---------------------
.jpg)
ÁNH MẮT TRƯỜNG SƠN
Truyện ngắn của Mai Tiến Nghị
Xuân. Mưa lây rây rắc những hạt nước li ti vào gió. Áo quần âm ẩm, mặt mũi ướt ướt như vừa được ông thợ cắt tóc cầm bình phun nước lạnh vào đầu khi cào lược gỡ mớ tóc bạc đã rối bời vì gió. Ông bạn đi kế bên bảo giờ mình vào chùa thăm sư. Ngạc nhiên: sao lại vào chùa thăm sư? Bạn rành rẽ giải thích rằng ngày xưa sư chùa này học chữ nho chỗ tớ. Mấy hôm vừa rồi hội chùa, sư có nhời mời tớ đến dự. Nhưng tớ đợi ông. Mà cũng chả ai như ông, đã hẹn nhau rồi mà hôm nay mới thò mặt đến. Hội chùa vừa tàn chiều qua. Giờ mình vào đấy chơi một tý gọi là vãn cảnh chùa ngày xuân và cáo lỗi với sư luôn thể. Nghe có lý. Vì mình lỡ hẹn với bạn thi bây giờ phải theo ý hắn. Vả lại bây giờ biết đi đâu, chả nhẽ cứ lông nhông ngoài đường hứng gió lạnh hoặc lại quay về nhà hắn ngồi uống vã chè bồm thuốc lào nói chuyện vặt chờ cho đến bữa. Vậy là đi!
Hắn bảo mình: Vị sư này chắc thời còn trẻ khá xinh gái. À quên, đấy là vị sư nữ! Mà cũng lạ, ở quê mình đa phần trụ trì các chùa làng là sư nữ. Mình hỏi “Sao xinh gái vậy không đi lấy chồng mà lại đi tu?” Ông bạn trả lời: “Nói xinh là nói thời còn trẻ ấy chứ. Rồi nàng đi thanh niên xung phong trên đường Trường Sơn thời chống Mỹ. Giải phóng mới được về, lỡ mẹ nó thì con gái, người teo tóp như miếng cau khô… Trẻ thì nó không ngó đến. Già thì thằng chết vợ, thằng bỏ vợ, lại kèm thêm một đống con… mà mấy anh già thì nước non gì. Đâm khiếp! Vậy nên đành đi tu…”
Nghe xong, chỉ biết chép miệng: “Khổ thế!”
Con đường đất trải dài dẫn đến một ốc đảo xanh um giữa đồng lúa mới cấy. Thấp thoáng mái chùa thâm nâu, mấy cái đao cong vút nhô lên trên tán cây như thể một bà lão già đang ngồi trong đám lá ướt vươn tay vẫy vẫy. Lối đi sạch sẽ không một cọng rác, cây cối um tùm nhưng hàng lối chỉn chu chứng tỏ chủ nhân của nó là người cẩn trọng chăm chỉ. Tam bảo cổ kính, thấp lè tè. Bước qua ngưỡng cửa ngẩng đầu nhìn lên chính điện: ngọn đèn điện vàng vọt tạo thãnh thứ ánh sáng nhờ nhờ để lồ lộ những vàng son xỉn màu thời gian. Tượng Phật khép mắt im lìm. Tĩnh lặng. Chỉ nghe thấy tiếng lào xào nhè nhẹ của ngọn lá ngoài sân mà ngỡ như âm thanh phát ra từ những ngọn khói lờn vờn trên mấy cây hương. Tự nhiên thấy đầu óc chùng xuống trong u tịch để ngẫm về quy luật sinh diệt, về khổ đau từng trải và thấu nhẽ vô thường trong cõi người mênh mông mà hữu hạn…
Chợt nhồn nhột phía sau gáy. Cả hai chúng tôi cùng bất giác quay lại. Chắn một phần nơi khung cửa hẹp, nhìn ngược sáng là một bóng áo cà sa tay chắp búp sen… Phật hiện? Bạn tôi chắp tay trước ngực cúi người lên tiếng: A Di đà Phật. Bạch thầy. Anh em chúng tôi vào lễ Phật và xin được diện kiến... Tay vẫn chắp trước ngực, cái bóng cúi đầu. Khẽ khàng lời đáp nhẹ như gió thoảng: Mô Phật! Thầy và ông cúng Phật vãn cảnh chùa xong thì xin mời xuống nhà Tổ xơi nước để nhà chùa được tiếp kiến ạ. Rồi lại một vái… bóng cà sa lặng lẽ biến mất như chưa từng xuất hiện,để lại một khuôn cửa đầy ánh sáng tĩnh lặng.
