NGƯỜI ẤY KHÔNG VỀ
Nguyễn Duy Dương
Tháng 10 năm 1949, khi đang kéo đá trục lúa; Bình tâm sự với chị dâu cả:
- Sang năm, em đi bộ đội thôi, chị ạ!
- Nhà neo người, bà cũng đã yếu, chú đi thì ai làm?
- Thì bu có vợ chồng anh Trọng rồi! Bu cần gì đến em! Em đi chuyến này là sẽ không về nữa đâu!
- Chú không được nói gở!
- Chẳng sao! Ai chẳng một lần chết! Anh cả mất thì cháu trai nhà mình cũng lớn rồi, chẳng lo gì nữa!
- Ở nhà, cưới vợ đã!
- Vợ con gì? Làm khổ người ta thôi! Mà em cũng mới 19, nếu sau này em còn sống thì cũng lấy vợ ở nơi khác mà không trở về!
Bà Áng từ nhà bên sồng sộc chạy sang:
- Ừ, mày đi thì đi! Ai giữ! Tao giờ chẳng muốn chứa! Cái ngữ mày ở nhà chỉ tốn cơm tốn vải!
Bình ấm ức:
- Vâng, con là thằng vô tích sự! Bu cần gì đến cái thằng tống tội này!
Nghe con trai cãi mình, bà tức lộn ruột quay sang chửi con dâu cả:
- Còn chị nữa, chị a dua vào hùa với nó để nó cãi giả tôi. Tôi chả cần con dâu như chị! Về nhà đẻ mà đi bước nữa.
Chị Lý im lặng, cắm cúi đẩy hòn đá trục lúa; mặc kệ mẹ chồng xỉa xói. Chuyện chửi bới đã thành cơm bữa, chị quen rồi.
Bình là chàng thanh niên chăm chỉ, biết điều. Từ bé, anh luôn được chị dâu cả chăm chút từ tấm áo manh quần, dạy cho học chữ. Chị Lý từng khuyên Bình phải học mới hiểu được lẽ đời. Là con quan đốc học từ triều vua Khải Định rồi đến vua Bảo Đại, nên chị đưọc hành tử tế và càng thấu hiểu lòng người. Chồng mất khi con còn nhỏ dại, mấy năm sau này mặc dù có nhiều người đánh tiếng mai mối, nhưng chị kiên quyết từ chối, ở vậy nuôi con. Bà Áng thì chỉ muốn tống khứ con dâu đi bước nữa, bởi nhà nó ngoài cái chữ thì chẳng còn gì. Nhiều lần bà còn xúi vợ chồng Trọng mò sang nhà con dâu cả lục lọi xem có của để hay không. Thấy bu mình quá quắt với chị, Bình can ngăn nên bị kết tội “nối giáo cho giặc”. Bà muốn đuổi con dâu về nhà đẻ, Bình lại gắt gỏng, bênh chị. Bà chửi Bình xơi xơi, rồi bảo: chồng nó mất sớm, cháu mình còn nhỏ, chắc gì con dâu đã ở vậy nuôi con? Con theo mẹ, lúc ấy thằng cháu mày còn nhớ cái nhà này nữa hay không? Bình nghe bu nói mà tức lộn ruột. Cãi, bà chửi thằng con bất hiếu! Nhưng bà lại cưng chiều vợ chồng Trọng ra mặt, bởi bố mẹ vợ Trọng có của ăn của để. Bình lầm lũi đi sớm, về muộn, ăn sau cùng chỉ như một đứa ở trong nhà; là kẻ vô hình trong mắt những người được coi là ruột thịt của anh…
Đầu năm 1950, Bình vào bộ đội. Từ đó, không một lời nhắn gửi, không một dòng địa chỉ. Bặt tin hơn năm năm, đến giữa năm 1955, khi hoà bình lập lại; gia đình mới nhận được giấy báo tử của đơn vị ghi ngày hy sinh 01/01/1951. Chính quyền yêu cầu gia đình làm thủ tục giải quyết chế độ. Bu anh đã mất, nên người nhận tiêu chuẩn gia đình Liệt sĩ phải là người từng nuôi dưỡng Bình. Ngay lập tức vợ chồng Trọng kéo nhau ra uỷ ban hành chính xã. Họ nói mình là những người nuôi dậy Bình. Ông Bí thư Đảng uỷ xã cười: Anh chị hơn liệt sĩ chỉ mấy tuổi thì nuôi dưỡng cái nỗi gì? Nếu công nhận người nuôi dưỡng thì chỉ có chị Lý mới phải!
Vợ chồng Trọng gân cổ cãi: Chúng tôi nuôi nó thật chứ! Nó lớn lên ở nhà tôi rồi vào bộ đội! Anh nói không phải, nghĩa là sao? Hay là anh cậy quyền cán bộ chèn ép chúng tôi?
