Giới thiệu tác phẩm của Nguyễn Thanh Duyên - một Cây bút yêu mến Trường Sơn
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
CỦA MỘT CÂY BÚT YÊU MẾN TRƯỜNG SƠN
Nguyễn Thanh Duyên- Tên khai sinh là Nguyễn Thị Thanh Duyên (Hội viên Hội VHNT tỉnh Ninh Bình). Thông qua người bạn viết – Phạm Hồng Loan, hội viên Hội VHNT tỉnh Nam Định, hội viên Hội VHNT Trường Sơn Nguyễn Thanh Duyên đã “thầm bén chút duyên” với hai chữ “Trường Sơn” để rồi thời gian gần đây – năm đôi ba lần Nguyễn Thanh Duyên đã gửi tác phẩm của mình cho Trang Điện tử Trường Sơn.
Đầu Xuân Ất tỵ 2025 này Nguyễn Thanh Duyên đã gửi chùm 3 tác phẩm đến với Trường Sơn. Ban Biên tập xin trân trọng cảm ơn tình cảm giành cho Trường Sơn của chị và xin trân trọng lần lượt giới thiệu cùng bạn đọc Trường Sơn.
NGƯỜI Ở LẠI
Nhàn cời than bắc niêu cơm nếp, cô xới ra một đĩa, lấy đĩa muối vừng lạc mang bày lên bàn thờ, thắp nén hương lên rồi lẩm nhẩm khấn nho nhỏ:
-Anh ơi, hôm nay là ngày toàn thắng rồi đó anh, cả làng cả nước vui náo nức, xã mình vừa tổ chức mít tinh ngoài uỷ ban, em cũng vừa đi về đấy, người ta tuyên dương những gia đình có người thân hi sinh, em thì chỉ muốn anh sống trở về. Biết đâu sau ngày toàn thắng anh sẽ về nhà anh nhỉ, em thì cứ tin là thế, cứ muốn tin là thế!
Nhàn cứ nói chuyện rì rầm với chồng như thế. Bỗng có tiếng ồn ào, tiếng chân người chạy huỳnh huỵch ngoài đường vào, tiếng gọi gấp gáp:
- Cô Nhàn, cô Nhàn ơi, cô Nhàn có nhà không đấy cô Nhàn ơi?
-Ối, cô Nhàn ơi!
Vội vàng Nhàn chạy ra sân, thấy ông Chiến đội trưởng đội sản xuất cùng bà Kha đầu xóm hớt hải chạy xô vào:
- Hai bác có việc gì mà vội vàng thế?
- Cô Nhàn ơi, ơi cô Nhàn ơi!
Bà Kha bỗng ngồi thụp xuống mé sân ôm lấy cột dây phơi, gục xuống khóc nức nở. Ông Chiến kéo tay Nhàn đi trong lời nói đứt quãng câu được câu chăng, những thông tin rụng rời chân tay. Con cô thằng bé Xuân ấy nó bị đuối nước ngoài đồng Lủng!
Nhàn xây xẩm mặt mày, cô không tin, cô không tin, cô hoảng lên, bứt khỏi tay ông Chiến chạy như ma đuổi, chạy như ngựa phi ra đồng Lủng, kia rồi bao nhiêu người lố nhố, xúm đông một đám, rẽ đám đông nhào về phía con, thằng bé đã được vớt lên nằm trên bờ, im lìm như đang ngủ: “ Con ơi, ôi con ơi, con ơi….” Nhàn không muốn tin vào tai, vào mắt, vào tất cả các giác quan. Tất cả là sai, là mê ngủ, là phi lý. Nhàn tin thằng bé còn sống, nó vừa tung tăng vừa nhảy chân sáo ra uỷ ban theo mọi người, nó đã biết mít tinh là gì, chỉ thấy mọi người náo nức reo hò thì nó cũng ríu rít theo thôi, nó còn kéo bằng được Nhàn đi, Nhàn đành vứt mấy dây khoai lang trồng dở đó mà đi. Rồi nó xin phép mẹ đi chơi, cô đi về dỡ xôi thắp hương cho chồng, thì ra cái cơ sự này đây!
