"Bến quê" - Truyện ngắn của Hoàng Minh Đức

Ngày đăng: 07:08 28/05/2022 Lượt xem: 278
BẾN QUÊ
Truyện ngắn của Hoàng Minh Đức
       I.
       Một chiếc Ferrari màu đỏ đỗ xịch trước cổng chợ. Xuống xe là một người đàn ông cao lớn. Anh ta vòng ra phía đằng sau mở cửa xe cho một người đàn bà bước xuống. Chị mặc chiếc váy màu hồng nhạt, bên hông mang một cái túi xách màu đen. Với đôi chân dài trắng muốt, đôi guốc cao gót cắm sâu xuống nền đất nhảo nhoét, chị bước đi ngập ngừng, sợ ngã. Thỉnh thoảng họ dừng lại bắt tay một vài người trong chợ. Chết thật! Ai như anh Thi. Hai người đi băng qua chợ để xuống bến đò ngang.
         Làng Cồn bên kia sông là nơi Lượng và Thi đã lớn lên. Ba bề bốn bên đều là sông nước. Ai đi đâu về đâu đều phải qua bến đò này.
         Lượng cố nép mình sau lưng mấy người đàn ông đang bàn tán về chuyến xe trâu nhập cho lò mổ hôm qua. Cô không muốn Thi trông thấy mình trong tình cảnh này. Một bộ quần áo màu cháo lòng nhơ nhớp. Cả người cô sặc sụa mùi nước mắm. Sáng nay trời mới mưa xong, đường làng trơn như đổ mỡ, cô ngã sóng soài đè lên chiếc xe đạp giữa vũng bùn. May mà cái can nước mắm không bị vỡ.
          Người phụ nữ cúi xuống mua mấy cân hoa quả trước đình chợ. Họ đang đi về phía bàn muối và nước mắm của Lượng. Lượng luống cuống đứng dậy. Cô đi giật lùi. Bỗng rạo…! Cô dẫm phải thúng bánh đa nướng của bà cụ làng Hạ ngồi lọt thỏm bên cây ngô đồng phía đằng sau…
         II.                
        Thuở chăn trâu Lượng và Thi thường đi dọc bờ đê tìm những bông gà chọi. Lượng cho Thi những “con gà” to nhất, dai nhất để “vặt đứt cái cổ gà của bọn thằng Phiệt, thằng Phan ở xóm dưới”. Lớn lên chút nữa Lượng theo Thi cùng chúng bạn xuống tắm dưới bến sông. Bến đò chợ qua ngã ba sông rộng chưa đến nửa cây số nhưng trong làng có mấy ai dám bơi qua. Chỉ có bọn con trai mới dám cưỡi trâu ra giữa cồn Ngựa bẻ trộm ngô hợp tác. Chúng vơ củi nè đốt lên một đống lửa thật to cho bọn con gái nướng ngô. Chúng vừa ăn vừa thổi, mặt mũi đứa nào đứa nấy đầy nhọ.   
         Mùa thả đồng, cả đàn trâu thung dung gặm cỏ và lúa chét cho đến khi cái bụng tròn căng rồi mới xuống đầm mình dưới nước. Sườn đê thoai thoải nên chúng thường xuống bến đò ngâm cả buổi. Lũ trẻ khoái chí kì cọ cho những con trâu béo múp như những trái sim. Mấy đứa con trai còn trèo lên những cây bần cao, rồi như phi công nhảy dù tung mình xuống giữa dòng sông. Có đứa còn nhào lộn một vòng trên không trung như người làm xiếc. Đã có lần thằng con ông Lân bị rễ bần xóc vào hậu môn phải đưa đi bệnh viện. Thế mà chẳng đứa nào chịu chừa. Nhiều buổi Thi ở lại coi trâu cho Lượng về nhà ăn cơm trước. Cậu bé ngồi một mình suy nghĩ vẩn vơ. Những con sóng xôn xao. Những con trâu nằm thở phì phì, lim dim hai con mắt cho đàn cá đối rỉa lông. Những chuyến đò ngang chở khách sang sông. Họ từ bến Chợ về làng Cồn thu mua tỏi ớt.
          Ngày Thi lên học cấp 3 trên huyện, Lượng ở nhà làm bí thư chi đoàn thanh niên. Cô góp phần đưa giống lúa mới Nông nghiệp Tám vào cấy đại trà trên diện tích toàn hợp tác xã. Cô là cán bộ kỹ thuật nông nghiệp, thường xuyên đi tập huấn trên tỉnh về hướng dẫn lại cho bà con. Cô phụ trách đội kỹ thuật nhân bèo hoa dâu và làm ruộng thí nghiệm các giống lúa tăng sản.
          Qua tuổi dậy thì cô càng trổ mã. Vóc người thắt đáy lưng ong, bầu ngực un lên trong chiếc áo chít co màu đen, đôi mắt lá răm với làn mi cong dài đã làm cho lũ trai làng chết mê chết mệt. Không chỉ trai làng Cồn mà có rất nhiều anh con trai làng Thượng ngẫn ngơ. Mấy cậu cán bộ trẻ trên huyện, trên tỉnh mới gặp Lượng lần đầu trong hội nghị cũng ngơ ngác. Nhiều anh chàng kiếm cớ về công tác dưới xã để làm quen. 
          III.
          Ông bố của Lượng rất biết điều đó. Con gái ông nổi lên như một đóa hoa rực rỡ nhất làng. Nhụy hoa cứ theo làn gió tỏa hương thơm ngát một vùng. Ong bướm dù xa đến mấy cũng bay về. Nhưng đời con gái có thì. Hoa đến kỳ thì hoa phải nở. Đò đã đầy thì đò phải sang sông. Ông đi tìm cọc cho trâu. Và ông không chấp nhận ai ngoài con ông chủ tịch xã. Ông ta có thằng con trai đang ở bên Đức. Nó vừa gửi về bốn chiếc xe đạp Đi a măng mới toanh. Ấy thế mà đêm qua cái Lượng vẫn trốn nhà đi chơi với thằng Thi đến gần sáng mới về. Ông đã trói con bé lại đánh cho một trận và cấm tiệt không được đi đâu. Ông tuyên bố: “Từ nay trở đi thằng Thi không được bén mảng đến nhà ông. Ông là ông cấm cửa. Con ông là phải gã cho con nhà có danh giá. Nó không thể lấy con của một người đàn bà góa tầm thường”. Ờ mà ngày mai thằng Thi lên đường đi bộ đội. Chắc đêm nay chúng nó cũng hẹn hò. Ông mắc võng chặn trước cửa buồng không cho con bé đi đâu. Ông chủ tịch mà biết được chuyện hôm qua thì hỏng bét. Ông ấy đã giấu béng cái giấy báo đại học của thằng Thi đi rồi. Đây là năm đầu tiên Bộ Giáo dục tổ chức kỳ thi đại học trên toàn miền Bắc. Thế mà cả làng này chỉ có một mình nó đậu. Mấy năm trước việc tuyển sinh vào đại học chỉ cần có bằng tốt nghiệp lớp mười. Ông chủ tịch nói với ông: “Đất nước cần người đánh giặc trước tiên cái đã. Có đánh đuổi được quân xâm lược mới có chỗ mà ngồi học chứ. Giải phóng xong miền Nam, tha hồ mà học. Việc học cả đời, ai có tranh hết phần đâu”.    
         Có một tiếng cạch ở chốt cửa sau. Ông nhổm dậy. Cái Lượng rón rén đi ra ngoài sân.
         - Này! Cái Lượng, mày đi đâu đấy.
         - Con đi vệ sinh.