Dạo một vòng quanh chùa ngắm lá ngắm hoa và ngắm tượng, ông bạn kéo mình vào nhà Tổ. Sư thầy đang ngồi trước bàn trên bày mấy lon bia, một gói thuốc lá và một ấm trà cùng dăm chén nhỏ. Thấy bọn mình, ni sư đứng dậy chắp tay cung kính mời ngồi. Nhẽ cũng phải, “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, chẳng gì ni sư cũng là người đã từng theo học chữ hán ở ông bạn mình.
Sư thầy mời bia “Hai nơ ken”. Rồi mời cả thuốc lá ba số 5. Lộc Phật, lộc chùa mà…mấy khi gặp người quen. Quen là quen thằng bạn mình. Oai phết. Nhìn mặt sư thì tầm tuổi mình. Đầu cạo trọc chắc cũng lâu lâu, bây giờ cọng tóc nhu nhú như chân nhang trong bát hương hội đồng vừa hóa. Nhìn tất cả các cọng tóc đều bạc hết. Khuôn mặt trái xoan, trắng trẻo nhưng ánh mắt thì vô cảm lạnh lùng. Có nhẽ tu hành lâu nên thấm cái nhẽ sắc không giũ bỏ mọi ái ố hỷ nộ ngoài đời chăng. Nhìn kỹ thấy có nét quen quen như đã từng gặp từ kiếp trước. Khi sư thầy ngoái lại, bên dưới tai trái sát gáy là một vết chàm màu nâu to bằng cái đồng xu.
Giật mình. Sững sờ….
* * *
Trường Sơn đang là mùa khô. Thực tế tôi cũng không biết gì về mùa ở trong này. Chỉ thấy trời khô khát xanh trong- Đi bộ ngày vài ba chục cây số leo dốc đèo làm xuống sức nhanh chóng. Nhưng phải cố. Dốc cao vừa đi vừa thở. Nhiều lúc đã nản lòng. Lác đác đã có chiến sĩ của Tiểu đoàn bỏ ngũ. Riêng Trung đội mình quân số vẫn còn nguyên vẹn. Đoàn quân vào chiến trường đợt này có thuận lợi hơn là đến Vinh thì được đi ô tô vào tới Quảng Trị… đến Dốc Miếu một cái xe bị lật. Ba chiến sĩ của Đại đội bị thương được chuyển vào bệnh xá binh trạm gần đấy. Còn lại bắt đầu đi bộ...
Ngày thứ năm đi bộ, vẫn tiếp tục đội hình hàng một. Hậu-chiến sĩ tiểu đội 9 khoác ba lô trong hàng thở hổn hển lê từng bước nặng nhọc. Nào cố lên em. Chắc trạm nghỉ không còn xa nữa đâu. Nghe tôi động viên vậy, Hậu thều thào: Còn xa anh ạ. Sao biết? Em chưa ngửi thấy mùi cứt thì còn lâu mới đến Binh trạm. Ngạc nhiên, ngay chính mình cũng không nghĩ đến cái điều tưởng chừng giản đơn ấy. Thằng này tinh. Có lẽ qua năm ngày đi bộ, Hậu đã rút ra được cái dấu hiệu đặc trưng của bãi khách trạm nghỉ trên đường Trường Sơn. Thế mà mình không nghĩ ra. An ủi động viên Hậu nhưng tôi cũng đoán bây giờ khoảng 10 giờ sáng, mới đi được già hai tiếng đồng hồ. Còn ít nhất phải đi bốn tiếng nữa mới tới bãi khách của binh trạm tiếp theo. Bởi tôi được tay giao liên cho biết mỗi trạm nghỉ cách nhau khoảng hơn hai mươi cây sỗ. Đi với tốc độ uể oải như thế này thì phải mất 6 giờ. Mà toàn những dốc dài đến dăm cây số.
