Mẹ và quê hương trong thơ Nguyễn Hữu Quý
Đại tá, PGS,TS Đỗ Ngọc Thứ
Baovannghe.vn - Đọc thơ Nguyễn Hữu Quý tôi chợt nhận ra, mẹ và quê hương là hai dòng chảy song hành, không thể tách biệt. Và có lẽ, sự song hành đó đã làm nên một Nguyễn Hữu Quý rất riêng.
Từ muôn đời nay, hình ảnh mẹ và quê hương luôn là đề tài bất tận của thi ca. Vắng thiếu hình ảnh người mẹ tần tảo, mang trái tim bao la, vắng thiếu hình bóng quê hương nghèo khó nhưng lưu giữ nhiều kỷ niệm khó phai mờ, hẳn thơ ca cũng thiếu đi sức hấp dẫn. Bởi vậy, đề tài về mẹ và quê hương luôn là nguồn năng lượng tích cực làm xôn xao tâm hồn các thi nhân, khơi dậy lòng khát khao sáng tạo mà Đại tá, nhà thơ Nguyễn Hữu Quý, nguyên Trưởng Ban Thơ của Tạp chí VNQĐ không phải là trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, giữa một “khu vườn” có “trăm hoa đua nở”, việc hình thành một phong cách biểu đạt riêng, độc đáo, được đông đảo bạn đọc đón nhận là không dễ dàng.
Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý trò chuyện với mẹ liệt sĩ tại Thành Cổ Quảng Trị - Ảnh: Bình Minh
Sinh năm 1956, trên mảnh đất Quảng Bình nhiều nắng, nhiều gió và nhiều khổ đau, nơi mà mỗi 1km2 đất phải chịu 158 quả bom, 16 quả đạn pháo, 03 loạt rốc két; mỗi người dân phải chịu 574 kg bom để rồi cướp đi sự sống của 13.786 con người, trong đó có người mẹ yêu quý của anh. Có lẽ, trái tim non nớt của đứa trẻ 12 tuổi như anh lúc đó không đủ sức để “gánh” nỗi khổ đau, để rồi sự ra đi mãi mãi của mẹ luôn là một ký ức trầm buồn, giằng xé và ám ảnh:
“Một đêm chiến tranh
Nhì nhằng ánh chớp
Mẹ không đi hết
Con đường vào ngõ nhà mình”.
(Ký ức mẹ).
Sự ra đi của mẹ đã cho Nguyễn Hữu Quý thấm thía nỗi cô đơn, bơ vơ giữa cõi đời này. Với anh, hình ảnh mẹ như một nguồn mạch dạt dào, bất tận, như một dòng chảy mạnh mẽ không ngừng. Và vì thế, hình ảnh người mẹ đã đi vào thơ anh một cách tự nhiên và cứ thế xuất hiện xuyên suốt trên hầu khắp các trang viết của anh.
“Bữa cơm đầu tiên không mẹ
Nước mắt giọt giọt chơi vơi
Bây chừ, cánh võng mồ côi
Út khóc sau dòng sữa mượn”.
(Ký ức mẹ).
Hình ảnh người mẹ trong thơ Nguyễn Hữu Quý thật giản dị và chân thực. Đó là sự tần tảo, đảm đang, đức hy sinh, lòng vị tha và tình thương yêu chồng con đến quên cả bản thân mình. Anh không cần tô hồng, không cần đánh bóng, bởi khi sự thật đã sáng đẹp thì nó luôn long lanh, luôn tỏa sáng. Như anh đã chia sẻ: “Với tôi, mẹ là gương mặt thời gian, là quê hương không gì thay thế được từ trong nguồn cội sâu xa và bây giờ. Đấy là những gì tôi cất giữ lâu bền nhất, như một phần chất liệu làm nên tôi, cả phần đời lẫn phần thơ”.
“Là mẹ đấy, bao lần ta rong ruổi
Vui xứ người quên đom đóm bay ra
Mẹ im lặng bậc thềm ngồi chờ đợi
Những bước chân lẫm chẫm thuở dưa cà”.
(Con nghĩ về mẹ).
Cũng bởi tình yêu đó nên dường như, trong tâm tưởng Nguyễn Hữu Quý khi đã khôn lớn, trưởng thành vẫn luôn canh cánh một nỗi niềm ân hận, sự hối tiếc về những trò nghịch ngợm tuổi thơ khiến cho mẹ phải lo buồn:
“Cái đồng xu nhỏ bé bị đánh rơi
Chưa kịp nói một lời an ủi mẹ
Cái đồng xu vô tình như đứa trẻ
Ham cỏ hoa quên cả lối về”.
(Đi tìm đồng xu nhỏ bé).
Nguyễn Hữu Quý chọn thơ ca làm nơi neo giữ tâm hồn, như cách giữ lại lặng lẽ đời mình để ký thác những chiêm nghiệm của người từng chứng kiến nỗi đau mất mẹ. Với anh, hình ảnh mẹ và quê hương luôn hòa quện, tạo thành dòng chảy về phía cội nguồn yêu thương:
“Mẹ ta chỉ có cơ hàn
Mò sông lội ruộng đến tàn móng chân
Lẫn vào muôn kiếp thường dân
Chẳng mong chấp chới một lần biểu dương”.
(Mẹ ta không phải anh hùng).
Rồi:
“Giần sàng, thúng, mủng , nong, nia
úp chung một chỗ chẳng chia méo tròn
chày mòn cái cối cũng mòn
tiếng kêu cọt kẹt cũng mòn lòng đêm”.
(Ngậm ngùi).
Dõi theo hành trình lao động sáng tạo của Nguyễn Hữu Quý, dễ nhận thấy, thơ anh không ngừng vận động về đề tài, thể loại và nguồn cảm hứng. Dù anh đã thành công trong mảng đề tài về chiến tranh, cuộc sống, tình yêu…nhưng trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ xin đề cập đến Đề tài về mẹ và quê hương. Đến nay, sau bao năm chắt chiu con chữ, Nguyễn Hữu Quý đã có trong tay một “gia tài” văn chương đáng trân trọng và một “bộ sưu tập” về giải thưởng văn học đáng nể: 6 tập thơ, 4 trường ca, 1 tập truyện ngắn, 3 tập phê bình văn học và 3 tập thơ cho thiếu nhi. 3 lần đoạt giải thưởng của Bộ Quốc phòng và các giải thưởng thơ, văn xuôi của Báo Văn nghệ, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Hội Nhà văn… Nhưng với anh, điều đó chẳng là “cái đinh” gì so với công ơn của mẹ:
“Nhà dột cơn mưa
Dáng mẹ thức trong chập chờn ánh chớp
Giọt khuya nào lỡ làm mẹ ướt
Năm mươi năm sau về lại giữa chiêm bao
Mẹ vẫn chưa kịp thay áo
Kể công cho mẹ bằng thừa”.
(Đừng kể công cho mẹ).

Tập Trường ca"Chín cơn mưa và mẹ"
Viết về mẹ, viết về quê hương, Nguyễn Hữu Quý không quá câu nệ yếu tố kỹ thuật, không cố vồng lên để trở thành triết lý mà chỉ nhẹ nhàng, gần gũi nhưng sâu về tầng nghĩa, khiến người đọc phải dừng lại thật lâu sau mỗi bài thơ ngắn:
“Tôi lớn lên nhờ củ sắn, củ khoai
Sắn khoai cũng eo thắt miền đất hẹp
Ôi, cái thuở làng nghèo đơn nghèo kép
Tôi vẫn ngóng theo mảnh trăng mọc cuối đồi”
(Rét, nhớ hoa lau).
Rồi:
“Tôi lớn lên với cây lúa ít lời
Sau giông gió chỉ nói bằng hạt chín
Hạt lép tập bay, hạt đầy học nhịn
Lúa dạy tôi ngôn ngữ chiêm mùa”.
(Im lặng).
Trên cõi đời này có vô số điều tốt đẹp, có trăm nghìn loài hoa, có triệu triệu ngôi sao, nhưng mẹ ta “chỉ có một trên đời”. Chúng ta có trăm ngàn lối đi nhưng chỉ có một lối trở về, bởi “quê hương mỗi người chỉ một”. Chính vì vậy, những bài thơ viết về mẹ, về quê hương của Nguyễn Hữu Qúy là những lời thơ gan ruột thấm thía. Với anh, bao nhiêu bài thơ về mẹ, về quê hương cũng không thể lấp đầy khoảng trống hụt hẫng khi không còn mẹ, khi sống xa quê. Nỗi đau chia biệt tình mẫu tử, nỗi đau của người con xa xứ không gì sánh nổi, những câu thơ thấm đầy nước mắt với một nỗi nghẹn ngào, quặn thắt tâm can:
“Những cánh đồng van vát miền Trung
Neo vào Trường Sơn để không trôi ra biển
Như chúng con
Neo vào mẹ để còn xứ sở”.
Rồi:
“Mẹ tần tảo trong miền Trung chìm nổi
Áo nối tay, gieo vớt những mùa màng
Giọt mồ hôi rơi xèo đất hạn
Củ sắn, củ khoai vùi bão ngọt bùi”.
(Vườn mẹ mai vàng).
Tình yêu với quê hương xứ sở của Nguyễn Hữu Quý không phải được thể hiện bằng những ngôn từ bóng bẩy nhưng sáo rỗng. Dường như anh có cách gìn giữ riêng để hồn quê luôn neo đậu bền lâu nơi bến tâm hồn:
“Tôi ra ở phố một mình
Bấy năm vẫn giọng Quảng Bình ngang ngang
Có đêm thổn thức nhớ làng
Chiêm bao thấy cát trắng tràn chân mây”.
Và:
“Đừng trách tôi ở chốn đông vui
Tôi khư khư giữ “cái mùi” miền Trung
Như thời nắng khét da lưng
Như thời mưa xối mịt mùng Trường Sơn”.
(Ở phố).
Không chạy theo hình thức ồn ào, thơ về mẹ, về quê hương của Nguyễn Hữu Quý giàu chất suy tưởng, nền nã, tinh tế và giàu cảm xúc, đủ để khêu gợi một miền rung cảm sâu lắng trong lòng người đọc:
“Cái buồn ở với mồ côi
Ai che lối gió, ai bồi nẻo mưa
Ba mươi năm bấy nhiêu mùa
Giờ nghe cát cháy quặn trưa gió lào”.
(Thắp hương mộ mẹ).
Mạch cảm xúc trong thơ Nguyễn Hứu Quý thường gắn với những ký ức gia đình, quê hương. Hình ảnh người mẹ, những người thân và mái nhà xưa cứ đau đáu trong anh. Và có lẽ đó là cách để anh giữ lấy sự chân thành, mộc mạc. Đó là cái giọng nói “ngang ngang” của Quảng Bình cát cháy:
“Sông xanh trời biển cũng xanh
Tôi nuôi mộc mạc để thành miền Trung
Nói thì hỏi ngã lung tung
Đi đâu cũng nhớ trập trùng mô tê”.
(Thấm nỗi quê nhà).
Đó là chút hụt hẫng, ngỡ ngàng và nỗi niềm khi về thăm ngôi nhà cũ:
“Tìm về quê sau năm tháng tha phương
Nền nhà cũ đứng họ tên người khác
Chẳng còn mẹ cha để cúi đầu tóc bạc
Nước mắt con rơi trắng buốt nỗi niềm”.
(Về).
Đó là giấc mơ về sự đoàn tụ, xum vầy:
“Giấc ngủ làm tôi trẻ lại năm mươi năm
Bà tôi, bố tôi, mẹ tôi, các em tôi đông đủ”.
(Giấc ngủ)
Là người bạn thân với Nguyễn Hữu Quý, nhà thơ Phạm Sinh có lần chia sẻ cùng tôi: “Đọc thơ Nguyễn Hữu Quý có thể hình dung con người anh, hiền hòa khiêm cung, nhẹ nhàng. Thơ Nguyễn Hữu Quý cũng vậy, trong sáng, thanh thoát điềm tĩnh, dễ đi vào lòng người nhưng phía sau đó là triết lý sống sáng trong, tình nghĩa”.

Tập "Trong lời mẹ ru"
Nguyễn Hữu Quý đi nhiều, đọc nhiều, giao lưu nhiều. Trong vai trò Phó Chủ tịch Hội VHNT Trường Sơn, anh trở thành người kết nối, khơi gợi cảm hứng sáng tác cho nhiều hội viên. Nhớ lần tôi viết một truyện ngắn, anh đọc và nhắn tin cho tôi: “Chữ nghĩa vững vàng rồi, nhưng kết luận còn đơn giản quá. Suy nghĩ triển khai thêm đi”. Anh là vậy. Điềm đạm, trầm tĩnh, kiệm lời và chân thành. Tôi vẫn hay đùa gọi Nguyễn Hữu Quý là “Cánh chim không mỏi của VHNT Trường Sơn”. Cánh chim ấy không phô diễn, cứ lặng lẽ, miệt mài vỗ cánh nhưng để lại dư vị lâu bền, đủ sức khích lệ, dẫn dụ những người “chập chững” như tôi dám dẫn thân vào con đường chữ nghĩa.
Đọc thơ Nguyễn Hữu Quý tôi chợt nhận ra, mẹ và quê hương là hai dòng chảy song hành, không thể tách biệt. Và có lẽ, sự song hành đó đã làm nên một Nguyễn Hữu Quý rất riêng. Vừa đủ lặng để thấu cảm, vừa đủ sáng để nâng đỡ những tâm hồn đồng điệu trong cõi chữ nghĩa nhiều thăng trầm. Với thi ca, mẹ và quê hương là đề tài không bao giờ cũ, mãi mãi vẫn là nguồn cảm hứng lớn lao cho các thi sỹ. Vì vậy, chúng ta có quyền chờ đợi ở Nguyễn Hữu Quý những bài thơ hay, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, nặng nỗi niềm về mẹ, về miền đất bời bời cát trắng và bỏng rát gió Lào – Quảng Bình, quê anh./.
(PS st theo Báo Văn Nghệ)