         - Vào ngay! Tao biết mày đi đâu rồi đấy. Vệ sinh cái gì. Cửa chính không đi lại lẻn đi cửa bếp. Ông bật dậy ra đứng dạng hai chân giữa sân,  tay chống nạnh, mặt hằm hằm. Ngoài trời, pháo sáng địch vẫn giăng đầy. Tiếng bom, tiếng đạn pháo, tiếng rú rít của máy bay địch từ bến phà Gianh vọng lại…
        IV. 
        Thi được biên chế vào Trung đoàn 36, Sư đoàn 308. Vào những tháng cuối năm 1972, trung đoàn anh đã thiết lập được 3 cụm chốt liên hoàn ở Tích Tường - Như Lệ. Tích Tường và Như Lệ là hai làng lớn thuộc xã Hải Lệ, tựa lưng vào sông Thạch Hãn, có cầu khe Như Lệ dài gần 10 mét. Lúc này Lữ đoàn dù 2 của ngụy Sài Gòn đang chiếm giữ toàn bộ dãy đồi cao Gia Long - La Vang. Tên tướng dù Dư Quốc Đống đã chỉ thị cho bọn dù bằng bất cứ giá nào cũng phải đẩy được lực lượng của ta ra khỏi hai làng này trước khi Hiệp định Pa - ri được ký kết.
         5 giờ 30 phút ngày 19 tháng 9, pháo binh địch bắn dữ dội, nhằm che lấp tiếng động cơ của xe tăng để đánh vào đồi Cây Dừa. Đây là một chốt phụ của ta nhưng chúng không tài nào chiếm được. Mấy lần tiến vào đều bị đánh bật ra. Một chiếc xe tăng bị bắn lật tháp pháo buộc chúng phải tháo chạy.
         Hai giờ chiều, chúng lại cho máy bay đến oanh tạc vào trận địa. Chắc chắn là bọn địch sẽ lợi dụng khói bom để đưa xe tăng áp sát vào chốt đây. Tương kế tựu kế, tiểu đoàn đã điều một phân đội từ trận địa dự bị lao lên dưới khói bom ra phía trước chốt phụ đón lõng phục kích địch. Những tên lính dù lò dò đi sau xe tăng, mặt mũi đứa nào cũng xám ngoét. Có đứa run lẩy bẩy, đưa hai con mắt lấm lét nhìn đằng trước đằng sau. Chờ cho chúng lọt vào ổ phục kích, Thi đứng thẳng dậy phóng một quả B.40 vào chiếc đi đầu và bồi tiếp một băng AK về bọn bộ binh phía sau. Đồng đội anh nhất loạt xông lên. Xung phong! Xung phong! Tiếng hô át cả tiếng gầm rú của xe tăng. Những chiến sĩ mặt sạm đen khói súng, ào ạt xông lên như nước vỡ bờ. Họ dũng mãnh như những con chiến mã tung hoành ngang dọc ném lựu đạn, quét AK, trung liên vào giữa đội hình quân địch. Khi bọn chúng chưa kịp hoàn hồn, hỏa lực súng cối trên chốt đã kịp thời bắn xuống yểm trợ cho phân đội phục kích rút lui. Lúc này máy bay địch ào ào bay tới, chúng ném bom dữ dội xuống khu đồi. Một tiếng nổ long trời. Quả bom tung Thi lên khỏi mặt đất, anh rơi xuống giữa bụi hoa mua…
