"Bác Hồ với Cách mạng tháng tám". Tác giả: Nguyễn Bá Thuyết
(Bài viết nhân kỷ niệm 75 cách tháng Tám, Quốc khánh 02/9 (1945-2020)
và 130 Sinh nhật Bác Hồ 19/5/1890-19/5/2020)
BÁC HỒ VỚI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
Cách đây 75 năm, dân tộc ta có một mùa thu đặc biệt, đó là mùa Thu năm 1945 lịch sử; nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám “long trời lở đất”, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Đây là một trong những thắng lợi nổi bật vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó thể hiện năng lực tài tình trong vai trò trực tiếp của Bác Hồ, người đã tìm ra con đường cách mạng Việt Nam và lãnh đạo, chỉ đạo Cách mạng Tháng Tám thành công.
Tìm đường cứu nước dẫn dắt con thuyền cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh là một vĩ nhân, Người đã có công lớn trong việc tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn với mục tiêu cách mạng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường cứu nước đó là một trong những nhân tố có tính quyết định đầu tiên dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
Chúng ta đã biết, thực tiễn Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược từ năm 1858, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân tộc nhưng đều bị đàn áp tàn bạo và thất bại. Nguyên nhân chính là do các phong trào này chưa có một đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn.
Trong hoàn cảnh đó, ngày 5/6/1911, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm con đường cứu nước mới để về giải phóng dân tộc Việt Nam. Bôn ba qua nhiều nước trên thế giới, vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình Người đã rút ra nhiều bài học quý báu làm cơ sở cho sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam.
Tháng 7/1920, được tiếp cận và tiếp thu những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin trong Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Bác Hồ đã tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ta. Đó là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, gắn phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng thế giới. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(1). Đây là tư duy sáng tạo lý luận hàng đầu của Bác Hồ và là di sản có giá trị vĩnh hằng của cách mạng Việt Nam. Tư duy ấy chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng, và chủ nghĩa Lê-nin mãi trở thành “kim chỉ nam” soi sáng con đường đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Sau khi tìm thấy con đường các mạng Bác xúc tiến và chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho cuộc cách mạng vô sản, từ đó đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bão táp đi đến bến bờ thắng lợi. Sự chuẩn bị đó sau gần 20 năm đã dẫn đến ngày 3/2/1930 Hội nghị do Bác Hồ chủ trì thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo cách mạng đi đến thành công.
Lãnh đạo Nhân dân thực hiện thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám
Ngày 22-6-1940, Pháp đầu hàng Đức vô điều kiện. Trước tình hình đó, Bác Hồ (Bí danh là đồng chí Vương) còn ở Trung Quốc đã triệu tập cuộc họp Ban Hải ngoại, Người đã phân tích “Đây là thời cơ thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước để tranh thủ nắm thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng” (2).
Ngày 28/1/1941, sau 30 năm bôn ba Bác Hồ về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Tháng 5/1941, tại Pác Bó, Người chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn nǎm cũng không đòi lại được”(3). Đây là sự sáng tạo của Đảng và Bác trong giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nhờ đó cách mạng Việt Nam đã tập hợp được rộng rãi các lực lượng trong Mật trận Việt Minh, tạo thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc đông đảo, vững chắc quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
Cùng với đó Bác Hồ chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Năm 1944, Bác chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, với tư tưởng chỉ đạo “chính trị trọng hơn quân sự”.
Năm 1945, tình hình quốc tế có nhiều chuyển biến mau lẹ, phong trào cách mạng trong nước phát triển rộng khắp. Nhận định Phát xít sẽ đầu hàng Đồng Minh, chớp thời cơ, Bác đã kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(4).
Lệnh Tổng khởi nghĩa của Đảng và lời kêu gọi của Bác như lời hịch non sông thúc giục lòng người ra trận. Đồng bào cả nước đã đồng loạt đứng lên khởi nghĩa. Đoàn kết toàn dân tạo thành “một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Chỉ trong 15 ngày (từ 14 đến 28/8/1945), cuộc Tổng khởi nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn, chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và chế độ phong kiến, chính quyền về tay nhân dân.
Ở Phú Yên, do liên lạc gặp khó khăn không nhận được chỉ thị của Trung ương Đảng, nhưng dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, từ ngày 14 đến 19/8/1945 các cuộc biểu tình được tổ chức ở La Hai, Tuy An, Đồng Bò… có hàng ngàn người tham gia. Ngày 20/8, đồng chí Nguyễn Văn Nguyên thư ký ủy ban Việt Minh tỉnh đã huy động lực lượng từ Đồng Xuân về Sông Cầu tiến hành khởi nghĩa. Từ sáng sớm ngày 22/8, ủy ban Việt Minh tổ chức biểu tình ở Chí Thạnh. Ngày 23/8/1945 tại Tuy Hòa, cuộc biểu tình do Đinh Nho Khôi, Lê Duy Trinh, Nguyễn Chấn, Trần Đình San tổ chức, quần chúng tham gia đông đảo đã giành được chính quyền, góp phần cùng cả nước giành thắng lợi hoàn toàn (5).
Ngày 2/9/1945, trên Quảng trường Ba Đình, Bác Hồ đã long trọng thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với cả thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(6).
Tuyên ngôn Độc lập đã khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước độc lập đầu tiên trong hệ thống thuộc địa thế giới, đã báo hiệu sự thành lập của một chế độ của chính quyền công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Châu Á. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ vận mệnh của mình. Một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mở ra cho dân tộc Việt Nam.
Từ dấu mốc chói lọi của Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân bước tiếp bước vào một cuộc trường chinh mới, đấu tranh giành độc lập thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu quan trọng, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
75 năm đã trôi qua kể từ Lễ độc lập đầu tiên, Quảng trường Ba Đình tiếp tục chứng kiến biết bao sự kiện to lớn đánh dấu những bước trưởng thành của cách mạng nước nhà trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Năm nay, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9; cũng là năm kỷ niệm 130 ngày sình Bác Hồ. Trong những ngày mùa Thu lịch sử, trước thềm Đại hội XIII của Đảng, hơn 90 trái tim của đồng bào cả nước đang cùng hướng về Quảng trường Ba Đình lịch sử, nơi Bác Hồ kính yêu đang yên nghỉ với tất cả tấm lòng biết ơn vô hạn đối với công lao trời biển của Người, bày tỏ niềm tin sâu sắc và lời hứa quyết tâm đoàn kết, nguyện đi theo con đường cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Ba Đình lịch sử của dân tộc ta vẫn mãi vẹn nguyên bóng hình của Bác và vang vọng lời Tuyên ngôn độc lập của Người./.
Nguyễn Bá Thuyết – Phú Yên
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn VN
---------------------------------------------------
(1) dẫn nguồn Ban Tuyên giáo Trung ương
(2). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr.30.
(3). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tập 7, tr.122.
(4). Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 3, tr.596.
(5) Dẫn nguồn tư liệu Liên hiệp hội Khoa học kỹ thuật Phú Yên
(6). Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 4, tr.3.