Nắng lên, đường rừng loang lổ vệt nắng. Ngẩng đầu, qua kẽ lá trời xanh vời vợi. Trái với miền Bắc đang u ám mùa đông lúc nào bầu trời cũng xam xám. Còn ở đây nắng chói chang. Cắm mặt leo dốc, hổn hển thở. Mồ hôi đổ thành giọt, mồ hôi vã ra trên trán tràn vào mí mắt xót như xát ớt.
Kéo khăn mặt trên cổ lau mặt, cái khăn ướt sũng mồ hôi. Đi tiếp. Nhìn ngang trước mặt thấy một khoảng trời xanh sau tán lá thấp… Lên đỉnh dốc rồi. Thế là tất cả ngẩng đầu lên nhìn phía trước. Một cái dốc dài leo hơn hai giờ mới tới đỉnh. Lại xuống dốc. “Truyền xuống: Trung đội 3 đã lên đỉnh dốc chưa” rồi tiếng truyền lên “B3 đã qua đỉnh dốc”. Giải lao! Tất cả thả người ngồi phệt lưng dựa ba lô. Thở như kéo bễ.
Tiểu đội trưởng Kề hớt hải chạy vượt lên đầu hàng: báo cáo Bê trưởng. Thằng Hậu ốm quá không đi được nữa. Tôi hốt hoảng chạy lại cuối hàng quân. Hậu ơi cố lên! Để bọn anh đỡ cho, sắp tới trạm nghỉ rồi. Giao cho Kề mang thêm khẩu AK của Hậu, còn tôi đỡ lấy cái ba lô của Hậu đeo về phía trước. Nặng thật! Bây giờ Hậu chỉ còn phải đeo mỗi cái bi đông nước. Động viên mấy lời với Hậu rồi để hắn bám theo Kề, tôi lặc lè bươn lên trước hàng quân của Trung đội.
Tiếp tục đi- Mệnh lệnh xuống. Lại xốc ba lô và đi. Nắng gắt gỏng, mồ hôi cũ trên áo chưa kịp khô lại đầm đìa mồ hôi mới.
Ba giờ chiều. Bị ép đằng trước đằng sau bởi hai cái ba lô. Bốn cái quai vải thít vào vai rát bỏng, cảm giác như đang bị trói. Mắt hoa lên nảy muôn vàn đom đóm. Dụi mắt bặm môi xăm xăm bước. Nhìn sang thấy ánh mắt các chiến sĩ nhìn theo ái ngại cảm thông, tôi tự tin rảo bước và thấy họ cũng bước gấp theo.
Hết dốc là một đoạn đường khá bằng phằng. Chợt nghe lao xao phía trước: Đồng hương, đồng hương. Rồi có cả những giọng nữ lảnh lót đồng hương Nam Hà đây, đồng hương Hà Nội đây... Bóng phụ nữ thấp thoáng. Tôi khuỳnh tay gạt mồ hôi ngẩng lên. Có đến gần hai chục cô thanh niên xung phong đang sửa đường. Các cô chống cuốc đứng nhìn hàng quân đang đi mồm réo ơi ới: Em Nam Hà đây, em Hà Nội đây, em Thái Bình đây. Đồng hương Nam Hà đâu, đồng hương Thái Bình đâu? Các cô gái mặt mũi đầy bụi lẫn mồ hôi, những mái tóc khô sém bết mồ hôi ,tay giơ vẫy vẫy. Cánh lính trẻ dãn hết mặt mũi cũng gào lên đồng hương đồng hương rồi tóa đến chỗ các cô Thanh niên xung phong. Tôi quát: vào hàng tiếp tục đi! Tiếng quát làm tất cả những tiếng hô đồng hương, những lời chào, những câu tán tỉnh im bặt. Các cô gái trẻ sững sờ. Nhưng chỉ mấy giây sau thì họ cười phá lên: “Đồng chí anh” chỉ huy ơi hắc bọ xít thế. Ối giời ơi hai ba lô nhá. Ba lô đằng sau là ba lô nhà nước ba lô đằng trước là ba lô gia đình. Khỏe thế. Đẹp giai thế.
