ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN - BIỂU TƯỢNG VĨ ĐẠI CỦA MỐI QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT - LÀO
Ngày đăng:
09:19 30/10/2019
Lượt xem:
727
ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN - BIỂU TƯỢNG VĨ ĐẠI
CỦA MỐI QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT - LÀO
Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn
Phó Chủ tịch Thường trực
Hội Truyền thống Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh - Việt Nam
Quan hệ đặc biệt Lào - Việt, Việt - Lào là một bộ phận trong mối liên minh chiến lược giữa ba dân tộc Việt Nam – Lào - Cămpuchia cùng chung sống trên bán đảo Đông Dương.
Trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Trường Sơn (nhân dân Lào gọi là Phu Luông) luôn được coi là biểu tượng của sự kiên cường, bền vững; của tình đoàn kết, lòng dũng cảm, ý chí quyết thắng, khí phách anh hùng của nhân dân hai nước. Và Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn vinh dự được mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tiêu điểm của tinh thần ấy, ý chí ấy.
Xét trên bình diện địa lý tự nhiên và địa lý quân sự, Thượng tướng - Giáo sư Hoàng Minh Thảo - một nhà khoa học đồng thời là một nhà quân sự nổi tiếng đã ví Trường Sơn như cột sống cơ thể con người. Hai nước cùng chung cột sống ấy không dễ gì tách rời nhau, không thể tách rời nhau[1].
Lịch sử đã chứng minh nhiều hành động mang tính chất liên minh chiến đấu, thể hiện mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào cũng như mối quan hệ giữa ba dân tộc Việt Nam - Lào - Campuchia. Song chỉ từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng của ba nước thì mối quan hệ này mới thực sự trở thành mối quan hệ chiến lược, mối quan hệ đặc biệt.
"Đường Hồ Chí Minh" trên dải Trường Sơn đã có từ trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhưng lúc đó mới chỉ là con đường giao liên Nam - Bắc, theo những lối mòn mà đồng bào các dân tộc thường qua lại. Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; Đảng ta chủ trương khôi phục và mở rộng con đường lịch sử này để chi viện cách mạng miền Nam. Đoàn 559 - được thành lập chính là nhằm đáp ứng nhu cầu bức thiết đó. Mặc dù đã tận tâm tận lực thực hiện nhiệm vụ soi đường, mở lối, song do địa hình phía đông Trường Sơn quá hiểm trở, lại bị địch ngăn chặn quyết liệt nên công tác chi viện của Đoàn 559 thuở ban đầu gặp vô vàn khó khăn. Đã nhiều lần các đơn vị gùi thồ của Đoàn phải ẩn náu trong rừng sâu, hang đá hàng tuần, hàng tháng trời vì không có cách nào vượt qua nổi đường 9.
Đường 559 hay đường mòn Hồ Chí Minh những ngày đầu chống Mỹ là như thế. Nó vẫn chỉ là con đường giao liên, con đường gùi thồ bằng sức người, là con đường mòn theo đúng nghĩa của cụm từ này.
Trước đòi hỏi bức thiết của cách mạng miền Nam và cách mạng Lào, cuối năm 1960, đại diện Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã gặp nhau bàn bạc, tìm cách tháo gỡ khó khăn. Tại cuộc gặp gỡ lịch sử này, các bạn Lào hoàn toàn nhất trí và ủng hộ đề nghị của phía Việt Nam cho phép mở đường sang Tây Trường Sơn. Các bạn phát biểu rất chí tình: "Vận mệnh hai nước chúng ta đã gắn bó mật thiết với nhau. Nhân dân Lào sẽ làm hết sức mình để góp phần vào thắng lợi của nhân dân Việt Nam anh em"[2].
Nhờ sự ủng hộ chí tình của Bạn, việc mở đường vượt đỉnh Trường Sơn qua biên giới Việt - Lào nhằm "lật cánh" Tuyến chi viện chiến lược sang phía Tây Trường Sơn được gấp rút triển khai. Đồng thời với việc "lật cánh", các hoạt động kháng chiến của quân dân Lào được đẩy mạnh. Đặc biệt từ ngày 11 tháng 4 đến ngày 3 tháng 5 năm 1961, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân và dân Lào mở chiến dịch tiến công địch, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn dọc phía Tây Trường Sơn từ Căm Cớt, Lạc Sao đến Mường Phìn, Sê Pôn, Bản Đông, nối đường 12 với đường số 9 tạo thành một hành lang dài hàng trăm kilômét, rộng hơn 50 kilômét. Toàn bộ 6 mường (huyện) của Lào ở Bắc và Nam đường 9 được giải phóng đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc mở tuyến vận tải chi viện chiến lược. Sau này, tuyến đường còn được mở qua 17 mường (huyện) của nước Lào anh em.
Sự kiện trên đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh, thời kỳ lấy vận tải cơ giới là chính, thời kỳ "đánh địch mà đi, mở đường mà tiến", "xẻ dọc Trường Sơn", vượt qua vùng ba biên giới ở đông nam tỉnh Át-tô-pư và vùng đông bắc Cămpuchia rồi vòng về Tây Nguyên nối với Khu 6, Khu 5 và miền Đông Nam Bộ.
Có thể khẳng định, đường Hồ Chí Minh chỉ thực sự trở thành "động mạch chủ" của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ba nước Đông Dương, đặc biệt là nhân dân hai nước Việt - Lào kể từ khi chúng ta "lật cánh" sang Tây Trường Sơn".
Từ lúc mới hình thành cho đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đường Hồ Chí Minh chủ yếu đi trên đất Lào với chiều dài hơn một nghìn kilômét. Do tầm quan trọng đặc biệt nên trong suốt 16 năm, đế quốc Mỹ và tay sai đã sử dụng mọi biện pháp tàn bạo và thâm độc nhằm ngăn chặn, hủy diệt, chấm dứt Tuyến chi viện chiến lược của ta. Chúng đã mở hàng chục vạn cuộc ném bom bắn phá của không quân, trong đó có hàng vạn lần chiếc máy bay chiến lược. Chúng đã ném xuống Đường Hồ Chí Minh hàng triệu tấn bom đạn các loại. Đó là chưa kể đến vạn ga-lông chất độc hóa học.
Những âm mưu, thủ đoạn ngăn chặn, đánh phá hết sức ác liệt và tàn bạo của Mỹ - ngụy đã gây cho sự nghiệp kháng chiến của nhân dân hai nước Việt, Lào những khó khăn tổn thất không thể kể xiết. Hàng vạn cán bộ chiến sĩ quân đội hai nước và nhân dân các bộ tộc Lào đã hy sinh trên tuyến đường lịch sử này.
Bất chấp những âm mưu, hành động tàn bạo và thâm độc của kẻ thù; dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Chính phủ, nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng Lào vẫn kề vai sát cánh cùng quân dân Việt Nam kiên quyết đánh đuổi kẻ thù chung, đã cùng nhân dân Việt Nam xây dựng và mở rộng Tuyến chi viện chiến lược. Bộ đội du kích của Bạn kết hợp chặt chẽ với bộ đội Việt Nam đánh trả máy bay địch, ngăn chặn các cuộc hành quân lấn chiếm, biệt kích, tập kích của chúng. Các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, dân công Việt Nam dù hành quân qua hay trực tiếp chiến đấu trên tuyến đường đều được quân dân nước bạn giúp đỡ như anh em ruột thịt. Nhân dân giúp bộ đội trinh sát thực địa, tìm đường vòng tránh các trọng điểm, nuôi dưỡng chăm sóc bộ đội khi bị thương hoặc ốm đau, giúp bộ đội xây dựng lán trại, kho tàng. Nhiều bà mẹ Lào tuy đời sống còn rất khó khăn, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc vẫn chắt chiu từng lon gạo, hộp sữa để nuôi dưỡng thương bệnh binh Việt Nam. Nhiều người dân Lào ở sâu trong vùng địch tạm chiếm đã bất chấp tính mạng có thể bị đe dọa, không quản đường xa, núi cao, vực sâu đưa trâu bò, lợn gà, rau xanh, gạo nếp đến tặng bộ đội ở các binh trạm. Nhân dân còn đóp góp hàng triệu ngày công đi dân công, làm đường, vận chuyển lương thực, cáng chuyển thương binh, góp phần vào mọi hoạt động của Tuyến chi viện chiến lược.
