với ông Thu để đề phòng bất trắc. Khi chúng đi đến vị trí đặt bom, ông cúi xuống nắm lấy sợi dây giật mạnh nhưng quả bom không nổ. Hình như kíp nổ đã bị tịt ngòi. Thấy ông Thu cúi xuống, thằng râu xồm giục tên Việt gian đuổi theo bám sát. Hắn sợ ông Thu lẩn trốn.
Lại đến một đường mòn có quả bom do chính tay ông Thu cài. Ông dừng lại. Sợi dây ông buộc chặt vào một cành cây luồn dưới lớp cỏ tranh ngụy trang rất khéo chăng qua đường. Chờ cho chúng đến gần, ông đá mạnh vào sợi dây. Một tiếng nổ long trời lở đất. Bọn địch la oai oái. Thằng Việt gian bị chết ngay tại trận, hai thằng Pháp bị thương. Riêng ông Thu thì bị bay mất hai cẳng chân. Thằng quan một, râu xồm ra lệnh cáng ông Thu và hai thằng bị thương xuống ca nô chở vào chữa trị trong Đồng Hới. Ông Thu được “chính phủ Quốc gia” cấp cho cái “Bảo quốc Huân chương”. Thằng chỉ huy nói nhờ ông Thu mà hắn thoát chết.
*
* *
Sau hiệp định Giơ-ne- vơ những người đi theo kháng chiến tập kết ra miền Bắc, những người theo quân đội Liên hiệp Pháp vào Nam. Ông Thu được đi theo quân đội Pháp vào định cư tại Huế. Ông hòa lẩn vào dòng người di cư theo chúa. Người Pháp đã trợ cấp tiền thương tật hàng tháng cho ông.
“Có tiền lương trợ cấp thương tật hàng tháng của quân đội Liên hiệp Pháp, tôi mua được hai chục chiếc xe xích lô các anh ạ! Hàng ngày tôi có một đội quân đạp xe thồ với tiền cho thuê xe nên chỉ việc ngồi chơi xơi nước. Họ cũng là những người dân Quảng Bình đi theo Chúa vào Nam. Sau hiệp định Giơ-ne- vơ, chính quyền Ngô Đình Diệm khuyến khích những người công giáo ngoài miền Bắc vô Nam nên công việc làm ăn của tôi tại Huế cũng thuận lợi, chẳng bị chính quyền o ép, gây khó dễ gì. Những người cùng đi họ cũng nể trọng tôi lắm. Mang danh là một thương binh của Pháp nên bọn lính cũng không dám quấy nhiễu. Nhiều người đi đạo Phật đã ngã sang hàng ngũ công giáo, chế độ Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Thục, anh trai Diệm lúc đó là Tổng Giám mục cai quản cả miền Nam. Những người đằng mình ai cũng nói tôi là kẻ phản bội nên tìm cách xa lánh. Tôi đau lắm. Chẳng có ai làm chứng, chẳng ai minh oan được cho mình. Rồi năm 1963, lính của Ngô Đình Diệm đàn áp xả súng vào đoàn người biểu tình trong ngày lễ Phật đản. Có một thiếu phụ bế đứa con còn đỏ hỏn ngồi trên xích lô đến nhà tôi. Cô xin lánh tạm một vài ngày. Cô nói cô là một phật tử ngoài Quảng Trị vô dự lễ mà kẹt đường về. Ngoài đường những đoàn người biểu tình đã tuần hành quanh khu phố cổ Huế hô vang các khẩu hiệu chống Diệm. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban bố lệnh thiết quân luật và đặt quân đội vào tình trạng báo động “ngăn chặn sự xâm nhập của Việt cộng”.
Hai hôm sau cô gái đột nhiên biến mất để lại đứa con nhỏ cho tôi. Cô đi đâu không rõ. Trên cổ đứa trẻ có đeo một sợi dây mang tượng đức Phật Thích Ca bằng đồng nho nhỏ. Tôi cũng không biết tên cô ta là gì. Tiến thoái lưỡng nan. Bình thường một người chân tay lành lặn chăm sóc một đứa trẻ sơ sinh đã khó huống hồ tôi, người phải đi bằng hai chân giả. Nhưng tôi linh cảm cô gái ấy là người đằng mình. Nếu là một phật tử có đứa con đã lỡ làng thì cô ta có thể gửi lại nơi cửa Phật. Ở Huế có nhiều ngôi chùa mà. Mình không giúp được gì cho cách mạng thì đây là một cơ hội. Trong nhà tôi có thuê một phụ nữ giúp việc lo cơm nước, giặt giũ quần áo và dọn dẹp nhà cửa. Hơn nữa sau khi ra tù, về làng là tôi đi kháng chiến liền nên cũng chưa kịp vợ con gì. Bí quá tôi phải nhờ người làm công chăm sóc đứa bé. Bà ấy chính là vợ của tôi bây giờ”.
Ông Thu dừng lại lấy chiếc khăn tay vắt trên thành xe lăn chấm nước mắt, giọng ngậm ngùi: “Suốt đời tôi biết ơn bà ấy lắm các anh ạ. Không có bà ấy thì tôi chẳng còn sống được đến bây giờ”.
Tôi chưa bao giờ thấy một ông già gần trăm tuổi khóc nên cũng mũi lòng. “Năm đó chế độ Đệ Nhất Cộng hòa sụp đổ. Hai anh em Diệm, Nhu bị giết chết. Đến năm 1964, Ngô Đình Cẩn, bạo chúa miền Trung cũng bị chính quyền Đệ Nhị Cộng hòa xử tử. Nhà ông ta bên kia sông An Cựu, phía trên nhà thờ Phú Cam. Các anh vào đây đến tham quan khu di tích chín hầm một tí cho biết. Đó là địa ngục trần gian mà Ngô Đình Cẩn đã tạo ra. Cũng là người Quảng Bình ta cả nhưng
các ông ấy đi sai đường, lạc lối”.
*
* *
Trong sâu thẳm của cuộc đời, ông Thu cứ dằn vặt, day dứt mãi. Ông ước ao có một lần gặp lại người chỉ huy cũ để nói cho đồng đội hiểu. Tấm lòng của ông vẫn hướng về cách mạng thật là trinh bạch, trong sáng, vẫn vằng vặc như ánh sao khuê. Ông vẫn tuyệt đối trung thành với cách mạng, với Cụ Hồ. Nhưng cái thế của ông như con cá bị mắc kẹt ở trong lờ. Biết làm gì đối với con người khi đã bị cụt mất hai chân. Ông chặc lưỡi: “Thôi thì phóng lao phải theo lao”. Ông đã trót ăn tiền lương hưu của chính phủ Pháp rồi. Suốt cuộc đời ông đã không làm gì tổn hại cho cách mạng cả. Có lúc ông ước ao mình được chết đi như ông Vơn sau tiếng bom nổ trên Truông Mòn năm ấy. Vào đây chiều chiều đi xe lăn ra cầu Tràng Tiền ngắm cảnh hoàng hôn trên dòng sông Hương tĩnh lặng ông lại thẩn thờ nhớ con sông Gianh quê ông da diết. Đời người như một dòng sông cứ trôi miên man ngày này qua tháng khác. Ông nhìn mãi xuống dòng sông. Dòng sông của chiến tranh thật là khủng khiếp. Người bên này, bên kia, giành giật, bắn giết lẫn nhau, máu chảy, đầu rơi, bao phận người đã ngã xuống vì nó. Sông ơi! Ngay trên mảnh đất miền Trung eo thắt như cái cổ chày này đã có biết bao hòn vọng phu, hóa đá chờ chồng, có bao người con chờ cha, gia đình li tán. Cái án là kẻ phản bội đeo đẳng trong suốt cuộc đời ông Thu. Cái con người cứng rắn, mạnh mẽ như ông bây giờ cũng trở nên yếu đuối. Ông cũng không biết tự bao giờ ông trở nên con người đa sầu đa cảm. Có lẽ những năm tháng cô đơn sống nơi đất khách quê người đã làm ông trở nên mong manh dễ vỡ.
