Không ai chết cả ! - Truyện của Nguyễn Kim Chúc

Ngày đăng: 05:20 22/07/2019 Lượt xem: 424
Không ai chết cả !

                               NGUYỄN KIM CHÚC
 
Ông già da ngăm đen, tóc xoăn tít, quấn xà rông, tay cầm mác, mắt đỏ ngầu xuất hiện quát lớn:
- Bộ đội không được làm thế!
Mạnh mẽ và dứt khoát ông lội xuống suối tay chụm lại tát nước dập tắt ngọn lửa đang cháy rần dật giữa trời nắng gắt. Lửa tắt, ông sốc lại gùi trên lưng nhìn bọn tôi không mấy thiện cảm.
- Bộ đội chết có bổ sung! Đồng bào chết không có bổ sung. Nói rồi ông cầm mác đi khuất.
Chuyện bất ngờ như thế đến với bọn tôi. Tổ đi kiếm lương thực chống đói cho đơn vị do tôi phụ trách, đi tới đây đã gần đứng bóng. Bụng đói tìm cách nấu ít canh với ốc đá. Cũng sợ khói lên không ổn vì bọn giặc trời vẫn đang quần thảo khu vực. Hùng nêu ý kiến: Dùng củi khô đun giữa trời nắng sẽ không có khói. Nghĩ thế đúng, cả bọn đang làm thì bị ông già tới quát và dập tắt lửa. Cũng may là ăng gô canh đã sôi. Ông ở đâu tới và đang đi về đâu là một dấu hỏi trong đầu chúng tôi. Chỉ có điều chắc chắn là mọi hành động của bọn tôi đã bị đồng bào theo dõi. Nghĩ vậy bọn tôi ý tứ bảo nhau giữ gìn.
Chúng tôi đang ở vùng cực tây của huyện Nam Giang - Quảng Đà; Nơi tiếp giáp với tỉnh Tà ven oọc (Lào) đang phải sống cực kỳ khó khăn mùa mưa năm 1968 hàng hóa không vào được. Định suất lương thực từ bảy lạng gạo/ ngày hiện chỉ còn một lạng sáu /người/ngày. Mọi sáng kiến, mọi việc làm, tìm kiếm được chút gì chống đói cho đơn vị chúng tôi đều thực hiện. Chị em ở Đại đội 3 nữ thanh niên xung phong thuộc Tiểu đoàn 2 (đơn vị kết nghĩa với Đại đội 6 chúng tôi) mách nước tìm về các rẫy cách mạng lấy khoai mì (sắn) về chống đói. Tôi cùng Hùng và Long đều là người Tày Tuyên Quang rất thạo nghề tìm kiếm lâm sản thực hiện nhiệm vụ này.
Bỏ lại đường giao bộ theo đường mòn chúng tôi đi về phía hạ lưu sông Thanh. Nơi có một tổ chị em thuộc Đại đội 3, Tiểu đoàn 2 đang chế biến sắn khô để chuyển về đơn vị. Chiều muộn bọn tôi mới tới chỗ chị em. Tổ của các em có năm người do Hân làm tổ trưởng. Các em rất mừng khi ba chúng tôi tới. Hân chỉ bảo tận tình cho bọn tôi nơi mắc võng nghỉ, nguồn nước, bếp nấu ăn và đề nghị chúng tôi sát nhập với tổ chị em tổ chức khai thác, chế biến sắn khô. Tất nhiên là bọn tôi đồng ý.
Đêm nằm trên võng mắc qua hai bụi tre nghe rõ dòng nước chảy ầm ào của dòng sông Thanh. Nhìn lên bầu trời vuông lay động bởi gió rừng, khi mờ, khi tỏ bởi những ngọn tre lòng người mang nhiều nỗi nhớ … Mệt nhọc qua một ngày tìm về nơi đây. Kế bên Hùng, Long đã cất tiếng gáy và tôi ngủ lúc nào cũng không hay. Tỉnh giấc, trăng mười sáu đã gác núi. Bếp vẫn bập bùng ánh lửa, chị em thay nhau tiếp củi giữ nhiệt để làm khô những lát sắn thái trên gác bếp. Bất giác tôi nhớ gương mặt có phần giận dữ của ông già trưa qua với câu nói ám ảnh: “Đồng bào chết không có bổ sung”. Tôi thấy có cái gì đó không ổn ở nơi đây. Đêm ánh lửa phát ra không được che chắn kỹ, ban ngày nơi những tảng đá lớn ven sông và những bãi trống được những lát sắn trắng phủ lên …
Tám người chúng tôi quây quần bên nhau tay cầm những củ sắn luộc ăn với môn thục trộn muối ớt cay xè nói cười vui vẻ. Tôi nói nhỏ với Hân về những băn khoăn của mình và bàn với Hân cách phòng tránh đề phòng bị địch oanh tạc.
- Chuyện lớn và nguy hiểm như rứa mà răng em không nghĩ tới nhỉ? Giờ tính sao anh?
- Em bình tĩnh, chuyện chưa có gì mà. Tôi an ủi Hân. Nhưng đề phòng trước vẫn hơn. Em nên nói với chị em việc này cùng phòng tránh. Tính trước đi nếu bị đánh người sơ tán hướng nào. Đồ đoàn nên để đâu cho an toàn, thế thôi…
Càng lên cao, càng thấy tấm lòng người dân nơi đây với cách mạng. Những quả đồi san sát nhau dọc theo sông Thanh này đều là những rẫy trồng sắn của đồng bào để lại. Được gọi là rẫy cách mạng. Sắn trồng nơi đây ai cũng có quyền thu hoạch. Song nhổ một khóm phải trồng lại ngay nơi ấy một hom sắn. Để người sau có cái mà thu hoạch. Ở đây đất rất thích hợp với cây sắn. Sắn lên rất nhanh cho nhiều củ. Song, do tự thu hoạch và trồng lại nên rẫy cách mạng thành hoang hóa, cây sắn ở đây cũng vậy, có chỗ được thu hoạch thường xuyên, có chỗ lâu ngày không ai động tới nên chất lượng củ không đồng đều. Theo phân công tôi, Hùng, Long đào sắn mang về cho chị em chế biến. Đang chuyển những củ sắn to nạc vào gùi thì nghe tiếng máy bay cánh quạt vọng tới. Ngẩng lên đã thấy hai chiếc AD6 bay dọc sông Thanh. Qua trước mặt bọn tôi, chúng vọt lên tăng tốc, vòng lại. Tôi la lớn:
- Tản ra ngụy trang kín đáo.
Ba anh em lẩn vào những bụi cây, ngước nhìn hai chiếc AD6 đang vòng lại. Chớp lửa ở hai bên cánh AD6 tóe ra tức thì những tiếng “Rụp! Rụp rụp…” của những tràng đạn ở những khẩu liên thanh sáu nòng AD6 trút đạn xuống khúc sông trước mắt. Chính nơi năm cô gái C3 đang làm việc. Hai chiếc AD6 nối đuôi nhau vãi đạn xuống dọc sông Thanh, xuôi dần về phía hạ lưu. Chúng lượn vòng quan sát dọc sông. Bất ngờ chúng nâng độ cao rồi bổ nhào theo hướng mặt trời. Hai bên cánh AD6 bung ra vật thể không xác định rơi tự do xuống. Lập tức những tiếng nổ chát chúa chuyển động mặt đất. Thì ra bọn chúng phóng bom bi hình quả ổi. Hai chiếc AD6 thi nhau quần thảo bắn phá. Chúng tôi rất lo cho năm chị em phía dưới mà không cách gì cứu giúp. Bọn AD6 này khi phát hiện mục tiêu chúng bắn phá rất dữ dội mang tính hủy diệt, chà đi quét lại nhiều lần. Hai chiếc AD6 lại nâng độ cao, bổ nhào. Lần này chúng cắt bom cháy. Lửa Napan cháy sang chói, khói cuồn cuộn bốc lên. Chúng tôi nghe tiếng lao xao phía suối cạn. Tiếp cận tới gần thì cả năm chị em bám theo suối cạn lên chỗ bọn tôi. Chúng tôi nắm chặt tay các cô gái cảm ơn trời đất đã đưa các cô trở về an toàn. Chừng nửa tiếng sau hai chiếc AD6 bỏ cuộc bay về hướng đông. Có thể chúng đã vung vãi hết bom đạn.
Tám anh em quây quần dưới tán cây bìa rãy bàn tính chuyện tiếp theo. Chuyện bị địch bắn phá như vừa rồi không lạ lẫm gì với chúng tôi. Nhưng trên khuôn mặt chị em vẫn còn chút thảng thốt, chưa hoàn toàn tự chủ được.
Hân lên tiếng trước:
- Giờ tính sao anh?
- Tính gì nữa. Ta về lại thu dọn, mang được thứ gì về là quý. Giờ là lúc chúng chưa thể đánh phá lại.
Tôi nói với cả bọn nhưng cũng là nói với chính mình. Tôi nói thêm:
- Tôi, Long, Hùng đi trước. Các bạn bám theo dấu chân bọn tôi mà bước. Chú ý những quả bom bi chưa nổ. Bọn tôi thận trọng về lại nơi ở. Cảnh tượng tan hoang trước mắt bọn tôi. Những bụi tre xanh là thế giờ cháy rụi, nổ đốt gãy gục, cháy nham nhở. Những hố bom bi đan dầy trên mặt đất chứng tỏ chúng bay rất thấp cắt bom. Hai bó ống phóng bom bi nằm vắt ngang bụi tre gai còn nhìn rõ những quả bom bi hình quả ổi vàng chóe chưa kịp ra khỏi ống …
Cả bọn nhanh chóng rời khỏi nơi bị đánh phá mang theo những gì có thể. Cũng may, ngay buổi sáng chị em đã sơ tán đồ đạc vào những khe núi nên thiệt hại không đáng kể. Chỉ tiếc bộ soong nồi của chị em bị thủng lỗ chỗ không thể dùng được. Còn chiếc soong 10 chúng tôi mang tới ngâm sắn dưới suối không hề hấn gì. Tôi phân nhóm: Hùng cùng hai bạn nữ đi trước; kế sau là Long và hai bạn nữa, tôi và Hân khóa đuôi. Cả bọn ngược nước sông Thanh về lại đỉnh núi Trường Sơn - nơi đang có những trận mưa, mây đen vần vũ nước suối dâng đầy.
Chỉ còn một đoạn nữa là tới chân dốc giao liên nơi chúng tôi định nghỉ qua đêm thì mưa sập tới. Cảm giác như đang đi vào trong mưa. Người bắt đầu ướt, tấm vải mưa cũng không làm cho khỏi ướt. Nước ngấm vào đầu tóc, chảy xuống mặt, xuống vai dần dần ngấm vào cơ thể. Chúng tôi bảo nhau cố gắng uống lấy vài ngụm nước mưa để chống cảm mạo. Bùn đất dưới chân nhão nhoét dép tụt quai liên tục. Cả bọn có lúc co cụm lại giúp nhau chằng buộc, chống ướt.
Bắt đầu qua đoạn suối cuối cùng để lên dốc giao liên. Hân và tôi đi sau cùng dò dẫm bước. Nước đang dâng rất nhanh. Bất ngờ Hân lùi lại suýt xô ngã tôi. Định thần lại giữa dòng nước chảy xiết cuốn theo gỗ mục, cây bật gốc, đá chạy lục cục dưới dòng suối. Đội hình bị cắt làm đôi. Tôi và Hân dạt lại bờ phía nam. Sáu anh em bờ bắc đã kéo nhau lên hết bờ. Tôi ra hiệu cho Hùng cứ dẫn toán đi. Nước đã ngang bụng không thể qua suối, tôi và Hân lên bờ phía nam …
Tôi không bao giờ quên những thời khắc qua đêm cùng Hân bên dòng suối hung dữ ấy. Tôi luôn phải trả lời câu hỏi của Hân “- Giờ tính sao anh!”. Tưởng qua được bờ nam là yên tâm, nào ngờ vừa bước lên bờ, nước phía ấy lại ùa tới. Thì ra chúng tôi đang ở doi đất kẹp giữa dòng suối và suối cạn. Suối cạn giờ đã đầy nước, dòng chảy cuồn cuộn như dòng suối trước mặt. Nước hai dòng hòa làm một mà trời vẫn mưa nặng hạt. Nguy cơ bị nước cuốn trôi. Tôi và Hân dắt díu nhau bám vào những tảng đá lớn có những cây to kế bên tính kế trụ lại. Hân mảnh mai trước mắt tôi nhưng kiên cường chẳng kém tôi. Em bình tĩnh làm theo tôi, cùng tôi vượt qua mọi thách thức. Trời sập tối và mưa cũng bắt đầu ngớt. Lạnh và đói bám lấy bọn tôi. Chúng tôi cố gắng hấng và uống hết những giọt nước mưa vào bụng trước khi trời tạnh hẳn.
Nước rút rất nhanh, dưới chân chúng tôi không còn nước. Nước đã về dòng suối chính. Trời tối đen, tôi và Hân vẫn ngồi lặng yên ở vị trí chốn chạy dòng nước xiết, cố chịu đựng cái lạnh và đói trong lòng. Thế rồi cái ngủ cũng ùa về. Trong cơn mê tôi thấy nhiều thứ. Lúc thì bay vào chốn kinh dị, lúc thì trong vòng bắn phá của máy bay Mỹ. Nhưng sâu đậm nhất vẫn là ánh mắt của ông già hôm rồi với câu nói của ông: “Đồng bào chết không có bổ sung”. Bên tôi Hân cũng đã tỉnh giấc. Em co chân rút lại dây dép lốp. Tôi cũng làm theo em rút lại dây dép cho vừa chân. Hân lại hỏi:
- Giờ tính sao anh.
Chờ trời sáng hẳn, nhìn rõ cây cỏ. Tôi và Hân mới dò dẫm ra đường mòn để qua suối. Gùi sắn hôm qua với tôi không khó khăn gì mà sao hôm nay khoác vào nặng thế, nó luôn muốn kéo tôi ngã ngửa về phía sau. Không hiểu Hân có thế không. Tôi nghĩ: “Kiểu gì cũng phải mang sắn về đơn vị”. Tôi đi trước, Hân bước theo sau. Cũng may dòng suối đã hiền hòa trở lại nhìn rõ những tảng đá dưới làn nước. Nước chỉ tới đầu gối nhưng sao lạnh thế không biết.
Qua được đoạn suối an toàn, tôi và Hân lặng lẽ bước nhằm dốc giao liên tiến bước. Nơi ấy có Hùng, có Long và bốn chị em tới từ hôm qua đang mong ngóng bọn tôi trở về. Tôi tin ở Hùng, ở Long những chiến sỹ đầy kinh nghiệm, thích nghi nhanh với môi trường sống sẽ chuẩn bị đón tôi và Hân với bữa cơm nóng hổi có canh ốc đá, có nộm rau tàu bay và măng rừng luộc chấm muối ớt cay xè. Tôi lại muốn gặp lại ông già đã mắng bọn tôi hôm rồi. Để nói với ông: “Bộ đội chúng con có đồng bào, có rẫy cách mạng sẽ đánh thắng Mỹ. Bộ đội chúng con không chết! Đồng bào cũng không chết! Không ai chết cả! Tin bọn con đi! Bố!”.

tin tức liên quan