Nhờ sự ủng hộ giúp đỡ chí tình đó của Đảng, Chính phủ cách mạng và quân dân Lào anh em đường Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh ngày càng vươn dài, vươn xa với sức sống ngày càng mãnh liệt. Từ con đường mòn nhỏ bé đi trong dân với phương thức vận tải thô sơ, gùi thồ đã nhanh chóng trở thành một tuyến vận tải cơ giới quy mô lớn như một "trận đồ bát quái" xuyên dọc Trường Sơn, nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam và chiến trường các nước Bạn.
Đền đáp lại tấm lòng thủy chung, trong sáng của quân dân Lào anh em, các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong và dân công Việt Nam trên Tuyến chi viện chiến lược, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng tích cực cùng quân dân Lào anh em chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng. Bộ đội giúp nhân dân nông cụ, giống má, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi; cùng dân sản xuất, thu hoạch mùa màng. Khi dân gặp thiên tai, địch họa, đời sống khó khăn, bộ đội Việt Nam cùng bộ đội giải phóng Lào thực hành tiết kiệm, bớt tiêu chuẩn ăn hàng ngày để cứu đói cho dân… Những việc làm nói trên của bộ đội Việt Nam trên Tuyến chi viện chiến lược đã góp phần nhỏ bé vào việc tăng cường hơn nữa mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào. Nhân dân Lào càng thêm yêu quý và hết lòng giúp đỡ bộ đội Việt Nam. Đây là một trong những nhân tố góp phần quyết định để Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh hoàn thành xuất sắc vai trò lịch sử của mình. Đối với nhân dân hai nước, đó là con đường dẫn đến mọi thắng lợi, dẫn đến độc lập tự do. Đối với địch, đó là con đường dẫn đến mọi thất bại của chúng.
Trong phạm vi của một bài viết nhỏ, khó có thể trình bày thấu đáo những đóng góp to lớn của Đảng, Chính phủ, nhân dân và lực lượng vũ trang cách mạng Lào đối với sự sống còn của Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn. Song chính qua sự tồn tại và phát triển của con đường lịch sử, chúng ta có thể thấy mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào không phải là một hiện tượng nhất thời mà đã có tiền đề tự nhiên, lịch sử, có cơ sở xã hội vững chắc. Đường Hồ Chí Minh được xây dựng và phát triển cũng không phải do ý muốn chủ quan của một tổ chức hay cá nhân nào mà chính là từ yêu cầu khách quan, bức thiết, có ý nghĩa sống còn của cuộc đấu tranh của hai dân tộc để giành, giữ và xây dựng đất nước. Con đường huyền thoại trong mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào là kết quả của một quá trình vận động cách mạng tự giác, từ thấp lên cao, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi, thực sự tin cậy, gắn bó với nhau, chân thành hợp tác giúp đỡ nhau vì lợi ích chung của mỗi nước, của cả hai dân tộc. Chính vì thế, có thể coi Tuyến đường chiến lược Trường Sơn đường Hồ Chí Minh là một biểu tượng tuyệt đẹp, một bức tượng đài vĩ đại và bất tử của mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào, của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt - Lào - Cămpuchia.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, đòi hỏi nhân dân ba nước phải tăng cường và phát triển mối quan hệ lên một bước mới theo hướng toàn diện, chặt chẽ, hiệu quả. Trong đó, quan hệ liên minh hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh là một bộ phận rất quan trọng. Trước tình hình thế giới và khu vực đang diễn biến hết sức phức tạp, sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt - Lào - Cămpuchia có nhiều thuận lợi mới nhưng vẫn tiềm ẩn những nguy cơ thử thách khó lường thì việc nâng cao phát huy hơn nữa mối quan hệ đặc biệt là yêu cầu nhiệm vụ bức thiết cần được đặc biệt coi trọng nhằm góp phần vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân mỗi nước và của nhân dân ba nước.
[1] Quan hệ Việt - Lào, Lào Việt (Hội thảo khoa học Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội), Nxb Chính trị Quốc gia, H, 1993, tr.142.
[2] Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt, Sđd, tr.295.
tin tức liên quan