Toàn thắng, đất nước non sông nối liền một dải, vui náo nức, vui đến từng viên đá, cụm lau. Nhàn vui lắm chứ, nhưng lòng Nhàn lại chùng xuống bởi chồng cô đã không trở về. Giấy báo tử đến nhà mới có hơn hai tháng trước. Cái tờ giấy xỉn màu vàng đục nó thiêu đốt, tắt ngấm tất cả mọi hy vọng của cả gia đình. Tuy có tin anh hy sinh từ cuối năm 1973 nhưng mà Nhàn vẫn cho đó chỉ là thất thiệt, vẫn có những người sau đó trở về được, chưa có giấy báo tử là Nhàn còn bám lấy hy vọng dù mong manh. Rồi một chiều ông xã đội trưởng đến, đứng giữa nhà ông ấy nói oang oang:
-Giấy báo tử của liệt sĩ Trương Quỳnh Văn đây. Thông báo tới tới gia đình được biết, xã sẽ tổ chức truy điệu trong tháng tới cùng ba liệt sĩ nữa.
Nhàn chết lặng nửa người. Run run đó tờ giấy, mọi hy vọng tiêu tan! Hôm nay toàn thắng đã về tưởng rằng không còn đau thương mát mát nữa thì đứa con trai duy nhất của Nhàn lại đuối nước như thế này ư! Hoà Bình rồi mà nhà cô vẫn mát mát.
-Sao ông trời lấy của tôi quá nhiều vậy, ông trời ơi! Con ơi, con bỏ mẹ mà đi rồi ư con!
Nhàn nức nở rồi rũ ra, xỉu đi, cô không còn sức để gào khóc. Mọi người vừa cứu thằng bé vừa lay gọi Nhàn, đưa hai mẹ con về nhà. Lo an táng cho con, nó mới có sáu tuổi, trắng trẻo như cục bột, môi đỏ, má hồng, thằng bé là tất cả những gì Nhàn có được trong cuộc đời này, nó là niềm vui, là hy vọng, là tình yêu của chồng cô để lại cho cô! Bây giờ con đã ra đi mang theo tất cả để cô ở lại trơ trọi trên thế gian này với nỗi buồn đau tận cùng.
Tội nghiệp thằng bé, nó chưa hề gặp bố, khi nó mới ở trong bụng mẹ tháng thứ tám thì bố nó được ghé về qua nhà, anh khẽ lấy tay xoa xoa lên bụng vợ, áp tai vào để nghe tiếng đập và những những cử chỉ ngọ nguậy của đứa con. Đó là khoảng thời gian đầu đêm một ngày tháng ba, mùa xuân còn rốn lại vài đợt rét nhẹ. Nhàn vội vàng xúc gạo thổi cơm cho chồng ăn. Anh giữ tay vợ lại:
-Em ngồi im để anh sờ con một tí nào, đơn vị hành quân qua đây, anh được thủ trưởng đặc cách cho ghé thăm nhà một lát rồi anh đi luôn, em để gạo đó nấu cho ba mẹ con bà cháu ăn.
Nhàn ngồi nép bên chồng, cô cầm tay anh ấp trở lại bụng mình, đứa trẻ chừng như cảm nhận được sự thân thiết nó khẽ lềnh lên.
-Con “máy” rồi em này! Anh reo lên nho nhỏ. Ngày anh nhập ngũ, vợ chồng chỉ mới ở với nhau được năm ngày, Nhàn mới mười tám, má ửng hồng nhận lời yêu và lấy thày giáo Văn rất nhanh không băn khoăn, so đo bởi cô đã thầm thương anh giáo mỗi sáng đi dạy học qua ngõ nhà cô. Đám cưới được tổ chức trước khi thày Văn tình nguyện lên đường ra trận khi anh vừa hai tư tuổi. May mắn hôm nay trên đường hành quân ra trận anh được rẽ về qua nhà, mẹ anh đi họp hội phụ nữ chưa về, anh vuốt bụng vợ thêm lần nữa, ôm lấy cô:
-Em ở nhà thay anh lo cho mẹ và con, sinh nở vuông tròn nhé, anh đi, đất nước toàn thắng rồi anh về!
Nhàn khe khẽ gật đầu, cố giấu giọt nước mắt tuôn rơi. Xốc lại ba lô, anh nhìn ra màn đêm, hôn vợ thêm lần nữa rồi anh băng mình vào màn đêm chạy đuổi theo đơn vị.
Sau đám tang con, Nhàn nằm bẹp như một cái xác không hồn luôn ba ngày rồi cô cũng phải gượng dậy, bà mẹ chồng già tai biến nằm giường bên kia cách cô gian giữa treo cái bằng tổ quốc ghi công và bát hương với những tiếng khóc hờ rên rỉ, cô không thể để bà thêm buồn. Lại cuốc đất trồng khoai, sắn, cô làm như con thiêu thân để khỏi nghĩ ngợi nhưng cái nghĩ nó cứ xâu xé trong đầu làm sao cho cô yên.
Ngày đi làm đồng, đêm đến cô ra mộ con ngồi đến khuya, có đêm cô mệt thiếp đi trên mộ, người làng đi thả đó hay bắt cá đêm thấy cô họ lại vực dậy mang về nhà. Nửa năm sau thì mẹ chồng cô cũng đi với thằng bé, bà bảo bà muốn đi với con cháu bà, còn lại mình Nhàn trơ trụi trên đời này, hằng đêm cô không ra nghĩa trang nữa, cô không đành lòng ngồi bó gối trong đêm nhìn hai nấm mồ lạnh lẽo. Cô lại đắm chìm trong mơ tưởng rằng chồng cô đang về, vẫn có những người lính trở về sau báo tử, Nhàn vẫn hy vọng. Trong bóng đêm lờ mờ của ngọn đèn dầu thứ duy nhất sáng loé lên ấy là tấm kính mica lồng ngoài tờ giấy ghi tên Trương Quang Văn. Nhàn mường tượng gương mặt từng người thân trên bàn thờ, phải chi mỗi người ra đi đều để lại cho cô một tấm ảnh.
Tên cô là Nhàn mà cô có được nhàn nhã gì đâu! Trong làng và cả xã bên cũng có hai anh bộ đội trở về sau báo tử nhưng không có chồng cô. Đã có những người đàn ông góa vợ rục rịch đánh tiếng hỏi cưới cô nhưng cô không có ý định đi bước nữa dù chị em trong xóm và gia đình đôi bên đều động viên Nhàn nên đi lấy chồng, cô đang tuổi sinh nở, cần có đứa con làm niềm vui và chỗ dựa tinh thần. Nhàn nghĩ, Nhàn vẫn có chỗ dựa tinh thần đấy thôi, mỗi ngày Nhàn đều nói chuyện với tấm bằng tổ quốc ghi công, với con, với mẹ chồng dù cô biết con cô, mẹ cô không thể trở về được nữa, nhưng chồng cô biết đâu anh ấy sẽ trở về!
Mười năm sau bạn chiến đấu của chồng liên lạc với Nhàn, anh nói anh là người chôn cất Văn, anh còn đánh dấu chỗ Văn nằm, để sau này có điều kiện anh dẫn gia đình trở lại chiến trường lấy hài cốt. Từ lúc ấy Nhàn mới chắc rằng Văn đã hy sinh cô ngậm ngùi từ bỏ hy vọng chồng cô trở về. Nhàn bán hai cây mít cho người ta lấy gỗ dù cây mít cho quả rất ngon, sai chi chít từ gốc đến ngọn, bán cái hoa tai mẹ cho khi lấy chồng, bán con lợn nái, bán cả đống đá ong dành dụm đã lâu với dự định khi Văn về sẽ xây lại nhà. Bán vơi cót lúa trong nhà, ngô khoai bán cả. Có tiền rồi Nhàn xin giấy phép của phòng thương binh xã hội, nhờ Thuấn đưa trở lại chiến trường xưa đi tìm hài cốt chồng. Anh Thuấn chưa kịp đi thì sốt rét ác tính quật cho nằm bết bê, những vết thương ở chiến trường tái phát, anh không qua khỏi. Nhàn trở lại trận địa xưa qua những lời kể rời rạc của anh Thuấn giữa hai cơn sốt rét, cũng may anh còn khá tỉnh táo vẽ trước cho Nhàn một sơ đồ.
Khi trở lại nơi trận địa cũ thì những cánh rừng cây cao su đã bạt ngàn không xác định nổi phương hướng vị trí. Qua nhiều ngày nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của chính quyền sở tại cũng không tìm ra vị trí con suối nơi Văn nằm bởi nước lũ đã làm đổi thay dòng suối. Hy vọng tiêu tan, cô bốc một vốc đất bên con suối rồi trở về quê. Tiền mang theo đã cạn, cô mua vé ngồi tàu chợ, ôm cái túi đựng nắm đất đỏ cao nguyên vào lòng rồi cứ ngồi thế mà ngủ, ngủ bù cho những ngày lăn lóc khắp các xã, các bản làng, nương ngô, rừng cao su, kệ cho toa tàu chợ người lên người xuống mỗi ga liên tục. Sang ngày thứ hai, khi tỉnh dậy Nhàn thấy có cô gái trẻ măng bế đứa con bé xíu chừng mới sinh ngồi cùng ghế. Nhìn đứa trẻ thật dễ thương mà bà mẹ trẻ lại lóng ngóng vụng về, cô bế lấy đứa trẻ giúp mẹ nó.
Một đêm ở trên tàu đủ để hai người phụ nữ hiểu và thông cảm cho nhau. Cô gái sinh con ngoài dự tính, người yêu cô muốn cô phá bỏ cái thai nhưng cô không nỡ đành. Cô trốn mẹ sinh con nhưng rồi con bé sinh yếu ớt quặt quẹo cô đành ôm con về nhà nương nhờ mẹ. Cha cô đã mất tích trong một chuyến đi biển. Đàn em ba đứa, cô là kỳ vọng của mẹ, bởi vậy cô rất băn khoăn nhưng cô còn biết bấu víu vào đâu!
Gần sáng, tàu sắp vào ga, cô gái nhờ Nhàn trông con bé để đi vệ sinh. Nhìn con bé ngủ ngon lành Nhàn thầm ước ao mình có được đứa bé như thế này. Năm phút, mười phút, tàu vào ga xép nên không dừng lâu. Hai mươi phút cũng không thấy người mẹ trẻ quay trở lại. Nhàn bế con bé ra nhà vệ sinh, đi hết toa tàu trên, toa tàu dưới cũng không thấy bóng dáng mẹ của bé. Đến sáng ra thì Nhàn hiểu rằng người mẹ trẻ ấy đã bỏ con lại và Nhàn ôm đứa bé mang về quê như một món quà thượng đế sắp xếp.Việc đầu tiên là mang bọc đất ra ngôi mộ gió của chồng chôn cất với tâm nguyện anh đã về quê nương náu. Với đứa trẻ thì Nhàn lại gặp ngay điều dị nghị rằng không phải Nhàn đi tìm mộ chồng mà chắc Nhàn có thai nên kiếm cớ đi xa để sinh con rồi mang về. Kệ miệng đời! Nhàn có được đứa con là quí lắm rồi, cô chẳng mơ ước gì hơn, cô chăm chút con bé bằng tất cả tình thương yêu mà cô còn lại, con bé ngoan, không ốm đau, chóng lớn. Khi cô đi làm giấy khai sinh cho con bé, dòng tên cha không nỡ để trống cô nói với người cán bộ tư pháp cho cô ghi tên chồng vào đấy. Người cán bộ tư pháp nhìn cô lại nhìn tờ giấy khai sinh rồi nói:
-Không thể được chị ạ, Thày Văn đã mất từ gần hai mươi năm rồi, làm sao mà ghi vào đây được, dù là người đỡ đầu. Ông ta liếc nhìn Nhài má đang ửng đỏ như hoa đào trong gió đông, thủng thẳng nói: Hoạ là cô khai ra tên bố con bé!
Nhàn không nói gì, cô rút lại tờ giấy khai sinh, cô biết thừa suy nghĩ của ông ta. Bao nhiêu năm nay Nhàn sống cô đơn vò võ một mình trong căn nhà cánh liếp là mỗi tối đóng cửa then cài thật chặt, hằng đêm giả vờ không nghe tiếng gọi thì thào ngoài liếp, từ khi có tiếng khóc o oe, rồi tiếng thỏ thẻ của con bé trong đêm, cô không còn phải nghe những tiếng gọi thầm thĩ ngoài cánh cửa. Ngôi nhà cô đã có thêm một người cùng ở lại, cô thêm những bận rộn vui vẻ, những buổi tối mùa đông đầm ấm cùng con đốt lửa sưởi, má con bé hồng rực lên như tờ tranh Tết trên tường.
Thấm thoát con bé đã lên tám tuổi, nó hay hỏi mẹ những câu hỏi mà Nhàn khó trả lời. Như trưa nay lòng Nhàn có chút lo lắng, sợ hãi chờn vờn quanh, rồi cố vứt bỏ nỗi sợ mơ hồ ấy ra khỏi tâm trí. Ôm con vào lòng, vốt ve mái đầu nó, da nó trắng giống da Nhàn, tóc nó cũng hoe hoe vàng. Nhàn rủ con bé đi chợ chiều. Nó không đồng ý, vùng vằng đứng dậy lấy vở ra học bài. Thấy con bé cứ ngậm nắp bút vẻ phân vân, cô đi lại xem con bài vở con, như chỉ chờ có thế, con bé ngước mắt lên đưa cho mẹ, là bài tập làm văn tả người về người bố:
-Mẹ, con không biết tả bố như thế nào?
-Thì con cứ tả như cô giáo hướng dẫn con à.
Nhàn bảo con, con bé không chịu:
- Con không thích viết theo cô giáo đọc, như thế cả lớp một ông bố mẹ ạ?
Nhàn im lặng, con bé cũng im lặng đến nghe rõ con thạch sùng tắc lưỡi trên trần nhà, cô nhanh đi vào phòng trong nhưng con bé bỗng giật giọng hỏi lớn:
-Mẹ? Bố con đâu?
-Bố con đi bộ đội hy sinh rồi.
-Không phải, bố hy sinh khi con chưa ra đời, mẹ nhìn tấm bằng Tổ quốc ghi công kia như. Vậy bố con là ai? chúng nó bảo con không phải là con liệt sĩ mẹ ạ!
Con bé nói một hơi dài, nhanh nhưng rành rọt, có lẽ những thắc mắc ấy chất chứa trong đầu con lâu rồi. Nhàn khoả lấp đi:
- Các bạn con còn bé biết gì mà nói vậy.
- Chúng nó nói thật đấy, con có được miễn học phí đâu!
- Lớn lên rồi mẹ sẽ nói cho con biết bố con đâu.
Con bé chừng như không chịu, mặt nó hiện đầy cảm xúc căng trào, nó vùng đứng dậy chạy ra cổng, nhìn dõi ra xa như chờ đợi một bóng hình nào đó, Nhàn nhìn theo con lòng thắt lại, con bé lấy hai tay bụm lại làm loa, gò cong tấm lưng bé bỏng lại, lấy hết sức kêu lên:
-Bố!...
Tiếng kêu của con bé dội vào buổi trưa ngày cuối năm nắng ong ong, nắng trái mùa ngờm ngợp, lòng Nhàn cũng ngờm ngợp nắng, cũng vô vàn cảm xúc như con bé. Cô đi ra cổng cầm tay con dẫn vào nhà, ngồi xuống bên con cô nói:
-Bây giờ mẹ sẽ kể cho con nghe về sự gặp gỡ của hai mẹ con mình nhé.
Con bé chớp chớp đôi hàng mi quay sang nhìn mẹ chờ đợi, mẹ đang mở cho nó xem một cuốn phim, nó mê mải theo từng tình tiết, hình ảnh. Trời đã ngả sang chiều từ lúc nào không hay. Khi người mẹ dừng giọng kể, cô bé đưa tay lên lau nước mắt mẹ, thổn thức:
- Mẹ! mẹ đừng khóc nữa, con yêu mẹ! Mẹ là mẹ con, bố Văn là bố con, con may mà có bố mẹ!
Nhàn ôm con vào lòng, hôn lên tóc lên má con gái, chưa bao giờ cô thấy cô thanh thản như lúc này. Ngoài kia trời đã hết nắng, cơn gió heo may vừa đến, thổi lạt sạt lên cây đào đã rụng nhiều lá, mùa xuân đang về.
Nguyễn Thanh Duyên
(Hội VHNT tỉnh Ninh Bình)
ĐC: Cụm dân cư số 1- phố Thống Nhất – Thị trấn Me – Gia Viễn- Ninh Bình.
SĐT: 0823529299