Tôi cúi mặt lầm lũi bước.
Chợt bị đẩy mạnh một cái, tôi loạng choạng suýt ngã. Một bóng người ập vào… một vật mềm mềm mơn mơn cánh tay, một cánh tay mềm quàng lên cổ và một cái miệng ướt át hôn chụt vào má. Mùi mồ hôi khen khét. Và những tiếng cười ran, tiếng la hét của cả lính của cả các cô thanh niên xung phong: Hôn nữa đi, hôn nữa đi! Bất ngờ theo phản xạ tay tôi đẩy mạnh. Lần này bàn tay ôm trọn trái ngực mềm ấm đầy đặn... Một luồng điện chạy dọc từ cánh tay đến ngực khiến tim tôi như ngừng đập. Đờ người. Dòng điện chạy lên đầu. Não bộ tê liệt. Tay tôi ôm trọn trái ngực của cô gái vài ba giây. Bàng hoàng rụt tay lại, tôi thấy cả trăm con mắt đều nhìn mình. Xấu hổ đến nức muốn chui xuống đất. Điên thật! “Vớ vẩn”- tôi gầm gừ, mắt long lên giận dữ. Cô gái sững lại nhìn thẳng vào mắt tôi. Trong đôi mắt đẹp và trong trẻo của cô cái nhìn yêu thương nhưng đầy thất vọng và cả sự trách móc. Một thoáng... rồi cô quay người cúi măt bước về chỗ các bạn của mình.
Nhìn theo, cô gái với mái tóc búi cao lộ ra cái gáy trăng trắng. Ở đấy phía sau vành tai trái là một vết chàm nâu bằng đồng xu. Có thể là vệt đất…
Đám thanh niên xung phong im bặt. Cánh lính trong hàng quân cũng im bặt. Cảm thấy người lâng lâng vừa sung sướng đón nhận điều kỳ diệu của tuổi mới lớn vừa bẽ bàng vì xấu hổ, tôi nhìn về phía trước, sải chân bước rộng hơn. Sau cái im lặng ấy đột ngột có tiếng xì xào ở đám thanh niên xung phong: Kiêu kỳ thế! Rồi một giọng hét: “Chúng bay vào sẽ không có đường ra!”(*) Rồi tất cả đám cùng nhao nhao: “Chúng bay vào sẽ không có đường ra!”
Tôi sững người. Cả đám lính sững người. Các chiến sĩ nhìn các cô Thanh niên xung phong rồi quay lại nhìn tôi như nhìn một vật thể lạ. Không thể chịu nổi những ánh mắt ấy, tôi quay mặt lầm lũi bước. Rồi phía đằng sau lại rộ tiếng cười. Tiếng một cậu- hình như tiếng Kề A trưởng: Đừng có cầu lúa ăn khoai. Chúng anh không ra các em ế chồng… ế chồng đấy nhá! Sướng chưa!
Tôi vẫn lầm lũi bước. Hai cái ba lô bây giờ hình như nặng hơn đang cố ghìm người xuống. Đôi chân bải hoải. Cố lên cố lên.
- Các anh không về thì… thì các em ế chồng! Ế chồng… Rõ chưa… sướng chưa…
Quay lại thấy sau lớp bụi mù các cô gái lặng im tay chống cuốc, rũ đầu cúi mặt.
