Thử thách nghiệt ngã hun đúc nên phong cách, con người Đại tướng Lê Đức Anh
VOV xin trân trọng giới thiệu bài viết của Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐNDVN nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đại tướng Lê Đức Anh (1/12/1920-1/12/2020). Đây là tham luận tại hội thảo khoa học cấp Quốc gia về Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh được tổ chức trong 2 ngày 29, 30/11 tại thành phố Huế.
Cuộc đời của Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với lịch sử nước nhà, nhất là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI. Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Quá trình hoạt động cách mạng, Đại tướng đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc, trong đó có phong cách lãnh đạo, chỉ huy của một vị tướng tài ba, quả cảm; một nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng, luôn một lòng vì dân, vì nước, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Những nét phong cách lãnh đạo, chỉ huy của Đại tướng Lê Đức Anh được tập trung thể hiện nổi bật trên một số nội dung đó là:
1. Tác phong lãnh đạo, chỉ huy quyết đoán, táo bạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm
Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, vị tướng mà bộ quân phục thấm đẫm khói lửa chiến tranh. Ông đã từng chỉ huy bộ đội tham gia những trận đánh, những chiến dịch quan trọng, những sự kiện mang tính bước ngoặt của chiến tranh như: Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968; cuộc chiến đấu chống lấn chiếm vùng giải phóng năm 1973; Chiến dịch Đường 14 Phước Long năm 1974; Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975; chỉ huy lực lượng vũ trang Quân khu 9 bảo vệ vững chắc biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc và phối hợp cùng lực lượng cách mạng Campuchia mở chiến dịch phản công giải phóng Campuchia giúp nhân dân nước Bạn thoát khỏi chế độ diệt chủng năm 1979; chỉ huy Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia từ năm 1981-1986. Ông còn là người trực tiếp thị sát, chỉ đạo và có những đóng góp quan trọng trong hoạch định, tổ chức xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng gắn liền với các chiến trường từ phía Nam đến phía Bắc và trên chiến trường nước Bạn.
Đầu năm 1967, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, Mỹ và Quân đội Sài Gòn huy động một lực lượng quân sự lớn mở cuộc hành quân Junction City, nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và chủ lực của ta tại căn cứ Dương Minh Châu. Đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền kiên quyết không di chuyển cơ quan, đồng thời tổ chức lực lượng tại chỗ đánh địch theo phương thức mới “bám trụ và bung ra”. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức đội ngũ cán bộ, nhân viên ở các cơ quan thành nhiều đội du kích ấp, xã. Lực lượng này chiến đấu bám trụ, tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân ở địa bàn không có dân, góp phần đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của địch, bảo vệ an toàn cơ quan Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền và hệ thống kho tàng chiến lược của ta.
Sau những nỗ lực của ba đợt tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, Cách mạng miền Nam nói chung, Quân khu 9 nói riêng đứng trước những khó khăn nghiêm trọng, địa bàn đứng chân của ta bị thu hẹp, bộ đội chủ lực Miền phải hoạt động chủ yếu trên đất Campuchia. Trước tình hình đó, một lần nữa trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ Tư lệnh kiên quyết bám trụ ở U Minh Thượng. Quyết định này đã giữ vững được vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 đối với các lực lượng vũ trang trên địa bàn. Lực lượng vũ trang và nhân dân Quân khu 9 dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã chủ động phản công đánh bại 2 cuộc tiến công của địch, phá tan kế hoạch “Tô dày, lấp kín U Minh”, giữ vững địa bàn.
Năm 1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí đã cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo giữ vững thế tiến công, đồng thời điện xin ý kiến của Bộ Chính trị, Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền. Trước quyết định rút lực lượng, đồng chí đã thẳng thắn trả lời “Tôi phải đánh đã...” chứ kiên quyết không để mất đất, mất dân. Dưới sự chỉ huy của đồng chí, các lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã anh dũng chiến đấu, bẻ gãy nhiều hoạt động nống lấn của địch, giữ vững địa bàn trọng điểm, tạo được thế và lực mới, làm cơ sở cho Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền và cấp trên có chủ trương chỉ đạo đúng đắn.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, đồng chí Lê Đức Anh đảm trách vị trí chỉ huy trực tiếp cánh quân hướng Tây - Tây Nam Sài Gòn (Đoàn 232). Trên cơ sở đánh giá chính xác tình hình, đồng chí cùng đội ngũ cán bộ các cấp, chỉ huy cánh quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chia cắt lực lượng địch ở Sài Gòn, miền Đông Nam Bộ với vùng đồng bằng sông Cửu Long; phát triển tiến công Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát; phối hợp cùng với các hướng khác giải phóng Sài Gòn.
Ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí đã thận trọng triển khai chủ trương giảm biên chế. Là người nắm rõ tình hình khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia vẫn còn tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp, căng thẳng, đồng chí bàn bạc thống nhất trong Đảng ủy, Bộ Tư lệnh tạm thời giữ lại nhiều hạ sĩ quan, chiến sĩ có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, cùng đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ chỉ huy, nhiều kinh nghiệm, trải qua thực tiễn chiến đấu, những đơn vị có truyền thống, nền nếp chính quy tốt để xây dựng lực lượng vũ trang. Do vậy, khi quân Pol Pot đánh sang toàn tuyến biên giới Tây Nam, Quân khu 9 đã không bị rơi vào tình trạng “bỏ trống địa bàn” vì không có quân thường trực.
Tháng 5 năm 1981, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 36 về tổ chức Quân tình nguyện Việt Nam và thành lập Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia (Bộ Tư lệnh 719), trực thuộc Bộ Quốc phòng. Khi triển khai thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TW, trên cương vị Tư lệnh Mặt trận 719, đồng chí Lê Đức Anh đã kiên quyết đề xuất: Riêng ở chiến trường Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam vẫn duy trì chế độ đảng ủy. Đồng chí cho rằng: “Chúng ta phải nhất quán, một chủ trương quân sự, một hoạt động quân sự không bao giờ là quân sự đơn thuần, mà hoạt động quân sự là hoạt động chính trị, phục vụ mục đích chính trị. Người chỉ huy quân sự là làm chính trị, phục vụ chính trị, phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của tổ chức đảng. Dứt khoát cái đó!”. Thực tiễn đã chứng minh đây là một đề xuất đúng đắn, bảo đảm cho sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và phù hợp với thực tế nhiệm vụ của các đơn vị ở Mặt trận 719 vào thời điểm đó.
Ngày 7 tháng 12 năm 1986, đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Khi đi thị sát thực tế tình hình biên giới phía Bắc, đồng chí đã ngay lập tức quyết định điều chỉnh các đơn vị chủ lực lui về tuyến hai để đưa dân quân, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một. Trước quyết định này, đồng chí Tư lệnh Quân khu 2 đề nghị Tổng Tham mưu trưởng ra chỉ lệnh bằng văn bản. Ngay lập tức, Ông đã giao đồng chí Phi Long - Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, viết lệnh. Với thái độ kiên quyết, trách nhiệm, Tổng Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã thực hiện điều chỉnh sơ bộ bố trí lực lượng, làm cho thế phòng thủ biên giới của bộ đội ta có chiều sâu và vững chắc hơn.
Đất nước hòa bình, mặc dù đang trong thế bao vây của các thế lực thù địch, nhưng Đại tướng Lê Đức Anh đã kiên quyết thực hiện giảm mạnh quân số và điều chỉnh thế bố trí chiến lược. Đây là một quyết định táo bạo, thể hiện tầm nhìn chiến lược. Theo Đại tướng: Quân đội ta là sản phẩm của đấu tranh giành độc lập và là công cụ để bảo vệ hòa bình. Nay đất nước đã hòa bình “cần phải giảm hai phần ba quân số để tập trung sức xây dựng đất nước về mọi mặt. Tuy nhiên, giảm quân số bộ đội thường trực, điều chỉnh chiến lược không có nghĩa là làm cho Quân đội ta yếu đi hoặc coi thường nguy cơ chiến tranh. Trái lại, phải xây dựng cho Quân đội ta mạnh hơn bao giờ hết, làm cho đất nước có sức mạnh bảo vệ mình hơn hẳn trong các cuộc chiến tranh vừa qua”. Thực hiện quyết định trên, quân số thường trực của Quân đội ta giảm từ 1,5 triệu xuống còn 45 vạn (từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn). Gánh nặng ngân sách quốc phòng được giải tỏa.
Nói về Đại tướng Lê Đức Anh, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho rằng: “Ngần ấy thời gian biết anh Sáu Nam, có lúc cùng chiến trường, có lúc cùng ở cấp lãnh đạo đất nước, Anh là cán bộ tham mưu tầm cỡ, một vị tướng chỉ huy cương nghị, bản lĩnh và dám chịu trách nhiệm”.
