---------------------------------------------------------------------------
THIẾU TƯỚNG HOÀNG KIỀN
VIẾT TRÊN ĐƯỜNG THĂM CHIẾN TRƯỜNG XƯA
NÓI VỀ TRƯỜNG SA... GẠC MA
CẮM CỜ TRÊN ĐẢO GẠC MA
Một số người có ý kiến về cắm cờ, giữ cờ trên đảo Gạc Ma.
Tại sao nó bắn chết trung uý Trần Văn Phương, đâm bị thương binh nhất Nguyễn Văn Lanh, bộ đội ta không đánh địch mà lại tạo thành vòng tròn để bảo vệ lá cờ?
Xin mời đọc bài viết này.
NHỮNG DIỄN BIẾN VỀ TRƯỜNG SA
Quần đảo Trường Sa đã được các triều đại phong kiến Việt Nam xác lập chủ quyền và cho quân ra đóng giữ từ rất sớm. Sau này là quân đội Sài Gòn tiếp tục quản lý quần đảo và đóng quân trên các đảo nổi.
PHI LIP PIN CHIẾM ĐÓNG MỘT SỐ ĐẢO
Một số trích dẫn :
Việt Nam cộng hoà đã để Philíppin chiếm mất đảo Song Tử Đông và một số đảo nổi khác.
Song Tử Đông (tên tiếng Anh: Northeast Cay, tiếng Filipino: Parola, giản thể: 北子岛; bính âm: Běizi dǎo, Hán-Việt: Bắc Tử đảo) là đảo san hô diện tích lớn thứ năm trong quần đảo Trường Sa. Các quốc gia gồm Trung Quốc, Đài Loan, Philippines và Việt Nam đều đòi hỏi chủ quyền đối với đảo Song Tử Đông. Hiện nó đang nằm dưới sự kiểm soát của Philippines.
Đảo nằm ở vị trí 11°28' vĩ Bắc, 114°21' kinh Đông, cách đảo Song Tử Tây do Việt Nam kiểm soát chỉ 2,82 km, cách đảo Thị Tứ do Philippines kiểm soát 45 km về phía tây bắc. Trên đảo có nhiều cây cỏ.
Năm 1933, nhà cầm quyền Pháp sáp nhập một số đảo chính và các đảo phụ thuộc trong quần đảo Trường Sa - bao gồm cả các đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây - vào địa phận tỉnh Bà Rịa của Nam Kỳ, Đông Dương thuộc Pháp. Năm 1956, Việt Nam Cộng hòa ra đời và cử tàu đi thị sát quần đảo Trường Sa, trong đó có Song Tử Đông. Năm 1963, Hải quân Việt Nam Cộng hòa đưa ba tàu là HQ-404 Hương Giang, HQ-01 Chi Lăng và HQ-09 Kì Hoà ra xây dựng lại bia chủ quyền Việt Nam tại một số đảo thuộc Trường Sa. Sách trắng năm 1975 về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa nêu rõ ngày xây dựng lại bia chủ quyền ở 6 đảo: ngày 19-5-1963, ở đảo Trường Sa; ngày 20-5-1963, ở đảo An Bang; ngày 22-5-1963, ở đảo Thị Tứ và Loại Ta; ngày 24-5-1963 ở đảo Song Tử Đông và đảo Song Tử Tây.
Đến năm 1970. Philippines đã tổ chức chiếm giữ đảo Song Tử Đông, đảo Thị Tứ, đảo Loại Ta và 4 đảo nữa. Domingo Tucay, năm 1970 là một trung úy trẻ tham gia cuộc hành quân đó kể lại, họ mang theo mật lệnh, được dặn đến tọa độ nhất định mới được mở ra. Có 7 đảo, bãi hoàn toàn hoang vắng, họ chiếm đóng dễ dàng. Chỉ khi tới đảo Song Tử Tây, họ thấy quân Việt Nam Cộng hòa đóng. "Chúng tôi báo về sở chỉ huy, được chỉ thị cứ để mặc họ".
Trong những đảo Philipines chiếm dịp đó có 6 đảo nổi, Thị Tứ là đảo lớn thứ nhì, Bến Lạc (Đảo Dừa) là đảo lớn thứ ba, Song Tử Đông là đảo lớn thứ năm ở quần đảo Trường Sa.
Theo như bài báo đăng lời Tucay, nhiều tháng sau khi Philippines chiếm đóng 7 đảo ở quần đảo Trường Sa, các nước khác mới biết. Như vậy, Philippines đã chiếm nhiều đảo lớn của Việt Nam bao gồm Song Tử Đông mà không gặp kháng cự nào đồng thời không được công bố ra, cho thấy sự che giấu thông tin từ các bên có liên quan mà trực tiếp là chính quyền VNCH đang quản lý và đóng quân trên quần đảo này vào thời điểm đó.
Đến năm 1975, sau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, đảo Song Tử Tây vẫn nằm dưới sự quản lý của Việt Nam còn đảo Song Tử Đông gần đó tiếp tục do Philippines quản lý.
ĐÀI LOAN CHIẾM ĐÓNG ĐẢO BA BÌNH
Sau năm 1975 cho đến nay, Đài Loan vẫn chiếm giữ trái phép đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Chiếm giữ như thế là do lợi dụng hoàn cảnh Việt Nam đang lâm nạn, bị mất chủ quyền, thực dân đô hộ và chiến tranh, nhất là thời điểm quân Pháp rút khỏi Việt Nam.
Để bố phòng khoảng trống lực lượng trên biển Đông, Đài Loan cùng một số nước bất chấp lẽ phải, bất chấp luật pháp quốc tế, chà đạp lên sự thật chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bất khả tranh nghị.
TRÁCH NHIỆM
Quân đội Sài Gòn đã để mất 7 đảo nổi ở Trường Sa vào tay Phi lip pin, một đảo nổi vào tay Đài Loan.
TRUNG QUỐC XÂM CHIẾM CÁC BÃI ĐÁ NGẦM ( còn gọi là đảo chìm của Việt Nam).
Cho đến trước năm 1988 Trung Quốc chưa có mặt ở Trường Sa.
Ngày 14/3/1988 Trung Quốc đưa lực lượng hải quân chiếm đóng một số đảo chim và đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam. Sự kiện này được các báo chí gọi là trận chiến Gạc Ma, là cuộc xung đột vũ trang trên biển khu vực quần đảo Trường Sa, nói như vậy cũng chưa hoàn toàn chính xác. Tôi cho rằng thực chất đây là trận chiến đơn phương do Hải quân Trung Quốc hung hãn bắn cháy 1 tầu đổ bộ, bắn chìm 2 tầu vận tải của Việt Nam, sát hại dã man 64 cán bộ chiến sỹ Hải Quân, chiếm đóng trái phép 5 bãi đá ngầm và đảo chìm Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Quần đảo Trường Sa nằm ở giữa Biển Đông trải trên một khu vực biển khá rộng, chiều ngang từ đông sang tây khoảng 170 hải lý (300 km), chiều dọc từ bắc xuống nam khoảng 330 hải lý (611 km). Đảo Trường Sa gần nhất cũng cách Cam Ranh 250 hải lý (463 km), đảo Tiên Nữ xa nhất về phía đông cách Cam Ranh 390 hải lý (700 km). Quần đảo bao gồm các đảo, các bãi cạn, bãi đá ngầm với khoảng 140 vị trí.
CÁC ĐẢO NỔI:
Phi Líp Pin chiếm 8 đảo
Đài Loan chiếm 1 đảo
Việt Nam hiện quản 9 đảo. Tháng 4/1975 ta giải phóng 5 đảo do quân đội Sài Gòn đóng giữ bao gồm : Trường sa, Nam Yết, Song Tử Tây, Sinh Tồn, Sơn Ca. Năm 1978 ta đóng hết 4 đảo nổi nhỏ còn lại bao gồm : Trường Sa Đông, Sinh Tồn Đông, Phan Vinh, An Bang.
Tất cả các bãi cạn (còn gọi là đảo chìm) cho đến năm 1986 chúng ta thường xuyên kiểm tra quản lý đặt các mốc chủ quyền, chưa tổ chức đóng giữ đảo.