*
* *
Cuộc tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân năm 1968 làm rung chuyển cả miền Nam. Hàng ngày đội xích lô của ông Thu vẫn đi về như thường lệ nhưng ông linh cảm có cái gì đó khang khác. Họ hoạt động kín đáo quá. Ông Thu không hề biết những người đạp xích lô của ông cũng bí mật tham gia việc vận chuyển súng ngắn và thuốc nổ C4 vào nội thành trước Tết. Đúng đêm giao thừa, tiếng pháo của quân Giải phóng gầm vang. Cả thành phố Huế lửa đỏ rực trời. Nhà máy đèn trước cửa nhà ông Thu vụt tắt. Chỉ trong ba ngày Tết lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tung bay khắp trong lòng thành phố. Lòng ông Thu hồi hộp rộn ràng nhưng chưa có cách nào để gặp được người đằng mình. Đến ngày mồng 5 Tết thì quân đội Mĩ và Việt Nam Cộng hòa mới kịp phản công. Chiều ngày mồng 4 Tết, Tiểu đoàn Dù của chúng mới được trực thăng chở từ Quảng Trị vào thành Mang Cá. Quân đội Mĩ quyết định dùng hỏa lực mạnh nhằm đánh bật quân Giải phóng miền Nam ra khỏi Huế. Ngoài xe tăng, pháo binh, chúng còn dùng cả máy bay B.52 ném bom rải thảm vào các công trình mà chúng cho là những pháo đài, chiến lũy của quân Giải phóng ẩn nấp. Điều tai hại nhất là bom Mĩ bỏ trượt mục tiêu quân sự. Hầu hết pháo và bom đánh trúng trường học và công trình dân sự. Hoàng thành đổ nát. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh bằng bất cứ một giá nào cũng lấy lại được thành phố Huế. Phía nam sông Hương bọn Thủy quân lục chiến Mĩ giằng co với quân Giải phóng nhiều ngày nhưng không làm sao tái chiếm được. Lá cờ của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam vẫn ngạo nghễ tung bay trên các ngã đường. Tướng Westmoreland chỉ huy quân đội Mĩ ở miền Nam điên tiết ném vào đây một lực lượng Thủy quân lục chiến mạnh nhất để trợ lực cho binh lính Việt Nam Cộng hòa.
Sau 25 ngày tiến công làm chủ thành phố Huế, đến ngày 23/2/1968 quân Giải phóng quyết định rút lui. Trong đêm cuối cùng còn trụ lại trong thành phố có một chiến sĩ đã đến đưa cho ông Thu một lá thư và tấm ảnh của một người con gái. Đó là lá thư của người đại đội trưởng quân Giải phóng viết trước lúc rút lui. Trong thư anh viết từ lâu cách mạng đã biết ông Thu là người tốt, ông đã âm thầm giúp đỡ cách mạng miền Nam. Anh nhờ ông nuôi dạy đứa con nên người, hẹn ngày thống nhất nước nhà sẽ về xin gặp lại. Anh đã lần theo sự chỉ dẫn của người chỉ huy đến được nhà ông Thu. Vì nhà ông đối diện với cổng của nhà máy đèn nên tìm rất dễ.
Nhìn qua tấm ảnh ông Thu biết ngay là mẹ đứa trẻ, người đã đến nhà ông trong ngày lễ Phật đản năm xưa. Ông Thu dắt người chiến sĩ đến nhìn mặt thằng bé. Nó đang ngủ rất say. Qua ánh đèn pin suýt nữa người lính phải reo lên. Nó giống với người chỉ huy của mình như tạc. Anh cho ông Thu biết mẹ thằng bé đã hy sinh khi dẫn quân Giải phóng vượt qua cầu Tràng Tiền đánh vào nội đô. Anh ngắm nhìn thằng bé trong chốc lát rồi vội vã đuổi theo đơn vị rút lên rừng.