2. Một cán bộ cách mạng có tác phong làm việc trách nhiệm, tâm huyết, mềm dẻo nhưng rất cương quyết
Trước những khó khăn chung của đất nước do bị tàn phá sau chiến tranh, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh quyết định chỉ giữ lại Sư đoàn 330 thường trực, còn đưa Sư đoàn 8 và Sư đoàn 4 đi làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế; tổ chức đào tạo cán bộ quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang; kiểm kê quản lý và sử dụng chặt chẽ, hiệu quả toàn bộ tài sản, kể cả số vũ khí, cơ sở vật chất thu được của địch. Những quyết định trên, không gây biến động lớn về tổ chức biên chế mà còn tạo được sự ổn định vững chắc cả về con người, tổ chức và xã hội trên địa bàn Quân khu 9. Do vậy, khi quân Pol Pot gây hấn, lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã đánh bại địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Lợi dụng tình hình khó khăn sau chiến tranh và sự yếu kém của một bộ phận cán bộ địa phương, các thế lực thù địch lôi kéo nhân dân tiến hành bạo loạn ở Trà Vinh. Đồng chí Lê Đức Anh chủ trương không đưa lực lượng quân sự xuống dẹp bạo loạn mà phải giải quyết vấn đề mềm dẻo, khôn khéo, nhưng cương quyết, dứt khoát, không để đổ máu. Ông đã cùng Tỉnh ủy Trà Vinh tìm hiểu những sai trái, lệch lạc trong đội ngũ cán bộ, từ đó tiến hành kiểm điểm, sửa sai, xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ vi phạm. Với cách xử lý khôn khéo, cương quyết đó, đồng chí đã cùng lãnh đạo tỉnh Trà Vinh dẹp được bạo loạn, giữ vững ổn định chính trị.
Quá trình chỉ đạo giúp cách mạng Campuchia, Đại tướng luôn trăn trở làm sao để bạn mạnh lên, từng bước tự đảm đương được sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước và máu của cán bộ, chiến sĩ ta đỡ đổ. Chính vì vậy, ông đã chỉ đạo xây dựng tuyến phòng thủ biên giới (K5) dài 800km, góp phần chia cắt chiến lược, hạn chế và ngăn chặn sự xâm nhập của địch từ Thái Lan vào nội địa Campuchia, để ở trong nội địa, ta và bạn kết hợp tiến công truy quét làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực địch.
Là một cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, Đại tướng có gần 50 năm gắn bó với quân đội, với các lực lượng vũ trang, nhân dân trên các chiến trường. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và gần 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia, Đại tướng rất tâm huyết với công việc “Tổng kết kinh nghiệm chiến tranh cách mạng”, để lý giải tính đúng đắn của cách mạng Việt Nam, đồng thời rút ra bài học cho công cuộc giữ nước mai sau. Cuối nhiệm kỳ Đại hội VI của Đảng, Đại tướng đã đề đạt nguyện vọng xin không ứng cử vào Quốc hội khóa IX và xin rút khỏi danh sách đề cử vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VII, để chuyên trách công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh. Tuy nhiên, trước yêu cầu sự nghiệp cách mạng, ý nguyện của đồng chí không được Bộ Chính trị chấp thuận.
3. Một nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa, phong cách đổi mới, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, luôn đặt lợi ích quốc gia dân tộc trên hết
Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, nhạy bén, linh hoạt trong xử lý các tình huống phức tạp. Sau khi trực tiếp tham gia chỉ huy giải phóng miền Nam, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng Pol Pot và hồi sinh đất nước, đến khi giữ cương vị Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục là một trong những người chèo lái đưa đất nước ta dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Đời sống nhân dân từng bước cải thiện, quan hệ quốc tế được mở rộng, vị thế của Việt Nam trên thế giới được nâng cao.
Trước những vấn đề lớn, phức tạp, Đại tướng luôn trăn trở, đề xuất được những giải pháp phù hợp, hiệu quả. Đại tướng đã từng tâm sự: “Thực hiện đường lối đổi mới tại Đại hội VI năm 1986, tôi đang làm Bộ trưởng Quốc phòng thì được Bộ Chính trị giao cho việc tìm cách nào đó để phá thế bao vây cấm vận của Mỹ. Lúc đó, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ không có một kênh tiếp cận nào cả nên rất khó làm. Vả lại, chiến tranh mới kết thúc hơn 10 năm, sự hận thù vẫn còn sâu sắc lắm. Không thể tiếp cận với nhau bằng chính trị, kinh tế, vậy thì phải tìm ở lĩnh vực khoa học - kỹ thuật”.
Từ những trăn trở, tìm tòi, Đại tướng đã tìm ra bước đi khôn khéo với chiến dịch “Phẫu thuật nụ cười” và “Tìm kiếm người Mỹ mất tích - MIA” để mở ra đột phá khẩu trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Kết quả những bước phát triển lịch sử trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, góp phần vào sự phát triển thịnh vượng của mỗi nước và hoà bình ổn định ở khu vực ngày nay, đã minh chứng tầm nhìn chiến lược và công lao đóng góp của Đại tướng.