Tháng 4/1986 Phó đô đốc Giáp Văn Cương - Tư lệnh Hải quân dẫn đầu đoàn cán bộ HQ, có sự tham gia của cơ quan BQP đi kiểm tra, chỉ đạo các mặt toàn bộ quần đảo Trường Sa. Tôi là Đại uý - trợ lý phòng Công binh được giao nhiệm vụ thay mặt thủ trưởng phòng đi cùng Tư lệnh, Đại uý Đỗ Văn Thông - trợ lý phòng Công binh cùng tham gia đoàn. Đến đảo chìm Thuyền Chài, Tư lệnh chỉ thị tàu thả neo, cho xuồng vào kiểm tra mốc chủ quyền của ta, phát hiện có hiện tượng vi phạm, nhòm ngó của nước ngoài. Tư lệnh Giáp Văn Cương nói: Sẽ có tranh chấp đảo chìm xảy ra và chỉ đạo các biện pháp chuẩn bị đối phó. Tháng 11 năm 1986 nhà C3 đầu tiên được lắp dựng trên đảo chìm Thuyền Chài. Kết cấu nhà tận dụng cột điện gỗ thông cũ ở Cam ranh của Mỹ cắt ra làm cột, dầm gỗ thông, sàn lát ghi nhôm, mái lợp vòm tôn. Đại uý kỹ sư Đỗ Văn Thông TL/PCB cùng Thượng uý kỹ sư Hoàng Anh Dũng - trợ lý công binh V4 thiết kế, phân đội công binh Vùng 4 ra triển khai. Sang năm 1987 Tư lệnh trực tiếp ra kiểm tra thấy chưa yên tâm, Ông quyết định xây dựng một nhà lâu bền còn gọi là nhà C1 bên cạnh nhà C3 bằng đá xây kết hợp bê tông cốt thép lắp ghép, do kỹ sư Đỗ Văn Thông thiết kế, Công binh vùng 4 thi công.
Ngày 31/12/1986 Ma lay xia đưa quân chiếm đóng hai đảo chìm là Kỳ Vân và Kiều Ngựa. Ngày 14/2/1986 Trung Quốc đưa tầu chiến giả dạng tầu cá đến trinh sát một số bãi cạn ở Trường Sa và đặt các tấm bê tông " kỷ niệm " ở một số bãi cạn. Ngày 3/9/1987 Quốc hội Trung Quốc thông qua quy chế đưa đảo Hải Nam thành tỉnh và sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào Hải Nam. Sau đó họ liên tục cho tầu chiến giả dạng tầu dân sự để khảo sát, trinh sát thăm dò quần đảo Trường Sa của ta nhằm âm mưu xâm chiếm các đảo chìm.
Trước tình hình đó BTLHQ khẩn trương nghiên cứu phương án đóng giữ các đảo chìm từ cuối năm 1987. Đã đóng 2 pông tông có nhà phủ bạt trên boong đưa ra Đá Đông và Đá Tây, nhưng do sóng gió lớn pông tông Đá Tây bị đứt neo trôi không chịu được đành kéo về Đá Đông. Chuyển sang phương án chủ yếu là dùng tầu vận tải, tàu đổ bộ LCU và các nhà cao chân C3 để chốt giữ các đảo chìm.
Khi phát hiện Trung Quốc đưa tầu chiến xuống Trường Sa, chúng ta đã đưa các tầu vận tải và các lực lượng Công binh, Hải quân đánh bộ, lực lượng chốt giữ đảo ra đóng giữ. Từ 28/12/1987 đến 15/1/1988 đã lắp dựng xong nhà C3 ở Đá Tây.
Đã xác định đảo Chữ Thập nằm ở trung tâm của quần đảo là vị trí hết sức quan trọng. Ngày 27/1 đã cử một biên đội tầu vận tải do đồng chí Phạm Công Phán lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 chỉ huy lực lượng trên tàu HQ611 và HQ712 ra chốt giữ. Do sóng gió lớn, tầu hỏng máy, đến chậm, khi tới thì Trung Quốc đã chiếm từ 22/1.
Một số đảo chìm khác ta cũng đưa tầu vận tải, tàu đổ bộ LCU, pông tông, khung nhà C3 cùng lực lượng ra chốt giữ. Với lực lượng tầu của Lữ đoàn 125 và Hải đội của Vùng 4, Trung đoàn Công binh 83, Trung đoàn Công binh 131, Lữ đoàn giữ đảo 146, Lữ đoàn HQĐB 126, Tiểu đoàn Công bịnh V4, đã quyết tâm tổ chức đóng giữ các đảo chìm.
Trung Quốc với lực lượng tầu chiến mạnh, ngăn cản, đe doạ, tầu ta nhỏ bị họ đẩy ra chiếm mất một số đảo.
