------------------------
ĐƯỜNG VỀ VỚI MẸ
Truyện ngắn Nguyễn Bổng
(Kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất hòa hợp dân tộc)
Tôi nhẹ nhàng đẩy cửa lên tiếng: “ Anh Việt có bình yên không chị Lụa!” Lụa giơ hai ngón tay: “Khẽ thôi”. Nhưng Việt đã nhận ra: “ Lại thằng Cao hả! Cút… Xéo ngay! Bình yên giề…” Thìa cháo vừa bón phụt thẳng vào mặt Lụa. Hai mắt Việt long lên, vằn đỏ. Cơn giật rút co quắp chân tay. Hai hàm răng nghiến ken két. Tôi phải cậy hàm, ấn khăn vào mồm Việt : “Đến khổ. Chị có khỏe cho cam! Tôi đã bảo: Cứ để anh ở trại nuôi dưỡng, chăm sóc đã có các điều dưỡng giỏi chuyên môn” “ Nhưng em không nỡ! Tháng đôi, ba lần lên cơn tâm thần, em chịu cũng quen rồi. Như chăm em bé ý mà. Lúc tỉnh táo thương vợ con lắm! Vắng bóng em một ngày, chắc nhà em chịu không nổi!”
Rời nhà Việt. Lòng mông lung. Thoáng đấy mà đã 57 năm rồi. Ngày đi B, đại đội biên chế 113 quân. Ngày thống nhất, lập hội đồng ngũ còn 25 đứa. Còn lại đã mãi mãi tuổi xanh nghỉ lại các chiến trường. Ung thư, tái phát vết thương, bệnh nền mãn… cứ hao vơi dần, giờ còn 15 đứa, trẻ nhất cũng 75 tuổi rồi.
Tôi vê ga chiếc xe cà khổ về nhà Mai. Mai cũng là lính chiến, là bạn viết văn. Hai đứa tri kỷ, giống nhau cái mau nước mắt khi điểm danh đồng đội kẻ còn người mất. Xe dừng ở sân. Mai hối ra đỡ xe: “ Chúc mừng anh. Trưa nay anh em mình làm vài chén. Chiều xem duyệt binh ở Sài Gòn mừng 50 năm thống nhất”. Tôi bực dọc: “ Mừng cái khỉ khô gì! Đang tức như bò đá”. “ Ồ! Em biết rồi. Chắc lại đến thăm thương binh sọ não, lại bị chửi và đuổi như mọi khi chứ gì! Mừng là anh ấy còn chửi được! Người được chửi như anh phải mừng chứ”! “Ừ. Đúng! Mà mày nói phải. Cũng may, Lụa chịu nhẫn quen rồi. May là còn được nghe chửi, chưa phải lần cuối!” “ Mà sao anh ấy không chửi người khác mà cứ nhằm vào anh!” “ Vì tao cứu lão”…
…Năm 1970, Cam Pu Chia đảo chính. Bọn liên quân Mỹ ngụy mở trận càn đông dương khốc liệt. Lực lượng Đông Nam bộ căng ra rất mỏng, bị bao vây chặt. Bọn chúng quyết hãm cho ta chết đói để bắt sống hàng loạt. Cả tháng trời không một hạt gạo, hạt muối, rau củ rừng cũng đã vét sạch. Lính ta phù thũng, xanh xao, sốt rét đành phải mở đường máu thoát ra. Đêm ấy, một đơn vị đặc công mật tập, trong đánh ra ngoài đánh vào. Thằng địch có xe tăng, súng pháo hiện đại nhưng bị đánh cận chiến bất ngờ trong đêm nên lúng túng không thể phát huy hỏa lực. Những tiếng thủ pháo, lựu đạn, A ka điểm xạ giòn giã đã chọc thủng vòng vây. Tuy có thương vong, xong đại đội đã thoát ra được. Pháo sáng lục bục nổ trên đầu, từng chùm lửa khoác tay nhau đung đưa kéo dài.
Những tiếng kêu thất thanh: “Vi si..” rống lên và đổ vật. Tiếng M 79 cọc.. oành.. lộn xộn không phân tuyến. Bỗng có tiếng gọi thất thanh: “ Anh Khoa. Việt bị thương lòi óc ra rồi”. Tiếng anh Khoa chỉ huy rít lên: “ Cao đâu. Băng và đưa Việt thoát ra. Tôi bắn yểm hộ”. Tôi tiếp cận, sờ cái đầu Việt thấy lõm một miếng to, máu lẫn óc bầy nhầy. Mồm mũi phì phì máu, thở gấp. Cởi phăng áo, tôi bọc luôn cả cái đầu như quả dưa hấu vào rọ, cố cõng Việt thoát ra. Việt mê man.. “Ôi.. mẹ.. ơi! Mẹ ơi…cứu.. con!”. Khi bàn giao cho bộ phận chuyển tiếp, hình như nó đã tắt thở!