*
* *
Chúng tôi đang đứng chụp tấm ảnh với ông Thu thì Hồng đến. Anh lái một chiếc xe tắc xi. Anh không hề biết mình là con nuôi của ông Thu suốt sáu chục năm qua. Tôi thông báo cho Hồng biết người cha đẻ của Hồng là một cán bộ chỉ huy quân Giải phóng. Ông đã chết. Hồng nói với chúng tôi nhà anh bây giờ ở phía Bắc sông Hương. Tôi chợt nhớ ra đó là người đàn ông đã từng đạp xe xích lô chở tôi từ ga Huế về tòa soạn báo Dân (Bình Trị Thiên) trước ngày chia tỉnh. Tôi đi dực hội nghị cộng tác viên của báo Dân đầu xuân. Sau khi chiến tranh kết thúc tôi đã rời quân đội, chuyển sang ngành giáo dục và tham gia viết báo nghiệp dư. Hồi đó “tàu chợ” chạy tuyến từ Vinh vào đỗ ở ga Huế thường ban đêm. Có lúc đường hư hỏng, tàu trật ray, chết máy trễ mất cả một ngày trời. Bây giờ Hồng vẫn chở khách nhưng bằng tắc xi. Nghe tôi nhắc lại kỷ niệm xưa anh chợt nhớ ra và òa lên. Biết được mục đích của cuộc gặp, Hồng sửng sờ. Từ trước đến giờ anh không hề nghe cha mình nói về điều này. Chúng tôi sẽ đưa anh về tìm lại quê hương bản quán. Anh sẽ gặp lại những người thân yêu ruột thịt của mình mà anh chưa biết tên. Người cha ruột của Hồng không kịp quay về gặp gỡ đứa con. Ông đã hy sinh khi tiến vào cửa ngõ Sài Gòn trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
*
* *
Mùa xuân năm 1975, cậu bé Hồng đã là một thiếu niên. Ngày 26/3 lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tung bay trên đỉnh cột cờ Phu Văn Lâu. Hồng theo các chú bộ đội đi đến từng nhà dân. Cậu đã chỉ cho các chú bộ đội nhà của những tên sĩ quan ngụy chưa ra trình diện. Cuộc tiến quân thần tốc “một ngày bằng hai mươi năm” của quân Giải phóng với thế mạnh áp đảo như chẻ tre.
Cả nhà ông Thu hăng hái tham gia ủng hộ bộ đội trong những ngày đầu giải phóng. Nhà ông Thu là nơi ủy ban quân quản đóng để củng cố chính quyền, thiết lập trật tự cuộc sống của người dân. Bây giờ ông mới biết những người đạp xe xích lô của ông là đội quân ngầm của cách mạng. Ông nghe một chú bộ đội nói một số xe đang cần dầu diesel, ông liền cho đội đạp xe xích lô của ông đến các cơ sở trong thành phố để thu mua hoặc đổi xăng lấy dầu diesel cho bộ đội kịp thời tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Nhiều người dân Huế đã tình nguyện dùng xe nhà chở bộ đội vào Nam chiến đấu.