Đã xảy ra sự tranh chấp quyết liệt với hải quân Trung Quốc. Ngày 14/3/1988 Trung Quốc âm mưu chiếm các đảo chìm Cô Lin, Len Đao, Gạc Ma. Lực lượng Hải quân ta đã đấu tranh kiên quyết. Đối phương với số lượng tầu chiến huy động nhiều ( 9-12 chiếc), các tầu khu trục, hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo, hoả lực mạnh, đã hung hãn bắn chìm tàu vận tải 604 ở Gạc Ma, bắn chìm tầu vận tải HQ 605 ở Len Đao, bắn cháy tàu đổ bộ HQ 505 ở Cô Lin. Tầu HQ 505 bị cháy vẫn quyết tâm lao lên đảo và ta giữ được Cô Lin. Tư lệnh Hải quân chỉ huy tiếp tục đưa tầu vận tải, tầu kéo treo cờ chữ thập đỏ và lực lượng ra Len Đao để cứu thương binh lấy tử sỹ và dựng nhà C3 đóng giữ Len Đao.
Tại Gạc Ma bộ phận của lữ đoàn 146 đã đổ bộ lên đảo cắm cờ Việt Nam, một phân đội của trung đoàn Công binh 83 đang vận chuyển vật liệu lên dựng nhà C3. Trung Quốc đã cho lính lên tranh chấp với ta, chúng giật cờ trong tay Trung uý Trần Văn Phương - sĩ quan chỉ huy của lữ đoàn 146 không được, tên chỉ huy đã dùng súng ngắn bắn chết Trung uý Phương. Đồng chí Nguyễn Văn Lanh chiến sỹ của Trung đoàn Công binh 83 dùng xà beng, giơ chân đánh văng khẩu súng ngắn trong tay tên sĩ quan Trung Quốc, rồi lao vào quyết tâm giữ lá cờ Tổ quốc, chúng không giật được cờ đã dùng lưỡi lê đâm vào vai đồng chí Lanh cho gục xuống. Quân ta đã nắm tay nhau đứng vòng quanh quyết bảo vệ lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, dùng xà beng, dụng cụ lao động chống trả lại những hành động hung hãn của quân thù. Không thể phá vỡ được vòng tròn bất tử của các chiến sỹ Hải Quân nhân dân Việt Nam, chúng rút quân lên tầu rồi xả pháo 37 ly, 12,7 ly bắn chết gần hết số cán bộ chiến sỹ của Trung đoàn 83 lắp dựng nhà và cán bộ chiến sỹ của Lữ đoàn 146 ra giữ đảo. Chúng dùng pháo 100 li bắn chìm tàu HQ 604 tại Gạc Ma.
Trong cuộc xung đột này tổng số 64 cán bộ chiến sỹ Hải Quân đã hy sinh ở cả 3 đảo trong đó có 26 đồng chí của Trung đoàn Công binh 83, họ bắt đi 9 người trong đó có 6 chiến sĩ của của Trung đoàn Công binh 83 mang về đảo Hải Nam giam giữ, năm 1991 họ trao trả, tôi ra nhận 6 chiến sĩ của Trung đoàn CB 83, đưa anh em ra Hạ Long an dưỡng.
Bằng các hành động dũng cảm không chùn bước trước mũi súng của quân thù. Với quyết tâm cho tầu ủi bãi, dùng Pông tông, tàu LCU neo cắm, lắp dựng nhà C3 chúng ta đã chốt giữ được 12 đảo chìm trong khi Trung Quốc chiếm được 6 đảo chìm. Trong đó xảy ra chiến sự ở khu vực 3 đảo chìm họ chỉ chiếm được 1 đảo Gạc Ma, chúng ta vẫn giữ được Cô lin và Len Đao.
Trung tá Vũ Huy Lễ thuyền trưởng tầu HQ 505, Trung tá liệt sĩ Trần Đức Thông Phó lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 , Đại uý liệt sĩ Vũ Phi Trừ thuyền trưởng tầu HQ 604, Trung uý liệt sĩ Trần Văn Phương đại đội trưởng / Lữ đoàn 146 , Bịnh nhì Nguyễn Văn Lanh chiến sỹ của Trung đoàn Công Bịnh 83 đã được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong tình hình đó chúng ta nhờ bạn đưa tầu bệnh viện, tầu kéo của Hạm đội Thái Bình Dương đang đậu ở quân cảng Cam Ranh ra giúp cứu thương binh lấy tử sỹ nhưng cũng không được. Chúng ta phải dùng tầu kéo, tầu vận tải treo cờ chữ thập đỏ ra thực hiện nhiệm vụ này.
Trung Quốc chọn thời điểm từ cuối năm 1987 đến đầu năm 1988 gió mùa đông bắc rất mạnh, sóng lớn để thực hiện âm mưu chiếm đóng, đánh chiếm các đảo chìm của ta ở Trường Sa. Các tầu của ta nhỏ chịu sóng gió kém, chưa có định vị vệ tinh, đi dễ lạc đường không bắt được đảo chìm nên gặp nhiều khó khăn bất lợi. Lực lượng tầu của Hải quân ta lúc đó còn yếu, chúng ta có tầu Phóng lôi và tầu Tên lửa, tầu Pháo nhưng đều là loại nhỏ tiến công ven bờ, chịu sóng gió kém, không có khả năng tác chiến dài ở ngoài Trường Sa được. Về không quân các máy bay MIC không bay tới Trường Sa, ta có máy bay SU 22 cũng chỉ bay ra hoạt động được khoảng thời gian rất ngắn lại ngoài tầm dẫn đường của ra đa Không quân nên khả năng tác chến rất hạn chế. Trong khi đối phương có các tầu chiến lớn: khu trục, hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo với số lượng nhiều và hoả lực rất mạnh, cuộc chiến không cân sức. Đồng thời lúc đó chúng ta còn đang phải đối phó với cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc và lực lượng còn đang ở Căm Pu Chia giúp bạn . Tình hình kinh tế đất nước vô cùng khó khăn. Về đối ngoại cũng không thuận lợi khi chúng ta đưa quân vào Căm Pu Chia giúp nhân dân bạn đánh đổ chế độ diệt chủng Khơ me đỏ.
Có người phát biểu cho rằng đồng chí Lê Đức Anh Bộ trưởng/ Bộ quốc phòng và Đồng chí Giáp Văn Cương Tư lệnh Hải quân ra lệnh không được nổ súng vv nên đã mất Gạc Ma. Nói như vậy là không có kiến thức về quân sự, võ mồm. Phải hiểu rằng tác chiến trên biển hoàn toàn khác với tác chiến trên đất liền. Tương quan lực lượng Hải quân của hai bên khi đó và trực tiếp ở Trường Sa ta ở thế yếu. Tình hình kinh tế đất nước vô cùng khó khăn, tình hình quốc tế không thuận lợi cho ta, dưới sự chỉ đạo của QUTW và Bộ trưởng BQP, Tư lệnh Giáp Văn Cương xử lý tình hình lúc đó là hết sức sáng suốt, giữ được trạng thái ổn định sau 14/3 không để họ tiếp tục lấn tới. Tất cả cán bộ Hải quân lúc đó cho đến hiện nay đều khảng định như vậy.
I. CẮM CỜ TRÊN ĐẢO GẠC MA
Nhiều người hỏi tôi: tại sao quân Trung Quốc đã lên đảo bắn chết Trung uý Phương, đâm cho binh nhất Lanh gục xuống mà bộ đội ta vẫn vây quanh giữ lá cờ?
Đây là vấn đề quan trọng. Tôi xin nêu chính kiến của mình.
Lá cờ - Quốc kỳ là biểu hiện chủ quyền quốc gia. Nơi nào có cờ của Tổ quốc nơi đó có chủ quyền quốc gia.
Đến năm 1986 Trung Quốc chưa có mặt ở Trường sa. Khoảng 100 bãi đá ngầm chúng ta quản lý nhưng cũng chưa có điều kiện thiết lập công trình mà mới đặt các bia chủ quyền ở các đảo độ sâu cho phép.
Năm 1987 quốc hội Trung Quốc ra nghị quyết thành lập tỉnh Hải Nam, sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào Hải Nam, đây là vấn đề sai trái nghiêm trọng, vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Sau đó Trung Quốc cho tàu chiến giả dạng tàu đánh cá thăm dò quần đảo Trường Sa, thả trộm các tấm bê tông trên các đảo chìm ghi chữ “ kỉ niệm “ . Hải quân Việt Nam thường xuyên kiểm tra thu hồi thả xuống biển. Đầu năm 1988 Trung Quốc có hoạt động ráo riết hơn, họ thả các bè mảng có quốc kỳ Trung Quốc, có móc neo trên khu vực quần đảo Trường Sa, khi gặp đảo chìm nào neo lại là chủ quyền của họ, Hải quân Việt Nam đã chủ động kiểm tra phá bỏ. Việc cắm cờ trên đảo chìm lúc này là vô cùng quan trọng và cấp bách.