Sau 1975, tôi phục viên, sửng sốt nghe tin Việt vẫn còn sống, đang ăn dưỡng tại Thuận Thành. Các bác sỹ cho biết. Việt bị miểng M79 phạt mất một mảng gáo sát màng óc trán phải, may chưa thủng màng óc. Miểng khác găm sát huyệt bách hội đỉnh đầu. Nó ngủ hơn nửa thế kỷ ở đấy không đục ra được, là ngòi nổ của những cơn tâm thần. Phần vì chỗ ấy tập trung nhiều thần kinh nhậy cảm, phần vì sức khỏe không ổn, nên đành sống chung với nó hết đời. Đám óc trên đầu Việt là do cận chiến, có lẽ của tên địch nào đấy vỡ đầu phụt sang cùng lúc. Việt biết tôi cứu lão. Lão đã không một lời cảm ơn mà mặc cảm: “ Liều chết để cứu tao làm Đ..gì! Sống đau khổ, làm gánh nặng cho bao người thì chết đi còn hơn!”. Vậy đấy! Mai ôn tồn an ủi tôi: “ Chiến tranh là thế! Người tưởng chắc chết thì lại sống sót, sống không bằng chết. Có ông báo tử hơn chục năm rồi, vợ đi bước nữa, đùng một phát khoác ba lô lù lù tập tễnh chống nạng về, vợ ngất lên ngất xuống! Nhiều ông còn vài tiếng nữa Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì bất ngờ nằm lại… Đường về quê mẹ vĩnh viễn xa, xa tận hơn nửa thế kỷ vẫn chưa được về!” “Mà sống, chết có số thật Mai ạ! Có người bảo; anh em mình tuy không lành lặn nhưng còn hơn chán vạn bao người. Ví như hạt gạo gẫy trên mặt sàng, số không chết mà!” Mai gật gật cái đầu xù xác nhận bảo: “ Thì trường hợp của anh, ba lần bị thương không được chết là một nhân chứng hùng hồn còn gì”. Tôi bỗng nhớ câu nói của cụ Võ Văn Kiệt : “ Đất nước thống nhất có triệu nụ cười nhưng cũng có triệu người rơi lệ”.
Mai thủ thỉ: “ Chẳng phải anh Việt, bao anh em bị thương đều được đồng đội cứu, nhưng mấy người còn sống sót đến ngày toàn thắng mà cảm với chả ơn! Người băng bó cứu anh lần cuối anh có còn nhớ, và họ có còn?”
Tôi rầu rầu bộc bệch: “ Chuyện của mình nó tế nhị lắm! Người cứu mình lại không phải là đồng đội!”
…Đấy là một ngày không bao giờ quên. Ngày hai lăm, tháng một, năm một chín bảy mươi ba. Còn đúng hai ngày nữa, Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Pa Ry, rút quân vô điều kiện tại Việt Nam. Nhưng những trận đánh nhằm chiếm đất, cắm cờ vẫn không hạ nhiệt.
Trung đội nhận lệnh áp sát quốc lộ 13, phục kích cầu Cần Lê đánh cơ giới địch tăng viện cho thị xã An Lộc. Một ngày trôi, chén hết nắm cơm và toong nước không thấy cơ giới địch nống ra. Trung đội chờ tối hẳn chuyển quân sang mục tiêu khác. Pháo sáng địch lơ lửng trên đầu. Đội hình lặng lẽ di chuyển luồn rừng. Lờ nhờ vệt sáng lân tinh của lá mục lẫn tiếng mối càng rào rào như tằm ăn dâu dưới chân. Vài chú chim giật mình vỗ cánh vọt khỏi vòm cây thất thanh kêu; quéo…quéo… Thoảng có mùi thuốc thơm Ru by của Mỹ. Anh Khoa chỉ huy ra hiệu ngồi xuống. Theo phản xạ, ngón tay chúng tôi đã đưa vào vòng cò. Bỗng chớp lửa xanh lét quét theo tiếng nổ xé tai dọc theo đội hình của mìn định hướng Rơ Mo Mỹ. Tiếng M79 cọc..oành, tiếng A R15 rẹt rẹt quét đi quét lại. Anh Khoa quát: “ Ta bị phục rồi”! Thằng địch nắm thế chủ động lấn lướt. Ta vừa nổ súng vừa rút theo chiến thuật sâu đo. Tiếng thủ pháo của ta nổ lộng óc, tiếng A ka điểm xạ tằng tằng... Tiếng la hét kêu cứu. Tôi bị thương vào cả hai chân, vội dùng hai tay kéo lết qua mấy đồng đội đã hy sinh, cố kéo khẩu A ka đã bắn đến viên đạn cuối tạt ngang vào rừng. Sau khoảng 15 phút, cả hai bên im bặt. Bỗng màn đêm bị phá tung bởi pháo dàn 105 cực nhanh từ chi khu An Lộc dội thẳng trận địa hủy diệt. Đất đá tung tóe, lộn nhào, cành cây phang gẫy quăng quật như B52 bừa tọa độ. Tôi bị hất tung. Không khí đặc sệt khói đạn, nghẹt thở. Đầu ong ong, quay cuồng, máu mồm, mũi, tai rỉ ra… và tôi bất tỉnh.