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 rồi chiến tranh biên giới Tây Nam, đến biên giới phía Bắc vẫn không có ai đến tìm Hồng. Từ lâu ông Thu đã xem thằng bé là người con cả trong nhà. Ông không hề có sự phân biệt đối xử nên anh không hề biết là con nuôi hay con đẻ. Hồng đã cùng các đứa em thay mặt cha về làng xây lăng mộ cho ông bà, tổ tiên. Ông Thu không dám về làng vì ông mang tiếng là kẻ đi theo giặc. Hơn nữa ông đã quá già, với lại chân cẳng thế này làm sao mà đi được. Mấy năm trước có người nhà của ông Trần Vơn vào Huế xin ông xác nhận ông Vơn là liệt sĩ nhưng không ai tin ông cả. Trong làng ai cũng nói ông là kẻ đầu hàng, kẻ đã theo giặc ở phía bên kia. Người cán bộ phụ trách chính sách thương binh liệt sĩ ở xã nói làm sao mà tin được đối phương, kẻ đã từng đi theo giặc. Ông Thu không đủ tư cách xác nhận ông Vơn là liệt sĩ. Ông Thu thì khẳng định hôm đó bọn địch giết ông Vơn, chúng vứt xác ông nằm bên mép nước, đúng lúc con nước ròng. Có lẽ xác ông đã trôi ra biển cả, nhưng chắc chắn linh hồn ông vẫn còn quanh quẩn ở quê hương. Nhiều đêm nằm mơ, ông Thu vẫn thấy ông Vơn trở về trò chuyện với ông. Ông ấy nói thương cho người đã chết và ngay cả những người như ông khi đang còn sống.
*
* *
Ngày 30 tháng 4 năm 2024, tôi dẫn anh Hồng và những đồng đội cũ, các cựu chiến binh Tiểu đoàn 815 bộ binh, Trung đoàn 9 anh hùng về thăm quê hương của ông Thu. Lần đầu tiên ông Thu trở về thăm lại làng tôi sau hơn bảy chục năm xa cách. Ông ngồi trên chiếc xe con do anh Hồng, con trai ông lái. Ông muốn gặp lại đồng đội cũ, những cựu chiến binh ở chi đội Lê Trực ngày xưa nhưng không còn ai nữa. Cảnh vật ở đây đã đổi khác hoàn toàn. Không còn tiếng gõ reo của những chiếc thuyền chài trên sông. Dọc sông là các lồng nuôi cá chẻm, cá mú. Dòng sông Gianh lượn lờ uốn khúc không còn bóng cây xanh mọc ở ven bờ. Những rặng bần lúc lỉu quả đã vắng bóng. Hai bên bờ là dãy kè đá vững chắc giữ con đê bằng bê tông chạy dọc bờ sông, trong lũ lụt. Những mái nhà tranh lúp xúp dưới lũy tre làng đã được thay thế bằng những ngôi nhà mái ngói đỏ tươi. Nhiều dãy nhà cao tầng mọc lên san sát. Cả làng tôi vui như đón tết. Hội Cựu chiến binh của xã tổ chức lễ đón nhận hài cốt của ông Vơn được đưa về làng rất trang trọng. Lễ truy điệu, phủ quân kỳ cho ông Vơn được tổ chức tại hội trường trụ sở ủy ban nhân dân xã. Có cả cán bộ lãnh đạo của tỉnh, huyện về dự nữa. Hồn cốt của ông Vơn nằm trong ngôi mộ gió. Trong quan tài ông là một bộ cốt làm bằng cây dâu tằm với những nắm đất bốc lên từ mố cầu Bùng và bãi cỏ dọc sông Son nơi ông ngã xuống năm xưa.
Ông Thu được mời lên phát biểu. Ông nghẹn ngào không nói nên lời. Người dân làng tôi đã thay đổi cách nhìn đối với ông. Từ thái độ khinh bỉ, chê bai, họ đã chuyển sang kính phục và lòng biết ơn. Ông vẫn giữ vững phẩm chất của một người lính, của bộ đội Cụ Hồ. Họ nói ông là chứng nhân của lịch sử, viên ngọc sáng lấp lánh bị che khuất bởi lớp bụi của thời gian.
Hoàng Minh Đức
Xóm 2, thôn Bắc Minh Lệ, xã Nam Gianh, tỉnh Quảng Trị.
Điện thoại: 0379872648.