Mặc dù coi Trường Sa là của Trung Quốc nhưng họ cũng có bước đi đầy tính toán. Các đảo nổi của Việt Nam họ không xâm phạm, các đảo chìm ta đã xây dựng công trình, cắm cờ Việt Nam họ không xâm phạm, họ tập trung tranh chấp các đảo chìm chúng ta chưa cắm cờ.
Việc cắm cờ trên đào Gạc Ma là một mệnh lệnh: dù hy sinh nhưng nhất định không để mất cờ.
Chúng ta đã cắm cờ xác định chủ quyền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên đảo Gạc Ma. Trung Quốc rắp tâm cướp cờ, cướp đảo Gạc Ma của Việt Nam.
Nhiệm vụ của phân đội Lữ đoàn 146 do Trung uý Trần Văn Phương là cắm cờ xác định chủ quyền của Viêt Nam trên đảo Gạc Ma. Phân đội của Trung đoàn Công binh 83 là lắp dựng nhà C3 bàn giao cho phân đội của Lữ đòan 146 đóng quân chốt giữ đảo. Quân Trung Quốc đến giật cờ để cắm cờ của họ. Tất cả cán bộ chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam vây quanh bảo vệ lá cờ, tạo thành vòng tròn bất tử là như thế.
Do không giật được lá cờ trong vòng tròn bất tử của các chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, chúng rút quân lên tàu, xả súng pháo sát hại hầu hết cán bộ chiến sĩ Hải quân Việt Nam trên đảo Gạc Ma, cướp lá cờ của Việt Nam, cắm cờ Trung Quốc lên Gạc Ma. Đây là một hành động chiếm đóng trái phép.
II. QUAN ĐIỂM VỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO
Một số cựu sĩ quan quân đội Sài Gòn đọc các bài của tôi viết về Gạc Ma nói rằng: Công sản các ông nhu nhược, dâng Gạc Ma và các đảo Trường Sa cho Trung Quốc, các ông mới là người bán nước.
Tôi nói rằng:
Các ông mới là những kẻ nhu nhược, để Trung Quốc chiếm hết quần đảo Hoàng Sa trong khi hạm đội 7 của Mỹ hiện diện gần đó.
Các ông đã để Đài loan chiếm mất đảo lớn nhất Trường Sa, Phi líp pin chiếm 7 đảo mà các ông đang quản lý.
Cộng sản chúng tôi giải phóng 5 đảo từ tay các ông, đóng giữ hết 4 đảo nổi còn lại. Triển khai đóng giữ sớm các đảo chìm. Trong cuộc tranh chấp với Trung Quốc chúng tôi giữ được 12 đảo, trong khi Trung Quốc mạnh hơn về lực lượng hải quân tại Trường Sa nhưng chỉ chiếm được 6 đảo. Cuộc tranh chấp Cô Lin, Len Đao, Gạc Ma Trung Quốc chỉ chiếm được Gạc Ma.
Ông ta hỏi tại sao các ông để mất Gạc Ma?
Tôi nói, các ông có nhờ người Mỹ giúp cũng không ngăn cản được Trung Quốc chiếm Gạc Ma.
Thế là ông ta im luôn.
III. GẠC MA TRONG LÒNG
Tám năm chỉ huy Trung đoàn Công binh 83 thuộc quân chủng Hải quân làm nhiệm vụ xây dựng công trình trên quần đảo Trường Sa sau sự kiện 14/3/1988, một thời kỳ đầy gian nan nguy hiểm, với quyết tâm và trách nhiệm cao cả bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Mỗi lần đi qua Gạc Ma tàu đều thả trôi để làm lễ tưởng niệm 64 cán bộ chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã hi sinh nơi đây. Tôi viết bài thơ.
QUA ĐẢO GẠC MA
Tầu qua bãi cạn Gạc Ma
Ầm ào sóng vỗ tiếng loa bi hùng
Hoa tươi nến sáng thả cùng
In vào đáy biển sóng lừng Đại dương
Quyện trong màn khói trầm hương
Bóng hình đồng đội thân thương giao hoà
Nỗi đau Mười bốn tháng ba
Pháo hạm, lính thuỷ Trung Hoa bạo tàn
Súng lia, đạn nổ, máu chan
Tầu chìm, người ngã trên làn san hô
Nguyễn Văn Lanh quyết giữ cờ
Chúng toan cướp đảo, mưu đồ xấu xa
Vững vàng ý chí “ Tám Ba “
Hy sinh anh dũng Đoàn Ta kiên cường
Tuổi xuân để lại chiến trường
Biển xanh quanh đảo máu xương thấm dầy
Các Anh yên nghỉ nơi đây
Ngày đêm canh giữ đảo này không ngơi
Niềm tin son sắt đời đời
Chủ quyền Tổ quốc biển trời của ta
Trường Sa mãi mãi nở hoa
Ngàn năm sóng hát bài ca hào hùng.
IV. RỜI HẢI QUÂN, LƯU LUYẾN CHIA TAY TRƯỜNG SA
Ngày 22/12/1996 tôi có quyết định của Bộ trưởng - Bộ quốc phòng điều về làm Phó tham mưu trường Binh chủng Công binh. BTL Hải quân mà trực tiếp là Phó đô đốc Mai Xuân Vĩnh - Tư lệnh Hải quân điện cho tôi lên gặp và nói: Nhiệm vụ xây dựng công trình Trường Sa đang rất lớn, đồng chí đi lúc này là khó khăn lắm. Tôi báo cáo với Tư lệnh là tôi không muốn xa Hải quân, tôi tiếp tục chỉ huy đơn vị làm nhiệm vụ xây dựng công trình Trường Sa năm 1997. Tháng 7/1997 tôi đi chia tay Trường Sa trong một chuyến tàu đặc biệt do SCH vận tải bố trí đi chia tay toàn bộ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Tôi viết bài thơ
TRƯỜNG SA TRONG TIM TÔI
Lên tầu chuyến đi xa
Hành trình qua các đảo
Chìm nổi là bao nhiêu
Mục tiêu đi thăm hết
Ba mươi ngày mải miết
Đảo đến đảo nối liền
Lên Song Tử đầu tiên
Chào An Bang điểm cuối
Chẳng quản ngày đêm tối
Liên tục hối hả theo
Biển cả sóng vang reo
Tầu nhổ neo hành tiến
Hiệp đồng như thần tiên
Tầu – Đảo – Công liên kết
Đoàn đến vui như tết
Sáng bừng lên Biển Đông
Tám năm liền nối thông
Trường Sa đảo mênh mông
Mở luồng, xây công sự
Kè, “biệt thự” thi công
Đem đất tặng rau trồng
Đảo chìm đưa hộc, giống
Đảo nổi vườn đồng bộ
Công binh hộ vô tư
Chuyến đi chào giã từ
Trường Sa như ruột thịt
Một phần đời tha thiết
Xa rồi biết gặp không
Biển Đông sóng mênh mông
Tầu kéo còi vang lồng
Xuồng nhỏ ra chèo chống
Sóng đánh chìm bãi nông
Thay xuồng nhắc nhủ lòng
Phao đeo, sào vững chống
Quyết tâm không lùi lại
Chắc tay lái ra tầu
Bồi hồi lắng đọng sâu
Tiếng còi tầu vang dội
Vẫy tay chào đồng đội
Trường Sa trong tim tôi.
Ngày 31/7/1997 Đồng chí Đặng Văn Phúc - Tư lệnh Công binh vào đơn vị yêu cầu tôi ra nhận công tác chuẩn bị tập huấn để diễn tập chiến dịch . Tôi báo cáo được Tư lệnh Hải quân cho ra BTL Công binh nhận công tác. Xa Trung đoàn 83 với bao lưu luyến, nơi tôi có tám năm gắn bó, đã cùng tập thể Đảng uỷ, chỉ huy lãnh đạo, chỉ huy cán bộ chiến sĩ hoàn thành đặc biệt xuất sắc nhiệm vụ xây dựng công trình chiến đấu trên quần đảo Trường Sa, được tặng danh hiệu vInh dự nhà nước Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân lần thứ hai vào ngày 22/12/1994. Tôi mãi tự hào là chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam Anh hùng.
* NHẤT ĐỊNH THẾ HỆ MAI SAU CỦA NƯỚC TA SẼ LẠI CẮM CỜ TRÊN ĐẢO GẠC MA.
Sa Va Na Khét - Vien Chăn - CHDCND Lào sáng 14/7/2018
Thiếu tướng Hoàng Kiền