Tôi vừa giật lùi vừa giật dây và reo lên như vừa phát minh ra một điều kỳ diệu. Đó là cánh diều tự tay tôi phất giấy đã vút lên trời. Cái sáo rô rô tay tôi khoét như bản nhạc ban sơ từ tre nứa gửi bức thông điệp lên trời từ cánh đồng đầy ắp ca dao và lời ru của mẹ. Nó chao đi chao lại đòi dây rồi rướn lên mãi. Cánh đồng sau vụ gặt trơ gốc rạ thừa thãi gió sao cản được gót chân thần tiên của tôi. Tôi cười tít mắt khẽ áp tai vào dây. Gió vuốt qua dây như tiếng đàn bầu đang ngân rung đệm lời ru của mẹ; Lặng nghe trong gió lặng nghe, quê hương đang gọi ta về nối dây. Và tôi láng máng nhận ra tiếng cha tôi nói với mẹ: “Thằng Cao xé hết điểm một, điểm hai trong vở phất diều thả về trời rồi. Suốt ngày ngửa mặt lên trời. Nhà ta nhẽ kỳ này làm ăn trông lên bà ạ! Thế mà bà cứ khen, toàn điểm trung bình trở lên!” Mẹ tôi xuê xoa: “ Đang tuổi ăn tuổi chơi! Nhẩn nha dậy bảo con. Hiếm muộn, mãi mới có được mình nó. Ông đánh nó đau một, tôi đau mười.” Mẹ vẫn luôn điều hòa nóng lạnh che chở cho tôi. Tôi mong sao gió cứ miên man thổi tận đêm cho tôi lần diều xuống. Tắt gió lúc này là lộ hết. Roi sẽ nổi lươn đầy mông đít. Lươn đầy mông tôi chịu được nhưng để mẹ khóc tôi không chịu nổi!
Hình như có tiếng chim hót, tiếng con tắc kè nấc lên; sắp.. về, sắp ..về..Tôi giật mình tỉnh giấc. Trời sáng dần. Tiếng con cu xanh đã gù gù, con gõ kiến chăm chỉ đang mổ vào thân gỗ khám bệnh cho cây cộc, cộc…cộc..thật yên bình. Tôi co các ngón tay và nhấc thử cánh tay, xòe ra khẽ xoa lên mặt. Còn sống thật! Lũ kiến bọ nhọt bu đầy hai chân bầm dập, căng cứng thi nhau ăn máu đã bầm và bốc mùi. Lũ ruồi, nhặng xanh đã đẻ đầy những chuỗi trứng trắng như hoa lúa. Những con dòi trắng như gạo đang bò lổn ngổn. Tôi khẽ hít căng lồng ngực đã bị xẹp nhão như rụng các xương sườn. Họng khát khô muốn cháy. Có tiếng người khàn khàn rên rỉ. Tôi lật nghiêng người quan sát. Cách tôi mấy sải tay, một cái đầu ngúc ngoắc, rồi cái mặt mũi gồ ghề nhem nhuốc bụi đỏ ngồi tựa ụ mối. Hắn thều thào giọng Nam Bộ: “ Bộ đội Bắc kỳ ngeng! Cũng trọng thương sao! Tau kêu mấy bận không động đậy, tưởng ngoẻo rồi chớ!” Tôi giương vội khẩu A ka hết đạn bị miểng pháo tiện mất báng vật bất li thân, chĩa thẳng vào hắn. Hắn nhìn rõ nhưng vẫn tỉnh queo. Một tay ôm cái gì đấy ở bụng, tay kia giơ lên xua xua. Hắn thều thào: “ Có hột quẹt cho tau xin tý lửa. Hút xong điếu thuốc, chú làm ơn cho anh xin một viên hay một tràng A Ka cũng được. Để anh nhẹ nhõm lên đường về với má!”. Nhìn bộ quân phục nhàu nhĩ, khẩu côn quay của Mỹ, tôi nhận ra hắn là sỹ quan ngụy. Nếu ác ý nó đã bắn tôi vỡ sọ rồi. Tôi yên tâm hơn nhìn nó khẩn khoản: “ Tao còn gói Ru By Mỹ”. Chắc ý hắn mời tôi! Tôi bảo hắn: “ Chết đến cổ rồi còn sính hàng Mỹ vậy sao? Giờ lấy đâu ra lửa. Nếu có sức thì bò đến chỗ có cây gỗ đang cháy đằng kia mà hút, lửa của USA đấy! Bằng không, nhai mấy điếu sẽ đỡ thèm”. Hắn nghe theo, nhai liền mấy điếu. Hắn thều thào: “ Tau không thể di chuyển nổi một gang tay. Ruột tau đã lòi ra ngoài rồi”. Vừa nói hắn vừa mở cái tay ôm bụng, một mớ ruột hoại tử đã đen lòi ra cùng máu. Hắn khẩn khoản: “ Đánh thuê cho Mỹ mà dùng súng thằng chủ tự sát thì hèn và nhục quá, chết sao nhắm mắt nổi! Chi bằng, chú là bên thắng, nã cho anh một viên là khỏe nhứt”. Tôi khinh khỉnh nhìn hắn. Mẹ cha thằng này láo. Ai anh em với mày! Lại còn xin kẹo A Ka ăn cho lạ miệng. Nhưng lại thương thương vì hắn thật lòng. Ừ, số đã chết mà hắn còn chọn cái chết trước kẻ thắng chứ không chết hèn vì thằng chủ, chứng tỏ còn liêm sỉ! Mà nếu súng còn đủ 30 viên đạn, tao cũng không thèm xí cho mày thằng giặc đã ngã ngựa một viên kia mà! Hắn lại năn nỉ: “ Chú còn lết được, hãy đến gần chút nữa. Làm ơn cho anh xin miếng nước đái”. Hắn cũng láu cá thật. Nước tiểu lúc bị thương là loại thần dược cầm máu. Nhưng cả hai đều bị thương, đều khát khô họng từ hôm qua thì lấy đâu ra lúc này! Hắn cố nói như tự thú lần cuối cùng: “ Tau 38 tuổi, quê Cà Mau, một vợ ba con gái, thiếu úy thủy quân lục chiến, anh của bốn em trai, trong nầy kêu là Hai Đởm. Sau tau là Đùng, Đoàng, Đủng, Đỉnh. Ba thằng vào lính quốc gia, thằng Đoàng đã tử trận, thằng Đùng kê tay lên cột nhà, dùng rựa chặt đứt một đốt ngón bóp cò vẫn bị bắt lính. Thằng Đủng và Đỉnh trốn ấp, lên R vào quân giải phóng. Má luôn la tau: Sao không vào bộ đội giải phóng mà lại đăng lính VNCH! Tau không đăng lính đánh thuê cho Mỹ lấy tiền đâu đưa má để bả nuôi các em và ba tau tàng tật. Má tau bị bắt giữa đêm về đồn rồi thủ tiêu mất xác vì thân Cộng! Kiện tới kiện lui, bọn nó bảo: Má bay trốn lên R với hai thằng Đủng, Đỉnh. Nhẽ mai mốt quay về làm bí thơ huyện cũng nên! Đù má cái chính quyền đểu cáng, dối trá, bán nước! Tau thương má nhứt! Còn nhỏ, mùa nước nổi cá linh trộn phù sa trôi về dầy đặc như hầm nuôi cá. Tau bơi thuyền đánh bắt thâu đêm trúng luôn cả tạ cho má đi chợ, mà tau lại không thèm ăn một miếng. Má biết tánh tau, luôn làm khô sặt bông và lóc dành cho riêng tau. Thế là từ nay tau hết đường về gặp má!”