* * *
Chiến tranh với những người lính trong cuộc thì sự chịu đựng là tất yếu. Nó xảy ra thường xuyên bởi những trận máy bay ném bom, những lần pháo kích, những quả đạn bay ra từ nòng súng của cả hai phía nhằm vào nhau để những con người đang sống bỗng tự dưng nhảy dựng lên như bị điện giật rồi đổ vật xuống. Trước lúc nhắm mắt liệu họ có ngước nhìn bầu trời- khoảng vũ trụ bao la nơi họ đã từng hít thở không khí đón làn gió mát và gửi vào đấy những ước mơ. Liệu họ có tưởng tượng thấy khuôn mặt người thân và mái nhà họ đã yêu thương gắn bó. Và họ có nghĩ đến mảnh đất nơi từng được sinh ra và lớn lên… Để rồi lặng lẽ khép mắt trong tuyệt vọng và gửi hình hài vào một mảnh đất xa lạ… Chỉ có một điều an ủi họ và cũng là nỗi xót xa trong họ mảnh đất đó cũng là đất Việt.
Gần một năm sau ngày ký hiệp định Pa-ri, khái niệm về hòa hợp dân tộc lu mờ hoàn toàn. Dấu ấn Hiệp định ngừng bắn trên đất Việt chỉ là quá khứ rất xa xôi. Bây giờ chỉ còn chiến tranh với những bản chất cố hữu của nó là những sinh mạng ngã xuống. Chiến tranh là một cái gì rất khó định nghĩa bởi không thể kể hết những điều xảy ra dù trong phạm vi chỉ trong một khoảnh khắc của đời người. Người ta bỗng trở lên tàn bạo, dữ dằn. Không có sự hào hoa lãng tử và không có mơ mộng ảo huyền trong cái không gian nồng khét mùi thuốc súng và mùi tanh của máu người.
Những người trong cuộc có những niềm vui rất khác thường, nỗi buồn cũng khác thường và cả những suy tư hoài niệm cũng khác thường. Một lối nghĩ lối sống vội vã như thể để tận dụng khoảng thời gian còn lại rất ngắn ngủi. Sự kết thúc của cuộc đời ở ngay trước mắt, có thể là ngay lúc mà người ta vừa nghĩ đến nó.
Những người lính vui mừng đến điên cuồng khi thấy đạn của mình nổ trúng mục tiêu, họ hả hê khi đối phương tung xác trên không trong quầng lửa của đạn pháo hoặc đường đạn từ súng cầm tay của mình. Bên nào cũng vậy. Và họ bỗng trở lên lạnh lùng khi đồng đội của mình bị chết. Những giọt nước mắt dần trở thành hiếm hoi bởi nó đã cạn đến mức ráo hoảnh do trong đời họ đã từng nhiều lần nhìn đồng đội chết. Thậm chí họ không còn nhớ đến những người vừa mới ngã xuống hôm qua. Có cảm giác rằng cuộc sống nó phải thế và nó vốn như thế. Cũng chả lâu nữa sẽ đến lượt mình. Sự chai lỳ cảm xúc ấy làm con người khô cứng và thô thiển hơn.
Tôi cũng như vậy. Tôi bình tĩnh trước những điều đang xảy ra và chấp nhận những điều sẽ đến. Chấp nhận bởi trong đầu luôn văng vẳng tiếng hét “Chúng bay vào sẽ không có đường ra”. Như là định mệnh và là kết cục tất yếu. Bên tai tiếng bom đạn tiếng máy bay gầm rít không còn làm tôi bận tâm. Nó đã thành quen. Quen đến nỗi thấy ngạc nhiên mỗi khi có những khoảnh khắc im lặng. Mỗi khi nghe “binh binh”- tiếng đề pa nghe căng căng là biết pháo nó bắn về hướng mình. Và chờ… Nghe xoẹt một cái là biết đạn rơi gần. Thành phản xạ tôi lao vào chỗ nấp, chúi đầu úp mặt xuống đất. Loé mắt quầng lửa ngay trước mặt cùng tiếng nổ âm âm nhưng chát chúa. Chợt văng vẳng:“chúng bay vào sẽ không có đường ra”… mình sẽ chết, chết này, chết này... rồi thở phào thấy mình chưa việc gì… Điềm nhiên đứng dậy rũ sạch bụi đất trên áo quần, mặt mũi và lại làm tiếp cái việc mình đang dang dở như chưa có gì xảy ra.
Sự sống trong chiến tranh vẫn có đủ cả ái ố hỉ nộ nhưng nó ở những cung bậc khác. Tình yêu cũng vậy. Nó vẫn sống. Nhưng thực dụng hơn, dữ dội hơn không có đất cho những lời có cánh, những ước mơ xây dệt tổ ấm… Nó đã gần đến bản năng gốc… thỏa mãn sinh lý con người. Tôi là chàng trai hai mươi tuổi chưa biết yêu là gì, tâm niệm rằng bom đạn và cái chết rình rập từng phút từng giờ. Nó ở trên trời, dưới đất và ở cả bốn phía. Để thắng lại nó chúng tôi phải đứng dậy phải sẵn sàng đối mặt và phải dám xông lên để tìm lấy sự sống cho chính mình và cho đồng đội. Điều đó đã làm nên chiến thắng.
Nhưng những giờ phút thư thái dù rất hiếm hoi thì bản năng trỗi dậy. Tôi biết ở góc hầm hay ở những gốc cây, bên bụi rậm những người lính đã có vợ khom người gồng mình, người run rẩy như động kinh để giải phóng… không phải giải phóng mà là thải loại cái năng lượng đàn ông đang đầy ứ. Không ngạc nhiên nhưng tôi vẫn tò mò. Sao lại phải thế. Và qua những câu chuyện đực cái của cánh lính già đã có vợ, có người yêu thì “chuyện ấy” là một chủ đề hấp dẫn nhất khiến tôi khát khao. Những cơn mơ hoang hoải kéo đến, trong mơ hình ảnh duy nhất, thần tượng duy nhất là cô thanh niên xung phong hôm nào. Cặp môi ướt, bầu ngực mềm… cảm giác lần đầu tiên khi được tiếp xúc với người khác giới từ hôm ấy đã ám ảnh tôi. Nhiều đêm dằn vặt tự trách mình sao nỡ vô tâm, phũ phàng đẩy cô gái, phũ phàng ném vào cô câu “vớ vẩn”. Tôi là kẻ có tội với tấm chân tình của cô. Rồi không biết tự lúc nào tôi coi cô là người yêu, là người tình lý tưởng. Đinh ninh hẹn lòng nếu có dịp trở về qua quãng đường ấy sẽ tìm đến cô để nói lời xin lỗi và ngỏ lời yêu. Tôi sẽ trao cô nụ hôn thật đậm đà, sẽ khám phá mơn man bầu ngực mềm mềm từ cơ thể cô và… Chỉ nghĩ đến đấy người tôi đông cứng thở hổn hển như lên cơn sốt... Hàng đêm những cơn sốt như vậy kéo về hành hạ.
Nhưng chắc phải hết chiến tranh mới có thể về qua cung đường đó. Mà lúc đó cô ấy sẽ về quê chứ ai còn ở đó để tìm. Đến khuôn mặt mình cũng không nhớ thì làm sao biết được quê mà tìm đến? Hình như hôm ấy cô thanh niên xung phong đã từng gào lên: Đồng hương Nam Hà! Vậy cô là người Nam Hà. Nếu còn sống tôi sẽ đi tìm. Dù sao tôi và cô cũng là đồng hương tỉnh. Tôi đã thực hiện dự định ấy suốt ba năm sau giải phóng nhưng vô vọng. Nhiều lúc có cảm giác như đã gặp nhưng hỏi ra thì không phải. Và tôi đành quay về với sự sắp đặt bình thường của cuộc đời trai làng lấy vợ sinh con bươn trải mưu sinh cho đến bây giờ. Nhưng hình bóng người nữ thanh niên xung phong vẫn lởn vởn trong tâm trí kể cả khi hạnh phúc và trong cả những lúc khó khăn tuyệt vọng.
Em ở nơi đâu?
* * *
Ly bia trước mặt vun bọt trắng xoá. Lặng im nhìn những hạt khí li ti như mắt tôm thi nhau nhoai lên trong thứ chất lỏng trong suốt vàng óng màu mật ong, tôi chợt thấy mình thừa ra trong cuộc.
Trước đấy ni cô đã khẽ khàng rót bia vào hai cốc, cung kính bưng để trước mặt tôi và ông bạn : nhà chùa mời thầy và ông thụ lộc Phật, lộc chùa ạ. Kính mong Thầy và ông hoan hỉ... Tôi ngạc nhiên ba người sao chỉ rót hai ly? Ni sư như hiểu được thắc mắc của nên chậm rãi: xin cho nhà chùa được dùng trà thôi ạ vì nhà chùa phải giữ giới không thể uống chất có cồn ạ. Ra thế!
Trong lúc ni sư và ông thày dạy chữ nho nói chuyện thì tôi cố nghĩ cách để gợi lại câu chuyện ngày xưa.
Chắc chắn là cô ấy. Vì cái vết chàm sau tai trên gáy là một minh chứng để khẳng định. Vết chàm như một dấu ấn mà tạo hoá ban riêng cho một người, nó không thay đổi dẫu con người ta có thể lớn lên già đi diện mạo mỗi ngày mỗi khác. Đã có hàng trăm câu chuyện người thân nhận ra nhau bằng vết chàm dù xa cách cả đời người. Vậy thì phải hỏi. Bởi vì chắc không còn có dịp nào nữa. Tôi mạnh dạn mở lời:
-Bạch thầy, tôi có nghe ông bạn tôi kể rằng ngày xưa thầy là thanh niên xung phong trên đường Trường sơn những năm bảy hai bảy ba?
Thoáng chút bối rối, ni cô nhìn trực diện vào mắt tôi với thái độ vừa cảnh giác vừa như dò hỏi. Nhưng câu hỏi của tôi chỉ để gợi lại một thời xa xăm đáng tự hào chẳng có gì phải giấu diếm.
-Vâng! Tiếng vâng nhẹ như gió thoảng- những năm ấy chúng tôi là bộ đội của đoàn 559 mở đường ngang sân bay A Sầu A Lưới.
Chắc chắn là nàng. Là người tình trong mộng đời trai mới lớn. Là khát khao trong mơ của thằng lính trận giữa thời đạn bom. Là vất vả kiếm tìm vô vọng của một ngừoi sau chiến tranh. Trớ trêu sao bây giờ mới gặp. Vậy ra ngày ấy thầy là bộ đội Trường Sơn chứ không phải Thanh niên xung phong. Ánh mắt đã thân thiện hơn, ấm áp hơn: Đúng. Chúng tôi là bộ đội. Mãi cuối 1976 mới phục viên.
Người phụ nữ ngồi đối diện với ánh mắt trầm tĩnh, khuôn mặt tĩnh lặng như mặt hồ sau cơn giông – liệu có phải là cô gái năm xưa? Liệu có phải chính bàn tay ấy, môi ấy, ánh mắt ấy đã chạm vào đời tôi một lần duy nhất giữa khói lửa Trường Sơn?
Đúng là người ấy. Bàn tay bất giác siết chặt vào mép bàn, tim đập dồn dập. môi tôi mấp máy, nhưng cổ họng như có vật gì nghẹn lại. Hít một hơi dài, tôi nhìn thẳng vào mắt người đàn bà:
– Thưa… có phải… năm ấy… có lần, một cô gái… đã hôn một người lính, trên đường hành quân… Cô ấy có… một vết chàm sau tai trái…
Không gian lặng như tờ. Ni cô không trả lời ngay. Chỉ lặng lẽ đưa tay nâng chén trà, như che giấu một thoáng run rẩy. Một lát sau, bà đặt chén xuống. Tiếng sứ chạm mặt bàn vang lên khẽ khàng mà như một tiếng chuông vọng sâu trong tâm thức.
Rồi bà nói, thật chậm:
– Là tôi.
Tôi chết lặng.
Trái tim tôi như có ai bóp chặt. Từng mạch máu nhói lên, những ký ức ập về: nụ hôn ấm nồng, ánh mắt trách móc, tiếng la hét “Chúng bay vào sẽ không có đường ra”… Tất cả như một cơn bão quét qua lòng. Mắt cay xè. Tôi cúi đầu, giọng tự nhiên khản đặc:
– Tôi… xin lỗi. Tôi đã thô lỗ. Tôi đã… vô tâm. Bao năm qua… tôi không thể quên.
Ni cô không trả lời. Bà lặng lẽ nhìn ra vườn. Một chiếc lá vàng rơi ngang qua khung cửa. Hình như bà đang nuốt nước mắt. Rồi bà quay lại, ánh mắt không còn lạnh lùng mà đượm buồn, thoáng ướt.
– Ngày ấy… chúng tôi cũng là con gái. Cũng có tuổi trẻ, cũng muốn sống, muốn yêu. Nhưng chiến tranh không cho phép điều đó. Nụ hôn hôm ấy… chỉ là một giây phút bồng bột, cũng là một cách để nhắc mình rằng… chúng tôi vẫn còn là phụ nữ.
Bà dừng lại. Giọng nghèn nghẹn:
– Sau hôm ấy… chúng tôi bị kiểm điểm. Vì chúng tôi đã hét lên câu làm ảnh hưởng tới người ra trận. Tôi không hối hận vì đã hôn anh… chỉ tiếc là ánh mắt anh lúc đó… như thể tôi là một người đáng khinh.
Tôi nghẹn họng. Chỉ biết lắc đầu:
– Không… tôi chưa từng khinh. Chỉ là… tôi quá bối rối. Lần đầu tiên… được chạm vào… tình cảm thật. Nhưng tôi lại… không biết giữ lấy.
Cả hai chúng tôi cùng im lặng. Ngoài sân, gió khẽ reo. Một làn hương lạ nhè nhẹ quẩn quanh. Ni cô thở dài:
– Tôi đi tu… không phải vì không ai lấy. Mà vì… tôi cần quên. Chiến tranh đã qua lâu rồi. Nhưng nó để lại vết sẹo trong tâm.
Tôi gật đầu. Có lẽ mắt tôi đã ươn ướt. Rất lâu sau, bà khẽ nói:
– Nhưng hôm nay gặp anh, tôi thấy nhẹ lòng. Ký ức có thể không quên. Nhưng có thể buông.
Rồi bà nhìn tôi, ánh mắt không còn trách móc, không còn quá khứ. Một nụ cười nhẹ, như gió lướt qua mặt nước:
– Buông bỏ đi ông ạ!
Tôi gật đầu. Lần này, thực sự hiểu.
Sau câu nói ấy cả ba chúng tôi đều im lặng. Giờ mới nhận thấy ba gian nhà Tổ đang tràn ngập hương trầm. Chợt nhẹ lòng. Mọi băn khoăn tiếc nuối không còn đè nặng trong tâm trí, hình như nó đang bay lên cùng khói hương vấn vít nơi cửa Phật.
Xót quá ông ạ. Viết đi! Truyện như thế sao ông không viết ?- Ông bạn mắt rưng rưng tay nâng chén rượu bảo tôi vậy khi chúng tôi đã trở về nhà. Và bây giờ tôi đã viết sau cả chục năm đắn đo. Viết để chia sẻ và buông bỏ. Viết khi đã tuổi ngoài thất thập và không có gì để tiếc nuối. Ào ào những ký ức chảy trong đầu. Và dòng chảy ấy chợt dừng lại ở ánh mắt của người con gái Trường Sơn năm ấy.
----------------------------------------
(*) Trong lời một bài hát của Nhạc sĩ Hoàng Vân
Trại viết Trường Sơn- Tháng 8 năm 2025
Mai Tiến Nghị
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn
ĐT: 0914639726. Email: cuaran54@gmail.com