         Không biết Thi nằm như thế bao lâu. Tỉnh dậy anh thấy trên đầu bầu trời đầy sao. Mùi khói bom, thuốc súng nồng nặc. Nghe tanh tưởi mùi máu tươi từ các xác chết. Súng vẫn nổ loạn xạ khắp mặt trận. Bây giờ anh mới thấy đói. Suốt ngày quần nhau với địch đã có miếng gì vào bụng đâu. Giờ mà có một bát cơm nguội chan với nước kho cá hay chấm với muối vừng thì hay biết mấy. Những hôm Thi đi hái củi về muộn mẹ thường xoay hai bát cơm lại với nhau ủ trong tấm chăn cho nóng. Chỉ có cơm độn với khoai vằm thôi nhưng sao mà ngon đến thế. Chao ôi bây giờ mà có một bát cơm xoay. Nước miếng Thi tự nhiên tứa ra. Anh bỗng nhớ mẹ quay quắt. Anh nhớ mẹ mặc chiếc áo nâu sồng chạy ra trước ngõ đón con hôm anh đi K8 ngoài Thanh Hóa về. Anh nhớ giọng đò đưa của mẹ ru anh từ tấm bé. Tiếng võng đưa kẽo kẹt giữa trưa hè. Anh nhớ mẹ cùng anh chèo đò đi bẻ lá nón, chặt dang xuống bán dưới chợ Đồn. Mẹ thường chẻ vọt bán cho người may nón ở làng Hà. Và văng vẳng như ở đâu đây có tiếng sáo diều. Một cánh diều chao liệng giữa bầu trời xanh lộng gió. Và Lượng. Bây giờ em ở nơi đâu. Chắc em đã lấy chồng. Anh vẫn không sao quên được cái đêm hôm ấy. Vừa giận vừa thương vừa đau đớn, tủi nhục. Giá như gia đình anh không quá nghèo. Giá như anh còn có bố. Đêm ấy, ăn cơm xong anh đã ra đứng đợi em ở ngoài đê. Con sông quê đêm hè mát rượi. Những con sóng lao xao ì oạp vỗ vào bờ. Một mảnh trăng non gầy guộc treo lơ lững cuối chân trời. Rặng bần ven sông rì rào hát bài ca của chúng. Em nói về nhà suy nghĩ lời cầu hôn của anh, hôm sau sẽ trả lời. Thế mà hôm sau đợi mãi vẫn không thấy. Thế là em đã chấp nhận lấy con ông chủ tịch. Mấy hôm trước đi đâu ông ta cũng rêu rao là gia đình em đã nhận trầu cau của ông ta rồi. Thế là anh đã hiểu. Anh không trách em đâu. Em không nỡ nói với anh những lời cay đắng phủ phàng. Em không muốn đau lòng người ngày mai ra trận… 
        Đến gần sáng hai chiến sĩ mới tìm được Thi. Họ thay nhau cõng Thi về tuyến sau. Đơn vị anh tiếp tục giữ vững trận địa ở Tích Tường, Như lệ  cho đến tháng 11. Lợi dụng trận mưa lớn, nước sông Thạch Hãn dâng cao chúng liền trút xuống trận địa ta hàng trăm tấn bom đạn để phá hủy công sự. Chúng nghĩ hầm hào ta đã sạt lở hết liền thay đổi chiến thuật. Sau các loạt bom và pháo, xe tăng trên các đồi cao bắn xuống, bọn chúng chia nhỏ ra nhiều mũi cấp trung đội lấn dũi sâu vào các chốt của ta. Các trận địa lấn dũi của chúng đều bị các chốt bí mật tập kích, bắn tỉa tiêu hao. Có ngày hàng trăm tên phải bỏ mạng. Dư Quốc Đống phải vơ vét lính bổ sung cho Lữ đoàn dù 2 nhưng quân số chúng vẫn thiếu hụt nghiêm trọng. Cuối tháng 11, Lữ đoàn dù 2 bỏ cuộc tiến công lui về phòng thủ. 
          Hiệp định Pa - ri được ký kết. Ngày 28 tháng 1 năm 1973, khi Hiệp định bắt đầu có hiệu lực, Mỹ - Thiệu vẫn tung ra một lữ đoàn đặc nhiệm, ồ ạt đánh vào vùng giải phóng ở Cửa Việt. Ở vào thế cài răng lược, ta và địch giằng co. Ta cắm cờ thì bọn chỉ huy lại xua quân đến nhổ đi. Các chiến sĩ ta đã cài lựu đạn vào dưới cán cờ, có mấy thằng đến nhổ toi mạng. Chúng ngồi trên trực thăng để nhổ thì ta cài bộc phá. Đã có một chiếc trực thăng bị nổ tung trên bầu trời. Sư đoàn cho anh ra Bắc an dưỡng, nhưng anh kiên quyết xin ở lại chiến trường tiếp tục chiến đấu. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, tiếp đến chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc anh mới về thăm nhà. 
          Anh đi bộ một mạch về bến đò ngang. Chuyến đò trưa vắng ngắt. Bác lái đò mắc võng dưới hai gốc bần nằm ngủ. Chợ đã họp lại trên nền đất cũ. Mấy ngôi lều tranh xao xác gió. Những năm chiến tranh, người dân trong xã anh không đến đây họp chợ. Họ mua mắm muối của mấy người đàn bà dưới Thanh Khê lên bán hàng rong từng nhà. Anh đặt ba lô lên tảng đá trên bờ rồi nhảy xuống dòng sông tắm mát. Anh sải tay bơi ra giữa Cồn Ngựa. Sóng khỏa vào mặt anh mặn chát. Anh úp mặt vào sông và lặn một hơi dài. Đứng giữa Cồn Ngựa, trời đất mênh mang. Những con sóng lăn tăn giữa dòng sông lấp lóa nắng. Bên kia sông là làng Cồn của anh, nơi anh đã từng cưỡi trâu sang đây bẻ ngô hợp tác. Bãi bần ngày xưa xanh tốt thế mà nay thưa thớt đi rồi. Anh bơi trở lại vào bờ đã thấy bác lái đò đứng tần ngần bên chiếc ba lô:
- Chú đi về đâu? Sao tôi thấy chú giống với một người bên làng Cồn.
       - Bác không nhận ra cháu ư? Cháu là thằng Thi con bà Nguyệt.
       - Trời ơi ! Thằng Thi. Thế mà người ta nói cháu đã chết rồi. Xã đã tổ chức truy điệu cho cháu. Hôm nhận giấy báo tử mẹ cháu phải đi cấp cứu bên trạm xá…
          V.
          Đợi mãi chẳng thấy anh về. Miền Nam giải phóng, người ta đi ngược, về xuôi mà anh vẫn bặt vô âm tín. Hôm có giấy báo tử, bố Lượng nói: “May phúc mà tao ngăn cản kịp thời. Nếu không bây giờ con Lượng đã góa bụa ”. Tiếp đến, con ông chủ tịch về nước với một thùng hàng, bốn chiếc xe máy Sim sơn. Mới có lễ hỏi thôi mà bố đã vội vã đặt giường, trải chiếu cho hai đứa ngủ chung. Một tháng sau anh ta lại ra đi, chẳng chịu cưới. Về sau Lượng mới biết gã sở khanh ấy có vợ con bên Đức. Thế là hết. Lượng chẳng cần giữ gìn ý tứ gì nữa.  Hàng xuống cấp, bán hạ giá. Ong bướm khắp nơi rộn ràng bay về nhưng chẳng có con nào đậu lại. Ngay như thằng Tuấn Cọt, quê làng Quảng Hải, người chỉ bằng củ khoai, mặt quắt lại như chữ xu, cũng đến sàm sỡ. Ngày xưa có bao giờ hắn dám mơ được một lần sờ vào cái gấu áo của Lượng đâu. Trong buổi họp lớp, hắn đến ngồi lên đùi của cô trên chiếc ghế cá nhân để làm trò cười. Ngay thằng Hai Chột cũng đến nắm lấy bắp tay cô nắn bóp trước đám đông. Hắn khen “tay em sao mà trắng thế”. Hồi nhỏ mấy đứa đập viên đạn AK để lấy đầu đạn làm súng van. Đạn nổ, mảnh đạn làm thằng bạn sứt môi còn thằng Hai thui mất một con mắt.
        Thôi thì nhắm mắt đưa chân. Lượng nhận lời anh thợ mộc bên làng Thượng. Một chuyến đò ngang của hợp tác tiễn Lượng sang sông. Chẳng có xe hoa và không có cả tiếng pháo trong ngày cưới. Mẹ đứng trên bến đò giơ tay quệt nước mắt. Mấy năm bão lụt liên miên. Mất mùa, người làng lên rừng chặt củi, hay xuống sông cào hến, chắt chắt. Mẹ nghĩ có con cái ở nhà thế này là hạnh phúc lắm rồi. Đã có bao người bỏ làng, bỏ nước trào đi. Họ kéo nhau vào sống trong Nam. Có người về làng bốc đi cả dòng họ. Trong ấy dễ làm ăn lắm. Có một nhà chẳng cưới cheo, cho không người đàn ông lớn hơn con gái mình đến hai chục tuổi. Anh ta đã xoay việc làm cho cả mấy chị em. Về làng Thượng dù sao cũng có nước để mà cấy cày, có củ khoai hạt lúa mà ăn. Mẹ thương thằng con rễ chân chỉ hạt bột hay lam hay làm. Nhưng nó lại là kẻ hay ghen. Những kẻ đến mua giường tủ, đồ mộc thấy Lượng vui vui con mắt buông lời chòng ghẹo. Thế mà nó tưởng thật. Lúc thường thì thương vợ, thương con hơn ai hết. Nhưng khi có chén rượu, rượt vợ khắp làng.
         Một bữa bị đuổi, Lượng định sang làng thì gặp hai vợ chồng Thi đang đứng đợi đò. Cả hai người khựng lại. Chao ôi xấu hổ quá chừng. Không biết giấu mặt mũi vào đâu cho được. Hai mươi năm rồi anh ấy vẫn trẻ như xưa. Bây giờ có phần đẫy đà hơn trước. Cô chạy lộn ngược trở lại. Chồng của Lượng cũng bẽ bàng. Trông thấy vợ chồng Thi, anh ta bừng tỉnh. Vứt cái que xuống đất anh nói: “Ta về thôi em. Chắc con trâu chúng mình chạy về chuồng rồi”. Hai vợ chồng lại dắt tay nhau về như chưa hề có chuyện gì xãy ra. Từ đó quyết định mỗi người đi làm một việc. Lượng ra chợ bán nước mắm.
          VI.
          Người phụ nữ nhìn về phía bàn nước mắm. Chị kéo tay chồng quay lại bến đò. “Bây giờ thì em không cần mua thêm bánh kẹo nữa. Em sực nhớ là mình đã mua đến mấy cân hoa quả đây rồi”.
         Bến đò Chợ đã được xây lên bằng bê tông. Có chỗ dốc thoai thoãi cho xe máy có thể chạy thẳng một mạch lên đò. Chỉ cần vặn tay quay là chục phút sau con đò cập bến. Làng Thi đã lên thị xã. Nhiều nhà cao tầng san sát mọc lên. Có nước sạch về đến từng nhà. Chẳng cần “ước gì sông rộng một gang”. Năm sau anh sẽ về đây xây dựng một cây cầu. Dự án đã được trên chi duyệt rồi. Làm cầu xong anh sẽ đến thăm hai vợ chồng của Lượng.
         Một ngọn gió mồ côi từ trên cồn cát thổi xuống ngã ba sông. Ngồi trên đò, Thi chỉ cho vợ thấy những con trâu thân thuộc của làng mình. Đàn trâu đủng đỉnh chầm chậm theo triền đê xuống đầm mình trên bến cũ.
                                                                    
Hoàng Minh Đức,
Trường THCS Quảng Minh, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.
Điện thoại: 0379872648.

tin tức liên quan