Tôi cố gồng hai tay kéo lết người sát hơn Đởm, mong có thể giúp gì cho hắn lúc lâm chung, không quên kéo theo khẩu A Ka cụt báng. Hắn đã yếu lắm, cố cười như mếu thều thào: “ Bắc kỳ ơi! Chú kể về mình đi”. Tôi định bảo, tên tuổi, chức vụ, quê quán lúc này còn nghĩa lý đếch gì chớ, mặc mẹ mày. Nhưng nghĩ lại thấy vô lý. Thương là dù ở hai chiến tuyến giữa cái sống cái chết nhưng tất cả đều nhớ thương day dứt về mẹ! Thằng Việt lúc mê sảng trên lưng mình còn gọi mẹ cứu con với. Mình cũng vừa mơ về mẹ đấy thôi. Nhẽ cốt nhục tình thâm mẫu tử nó thiêng liêng đến không còn ranh giới! Tôi đã kiệt sức, cố nhoài tới và nắm được tay Đởm chìa ra. Tôi chẳng giấu Đởm liền bộc bệch: “ Mình tên là Cao, tròn 18 tuổi, nhà con một, quê Nam Định, chưa vợ con nên chả vướng bận nhiều, chỉ mong sao sớm hết chiến tranh để về với mẹ!” Đởm méo xệch mồm, thì thào: “ Chúc mừng người anh em còn mẹ để mà về!” Tôi giúp Đởm cởi áo để băng lại vết thương bụng và động viên: “ Ôi, số phận hai anh em mình lúc này chả ai hơn ai! Hãy giúp nhau băng bó vết thương, kéo dài sự sống. Ngày mai 27/1 Mỹ ký hiệp định Pa Ri rút quân vô điều kiện, người Việt hết nồi da nấu thịt Hai Đởm à”…
Có tiếng ho, giục nhau làu bàu, tục tĩu. Tôi hướng khẩu A ka theo phản xạ và quơ vội khẩu côn bát của Đởm. Đởm ngăn lại: “ Đừng bắn nữa! Nghe tau!”. Một tiếng hô lớn: “Có súng A ka. Cộng quân!” Một tên chĩa thẳng AR 15 vào tôi xiết cò. Nhanh như cắt, Đởm dùng hết sức bình sinh ôm lấy tôi đè nghiến xuống, hô: “ Đừng bắn! Tau Hai Đởm. Sỹ quan quân lực VNCH nè!” Một loạt đạn oan nghiệt đã găm vào lưng Đởm. Tôi bàng hoàng. Tôi như nghe thấy những giọt máu cuối cùng của Đởm thấm nóng ngực tôi. Mùi máu tanh nhưng lành như làn gió mỏng sau mưa. Khi nhận ra quân phục và khẩu côn Mỹ. Bọn chúng vội xúm lại. Thằng nổ súng không thể hiểu nổi ngón tay cụt một đốt của nó vừa làm gì! Nó vội quỳ xuống, hộc lên một tiếng: “ Anh Hai Đởm! Em Ba Đùng nè! Em giết anh rồi! Trời ơi là trời!” Đởm thì thào đứt quãng: “ Tất cả… buông… súng…Cùng là..người Việt, giờ này rồi… còn bắn.. giết… nhau… sao” ? Cái đầu Đởm ật sang một bên, rũ xuống!
Tôi luồn tay trái vào cổ Đởm, cố nâng đầu lên, tay phải tôi khẽ vuốt mắt cho Đởm đang mở trừng trừng. Đôi mắt đã khép hẳn! Khẽ khàng nhưng rành rẽ từng lời, tôi ghé sát vào tai Đởm: “ Thanh thản lên đường về với má anh Hai Đởm nhé”! Không gian tĩnh lặng. Ban mai sạch sẽ tinh tươm. An bình.
Như một tiếng gọi thiêng liêng thức tỉnh lương tâm. Cả bọn ba Đùng từ từ buông súng!
Mai gật gật cái đầu xù. “Cảm ơn anh Việt đã chửi và đuổi anh để em được nghe câu chuyện nhậy cảm trong dòng chảy chiến tranh 57 năm qua”.
Nhân kỷ niệm 78 năm ngày Thương binh Liệt sỹ năm nay, Mai đã tới thăm anh Việt, chị Lụa và kể lại câu chuyện hai người lính ở hai chiến tuyến họ đã bên nhau trong giờ phút lâm chung. Việt chỉ im lặng ngồi nghe không nói gì. Hai con mắt đờ đẫn bỗng long lanh từ từ ứa ra hai dòng lệ.
Trại sáng tác Yên Xuân Hà Nội
Tháng 8 năm 2025
Nguyễn Bổng
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn