Những đồng đội hy sinh cho tôi được sống, dự thi Hào khí Trường Sơn của Nguyễn Văn Tài
Bài dự thi “HÀO KHÍ TRƯỜNG SƠN”:
NHỮNG ĐỒNG ĐỘI HY SINH CHO TÔI ĐƯỢC SỐNG
Trong cuộc đời hai mươi năm cầm súng chiến đấu của tôi từ tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến làm lính tình nguyện trên đất bạn Cămpuchia. Tôi đã có bao kỷ niệm thiêng liêng nặng sâu nghĩa tình đổng đội. Tôi chỉ xin kể một kỷ niệm đầu tiền của những năm tháng ấy mà suốt đời tôi không bao giờ quên được.
Câu chuyện diễn ra một ngày đầu xuân năm 1969. Trung đoàn 812 của chúng tôi đã cùng với quân và dân Trị Thiên đánh cho kẻ địch một đòn nặng nề làm chúng thất điên bát đảo. Ta đã tiến công nổi dậy trên khắp chiến trường làm chủ Thành phố Huế 26 ngày đêm mùa xuân 1968. Sau chiến thắng vang dội đó, địch cay cú, điên cuồng, phản kích quyết liệt, chúng tìm mọi cách cắt đứt nguồn hậu cần của ta từ đồng bằng lên. Đánh phá ác liệt ngăn chặn tiếp tế từ miền Bắc vào. Chúng thẳng tay đàn áp đẫm máu nhiều cơ sở cách mạng. Các đơn vị chủ lực chiến trường đứng trước một thời điểm cực kỳ khó khăn, thử thách. Địch dùng phi pháp đánh phá dữ dội, liên tục gây nhiều tổn thất lớn cho ta. Vũ khí, thuốc men ngày càng thiếu thốn. Bữa ăn của bộ đội từ năm lạng gạo một ngày xuống ba lạng, rồi 1 lạng...Cuối cùng gạo cũng hết, thương binh không có cháo ăn. Bộ đội phải sống bằng rau, củ, măng rừng... Trước tình thế đó quân khu đã cho phép trung đoàn rút ra Bắc cũng cố xây dựng rồi quay lại tiếp tục chiến đấu. Để bảo toàn lực lượng cho đơn vị. Đại đội công binh có lệnh để lại một trung đội chốt chặn địch. Khi ấy đại đội chỉ còn 27 người. Gom các bộ phận lại được 11 đổng chí còn sức chiến đấu do Trung đội trưởng Thái Hữu Song quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh chỉ huy. Nhiệm vụ của chúng tôi là: Phải chiến đấu đến cùng, dù hy sinh tất cả cũng phải chặn đứng bọn địch cho Trung đoàn rút quân an toàn.
Suốt ba ngày đêm chiến đấu ròng rã, vũ khí chỉ có 6 quả mìn định hướng ĐH -10, 11 trái lựu đạn, một khẩu súng B40, 10 khẩu AK với 2 cơ số đạn. Chúng tôi phải nhịn đói, nhịn khát nhưng đã ngoan cường bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch diệt nhiều tên lấy vũ khí của địch đánh địch, giữ vững trận địa. Nhưng lực lượng của chúng rất đông có phi pháo yểm trợ tối đa. Nên đến chiều tối ngày thứ 3 Trung đội đã anh dũng hy sinh gần hết chỉ còn lại tôi và trung đội tnrởng Song. Tôi bị thương nhẹ vào mắt cá chân và ở đầu. Anh Song đã mấy lần bị thương nhưng vẫn bình tĩnh chiến đấu và chỉ huy trận địa. Lần bị thương cuối cùng vết thương rất nặng do mảnh cối 81 găm vào ngực, vào bụng máu ra rất nhiều. Vết thương ở bụng chảy ra một chất nước xanh lè làm tôi hốt hoảng. Mãi sau này tôi mới biết là do bị đói ăn nhiều ngày không có cơm phải ăn rau nên khi bị thương bụng không có gì chỉ có nước rau mà thôi. Hình ảnh đó làm tôi bị ám ảnh mãi. Tôi cởi áo rồi dùng một chiếc bát B52 úp lên phần ruột bị phèo ra từ vết thương rồi băng bó cho anh. Anh Song nắm chặt tay tôi, đôi mắt của anh nhìn tôi như thôi miên. Ôi đôi mắt chứa chan bao yêu thương như đôi mắt của một người mẹ, nhưng vẫn ánh lên những tia sáng cháy rực cương nghị. Anh nói đút quảng nhưng kiên quyết:
-Tài ơi em phải sống....về báo cáo...trung đội đã hoàn thành...nhiệm vụ. Tôi luống cuống bàng hoàng khi nhìn vào đôi mắt anh, đôi mắt suốt đời tôi không bao giờ quên. Tôi nấc lên:
-Anh Song ơi! anh đừng chết !
Thế rồi bàn tay anh tụt khỏi tay tôi. Anh đã trút hơi thở cuối cùng trên quả đồi không tên phía Tây Nam điểm cao 367 Quảng Trị vào một ngày đầu xuân nơi mảnh đất thấm đẫm máu, mổ hôi, nước mắt của chúng tôi. Tôi ôm chầm lấy anh thảng thốt, nghẹn ngào. Máu của anh vẫn trào ra thấm ướt ngực tôi, nóng hổi... Sự mất mát hy sinh của đồng đội quá lớn làm tôi đau đớn đến tuột cùng. Tôi như người mất hồn, thảng thốt, nước mắt dàn dụa...
Bỗng tiếng súng của địch lại rộ lên, chúng la ó làm tôi bừng tỉnh.
Trong tay chỉ còn 2 trái lựu đạn và vài chục viên đạn AK. Tôi tự nhủ mình phải chiến đấu sao đây ? Rồi những lời căn dặn và đôi mắt nhìn lần cuối cùng của anh Song đã tiếp cho tôi sức mạnh. Tôi bình tĩnh, tự nhủ. Mình phải chiến đấu, phải sống để trả thù cho đồng đội.
Màn đêm đã buông xuống tôi tiếp tục cầm cự với địch diệt thêm vài tên nữa cho đến khi hết đạn. Bọn địch ào lên hò hét:
- Phải bắt sống Việt cộng
Chúng bắn như vãi đạn, chúng đã rất gần . Tôi chợt loé lên ý nghĩ mình phải giả chết, chính đồng đội sẽ che chở cho mình. Tôi nằm sát dưới xác anh Song và Lợi nín thở như đã chết...
Bọn địch tràn lên :
- Việt cộng, việt cộng chết hết rồi.
Tiếng thẳng chỉ huy hét lên:
- Kiểm tra
Rồi chúng dùng lưỡi lê và thuốn xăm vào từng người một xem đã chết hẳn chưa.Tôi đau đớn đến nghẹt thở. Trời ơi ! bọn địch lại giết đồng đội tôi thêm một lần nữa. Một ý nghĩ lại vụt lên: Hay là mình vùng dậy lao vào bóp chết vài thằng rồi cùng chết với đồng đội. Nhưng nhớ lời dặn dò của anh Song trước lúc ra đi, tôi đã trấn tĩnh lại ngay, nằm im chờ đợi...
Bước chân của chúng đến càng gần, một thằng đã đi sát bên tôi đá vào anh Song, chắc là hắn sắp đâm lê xuống, tôi nghĩ và nín thở chờ đợi...
Nhưng thật lạ lùng, hắn đột nhiên quay lại và đi thẳng.
Khi chúng đi rồi tôi chưa hết hồi hộp, một lát sau mới thân trọng từ từ ngồi dậy.
Dưới ánh trăng thượng tuần 10 đồng chí thân yêu của tôi mỗi người một tư thế nằm như đang ngủ, nhìn đau xót quá. Tôi bí mật, lặng lẽ dùng 2 bàn tay đang còn đẫm máu của mình bới các hố pháo và những căn hầm bị sập, sợ địch phát hiện tiếng động nên không dám dùng xẻng. Bọn địch đang ở quanh suối dưới chân đồi cách tôi khoảng 100m. Tôi lặng lẽ chôn cất các anh, dùng dao găm khắc tên tuổi của từng người trên dây lưng, bi đông đựng nước. Tất cả còn rất trẻ, 9 người 17, 18 tuổi cùng tuổi với tôi. Mỗi người một quê hương: Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Nội, Hải Phòng...Có đồng chí tôi không nhớ tên vì mới bổ sung vào đơn vị mấy ngày. Anh Song là người nhiều tuổi hơn cũng chỉ mới 20. Đồng đội còn quá trẻ, tràn đầy sức xuân. Các anh ra đi như những thiên thần. Chôn cất đồng đội đến gần sáng tôi mới vượt qua vòng vây của kẻ thù. Vượt qua biết bao tình huống hiểm nghèo, đói khát cái chết rình rập, 15 ngày đêm một mình giữa rừng sâu trong tay chỉ còn một khẩu súng AK hết đạn đã sống sót trở về tìm được đơn vị.
Cho đến hôm nay sau gần 46 năm kể từ cái đêm định mệnh ấy, tôi không hiểu vì sao nhiều lần tôi đã đến gần cái chết, đã từng được làm lễ truy điệu sống, được báo tử mà mình vẫn còn sống. Qua bao thăng trầm, biến cố của cuộc đời có những lúc tưởng như tuyệt vọng, gục ngã tôi vẫn đứng dậy để sống xứng đáng với các anh. Các anh đã tiếp sức độ trì cho tôi!
Tôi đã thực hiện lời thề thiêng liêng của mình với những người đã khuất. Trong chiến đấu trên các chiến trường tôi đã dũng cảm ngoan cường lập chiến công xuất sắc đạt 9 lần đạt danh hiệu dũng sỹ các loại, được Đảng và Chính phủ tặng 16 Huân chương, trong đó có 7 Huân chương chiến công các loại. Được Nhà nước Campuchia tặng thưởng Huân chương Ăngco hạng nhất. Nhiều năm liền tôi được bình bầu chiến sỹ thi đua, chiến sỹ quyết thắng. Làm tròn sứ mệnh vẻ vang chống Mỹ cứu nước gần 10 năm. Tôi lại tiếp tục làm nhiệm vụ quốc tế thiêng liêng cao cả trên đất Campuchia hơn 10 năm trời. Mặc dù mang trên mình nhiều vét thương, nhiễm chất độc da cam. Trở về đời thường, tôi thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác: “Thương binh tàn nhưng không phế”. Mặc dù sức khỏe suy giảm, vết thương tái phát luôn hành hạ. Tôi mang trong mình các bệnh hiểm nghèo như: Tiểu đường, huyết áp, tim mạch đã hơn 20 năm. Lại bị sức ép bom sinh ra bệnh động kinh tâm thần. Nhưng với ý chí và nghị lực mạnh mẽ, tôi đã vượt lên chiến thắng bệnh tật rèn luyện sức khỏe, lao vào công tác xã hội, làm cán bộ khối xóm, ủy viên Ban chấp hành CCB, phó Chủ tịch Hội Trường Sơn của phường, cống hiến hết mình cho công việc được đồng đội và bà con khối phố tin yêu. Tôi còn nhiệt tình hăng say phấn đấu trên mặt trận văn hóa tư tưởng, văn học nghệ thuật. Sống học tập và quyết tâm viết, tôi đã trở thành hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, hội viên Hội thơ Nguyễn Công Trứ toàn quốc, Hội thơ Hồng Lam tỉnh Nghệ An. Tham gia sáng lập: “Tao đàn mùa xuân Nghệ An” trong Ban chủ nhiệm Hội thơ có uy tín của tỉnh. Tôi đã xuất bản 2 tập thơ, 3 bộ lịch sử. Đã công bố hơn 600 bài thơ, truyện ngắn, bút ký, bài báo đăng tải rải rác nhiều năm trên các tờ báo và tạp chí của Trung ương và địa phương. Tập thơ “Nguồn Thiêng” nhà xuất bản Nghệ An ca ngợi cuộc sống chiến đấu của đồng chí đồng đội và quê hương Tổ quốc anh hùng. Tập thơ :Nhắc con điều giản dị” nhà xuất bản Hội nhà văn. Tập thơ kính dâng Bác gồm 63 bài ca ngợi và học tập tấm gương đạo đức sáng ngời của Bác nhân dịp kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Người (19/5/1890 - 19/5/2015). Tôi đã phấn đấu là cộng tác viên tiêu biểu nhiều tờ báo và tạp chí Trung ương và địa phương, được tặng nhiều bằng, giấy khen, đoạt giải báo chí và văn học nghệ thuật. Tôi đang viết một Trường ca dài hơn 3000 câu về đề tài chiến tranh cách mạng, nhan đề “Hương hoa lửa”. Thiên Trường ca sắp hoàn thành. Đây là tâm huyết cả cuộc đời tôi từng nung nấu và ấp ủ.
Tôi nguyện với lòng mình suốt đời còn sống, còn làm việc, còn cống hiến, còn viết đến hơi thở cuối cùng. Tôi còn mắc nợ với những người đã khuất, những đồng đội thân yêu nhiều lắm biết bao giờ mới trả hết được.
Ảnh tác giả Nguyễn Văn Tài
Ảnh ông Tài
Nguyễn Văn Tài
108 đường Héc Man – P.Hưng Phúc –
TP Vinh – Nghệ An
ĐT: 02383 842258 - 0912 583 804,0915.486.777
Địa chỉ mail: namduong115@gmail.com