Bí thư đảng uỷ tủm tỉm cười: vợ chồng anh nói với người khác thì có lẽ họ sẽ tin, còn với tôi thì không! Người làng với nhau cả, anh Trọng đừng cố mà nhận vơ; linh hồn liệt sĩ tủi thân đấy!
Không cãi lý được, vợ chồng Trọng ấm ức bỏ về. Quyền lợi của gia đình liệt sĩ phải quyết giành bằng mọi giá, không bao giờ nhường cho mẹ con nhà Lý. Hai vợ chồng Thảo bàn bạc tìm cách chiếm đoạt số tiền tuất hàng tháng mà thân nhân có công nuôi dưỡng liệt sĩ được hưởng. Hiểu rõ tính chị Lý nên họ móc mỉa, bịa chuyện về việc bà Lý nhận có công nuôi dưỡng chú Bình để hưởng chính sách của Nhà nước. Lời ong tiếng ve mãi rồi cũng đến tai bà Lý. Bà giận lắm, gọi cả vợ chồng Trọng sang nhà hỏi cho rõ ràng.
- Chú nói cho tôi xem, ai đưa chuyện tôi nhận tiêu chuẩn gia đình liệt sĩ ?
Trọng nhơn nhơn:
- Tôi nghe bên xã nói đấy, xã làm xong thủ tục công nhận cho chị rồi.
Ba máu sáu cơn, bà Lý uất nghẹn lên tận cổ. Vợ chồng nhà nó tìm cách chèn ép, gièm pha thằng em út khiến nó sẵn sàng đi bộ đội, lại hẹn không thèm trở về. Giờ, lời thề nguyền của nó thành hiện thực thì kẻ chủ mưu lại đòi được hưởng tiền xương máu của nó. Bà chua chát:
- Tôi chả có công đẻ, cũng chả có công nuôi, nào dám nhận! Chú thím nuôi chú ấy thì chú cứ kê khai, tôi chẳng ý kiến gì đâu! Đừng vu cho tôi, kẻo mang tội!
Trọng hầm hừ:
- Thì nó sống với bu cùng với vợ chồng tôi, chị nói tôi không nuôi nó thì ai nuôi? Là chị phỏng?
- Ơ hay, tôi đã nói tôi không nhận vơ! 4 tuổi chú đã làm được để nuôi em chú rồi! Chú tần tảo thế còn gì!
Trọng cay cú, mắt long sòng sọc, gào lên:
- Tôi không nuôi được nó thì bu tôi nuôi! Chị có quyền gì mà hạch sách?
- Tôi hạch sách chú để làm gì? Tôi không hề phàn nàn về chuyện hưởng tiền tuất của chú Bình! Chú cả nghĩ quá rồi! Chú thím muốn hưởng thì cứ kê khai với xã!
Biết không thể cãi lý được với bà chị dâu sắc sảo, Trọng đành xuống nước:
- Dù gì thì em nó cũng hy sinh rồi! Nếu không kê khai người nuôi dưỡng thì nhà mình thiệt. Chị không cần hưởng thì để dành cho vợ chồng em!
Bà Lý cười nửa miệng:
- Thì chú thím cứ làm, tôi không phản đối đâu!
Trọng nhăn nhó:
- Nhưng xã người ta không công nhận cho! Chị ra đó chứng nhận giúp em!
Bà Lý nghĩ thầm: đúng là lật mặt nhanh hơn lật sách. Nó vừa chị chị, tôi tôi; giờ đã lại chị em rồi! Cái đứa tham lam, bất nhân, bất nghĩa thì cả đời chả ngóc lên được! Giàu gì khi ăn tiền tuất của người chết! Luật nhân quả nhãn tiền đấy! Mà, nó đã thế thì mình xác nhận cho đỡ điếc tai, tránh cho con mình bị vạ lây…
Tuy nghĩ thông như thế, nhưng bà vẫn trả lời nước đôi:
- Chuyện ấy từ từ rồi tính. Để tôi bàn với cháu Hải đã!
Nghe vậy, Trọng giãy nảy:
- Không được! Sao lại để con cháu bàn chuyện của người lớn? Việc chính sách cũng phải nhanh đấy, bác ạ!
Bà Lý nheo nheo mắt:
- Chuyện đâu có đó mà chú! Cháu hơn 20 tuổi rồi, cũng phải để cho nó quyết định việc nhà chứ!
Trọng thấy uất nghẹn trong lòng. Hắn muốn bổ vào mặt con mẹ đầy mưu mẹo này lắm, nó lại cò cưa bắt mình xin nó cơ đấy! Cố nén sự tức tối, Trọng ậm ừ: vâng, em mong bác quyết định sớm. Ra khỏi cửa, hắn tự nhủ: mày đồng ý cho tao được hưởng xong, vợ chồng tao sẽ cho mày biết tay!
Tối đó, bà Lý hỏi ý con trai; Hải đồng ý ngay mà không cần suy nghĩ. Bà ngạc nhiên: sao con không phản đối? Hải thản nhiên: con lạ gì tính chú thím! Bu mà nhận, chú thím ấy chả chịu đâu, rồi lại điếc tai. Kệ cho họ hưởng, xem họ ăn được mấy đời!
Có sự chứng thực của mẹ con bà Lý trước uỷ ban hành chính xã; lại thêm vài con gà trống thiến biếu ông phụ trách thương binh, vợ chồng Trọng nhanh chóng được công nhận gia đình liệt sĩ và hưởng mọi chế độ chính sách của Nhà nước đối với những người đã hy sinh vì Tổ quốc. Những năm 70, khi cả miền Bắc đều thiếu thốn lương thực, thực phẩm thì vợ chồng Trọng và mấy đứa con vẫn sung túc. Gạo, mì bột, thịt lợn, đường, sữa theo tiêu chuẩn gia đình liệt sĩ hàng tháng cứ đều đều cấp cho cả nhà họ. Khôi hài thay, nếu thấy bóng dáng các cháu của nhà bà Lý, họ hò nhau giấu hết trong buồng…
Ngày bà Lý ốm nặng bà dặn cháu trai trưởng: nhà người ta hưởng hết quyền lợi liệt sĩ, nhưng chưa bao giờ muốn tìm hài cốt của ông chú út các cháu. Nếu như cháu có điều kiện thì cậy cháu đi tìm ông ấy. Không đưa về, thì cũng biết ông chú nằm đâu, để ông đỡ tủi thân… Đau đáu lời bà nội dặn lúc lâm chung, Hoàng nhờ mấy đứa cháu ông Trọng chụp ảnh cái bằng Tổ quốc ghi công có ghi ngày hy sinh của ông chú liệt sĩ. Chúng cứ vâng, dạ rồi để đấy. Hàng chục năm trời biết bao gia đình đăng báo, lên đài, lên truyền hình tìm liệt sĩ; nhưng những đứa cháu quý hoá kia cứ ỳ ra. Thậm chí có đứa còn bảo: đi tìm được ông ấy thì tốn kém lắm! Nhà nước hỗ trợ thì chỉ một phần, còn lại thì ai chịu các chi phí chênh lệch đây? Hoàng cáu: tao đi tìm! Tao chi! Nghe vậy, mấy đứa cháu nội ông Trọng đồng thanh: tốt quá! Bác cả lo thì chúng em được nhờ! Nhưng rồi chúng vẫn cố tình né tránh, không cung cấp những thông tin cần thiết để đi tìm ông chú. Nói mãi không được, Hoàng qua nhà xin chụp lại tấm bằng liệt sĩ, nhưng chúng lý do: bàn thờ cao quá, bác không nhìn thấy. Hoàng bực dọc: “tôi lấy thang!” Nhưng, thang không có! Hứa với bác hôm nào giỗ ông, chúng em chụp gửi luôn.
Có lẽ cả nhà chúng đổi thành họ Hứa: Hứa Toàn Quên! Mất niềm tin vào những đứa cháu của gia đình ấy, Hoàng đành tìm ông chú Bình qua bao chuyến viếng thăm các nghĩa trang liệt sĩ, nhưng tất cả chỉ là vô vọng. Anh biết tìm đâu khi không một dòng địa chỉ, không một phiên hiệu đơn vị mà người liệt sĩ ấy từng qua?
Mỗi ngày giỗ, Tết gia đình Hoàng đều mời người ấy và anh khấn: “Nếu ông chú sống khôn thác thiêng thì báo mộng cho cháu để cháu đến thăm mộ ông”. Tuy nhiên, bao giấc mơ cũng chẳng thấy ông về…
Một lần, khi đang cầu khẩn linh hồn người đã khuất, Hoàng nghe người cháu gái ông ấy bảo: “có lẽ ông Bình không về đâu! Ngày giỗ ông ấy nhà cô thắp hương chỉ cháy được nửa đốt ngón tay là tắt, đốt mãi cũng thế, đành chịu để hương như vậy, áng chừng xong bữa cơm thì hạ mâm. Hàng mấy chục năm nay vẫn vậy!”
Hoàng sững sờ: Ông chú không về! Mà, có lẽ ông ấy không thèm về!
Trại viết Trường Sơn 3 – Hà Nội tháng 8/2025
Nguyễn Duy Dương
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn