Nhà Văn NGUYỄN BỔNG

Ngày đăng: 10:13 19/10/2025 Lượt xem: 102
         Nhà văn Nguyễn Văn Bổng. Sinh 1951, quê quán: Hải Tây, Hải Hậu, Nam Định. Nay là xã Hải Quang, Ninh Bình. Nhập ngũ 1969. Đi B vào chiến trường Đông Nam Bộ. Phục viên 1976. Quân hàm B bậc phó tức Thiếu úy khi ra quân. Hiện là thương binh, bệnh binh nhiễm da cam/ đê ô xin. Năm 1977 - 1979 là Phó Chủ tịch, Trưởng công an xã. 1980 - 1985 là Chủ tịch xã. Năm 1986 - 2011 là Bí thư Đảng ủy xã. Trong 8 năm chiến trường và hơn 30 năm liên tục là cán bộ chủ chốt xã đã nhận 5 huân chương các loại. Nhiều huy chương trong đó có Huy chương vì sự nghiệp văn học nghệ thuật. Đã xuất bản ba tập truyện ngắn, một tập ký, một tập tản văn, hai tập thơ. Giành 21 giải thưởng văn học , báo chí của trung ương và Tỉnh. Là chiến sỹ thi đua cấp tỉnh 10 năm liền. Đã nhận huy hiệu 50 năm tuổi Đảng. Là hội viên hội VHNT Nam Định năm 1999. Hội viên hội VHNT Trường Sơn. Giải nhất cuộc thi: “Chiến sỹ Trường Sơn anh hùng năm xưa và trong cuộc sống hôm nay”.
          Mời độc giả đón đọc tác phẩm đạt Giải nhất của Nhà văn Nguyễn Bổng: “Đạo diễn Trần Văn Thủy với chuyện nghề”

 


ĐẠO DIỄN TRẦN VĂN THỦY
          VỚI CHUYỆN NGHỀ
                                                            Bút ký Nguyễn Bổng
 
     Số Văn Nhân Nam Định Tết Mậu Tuất 2018, nhà văn Mai Thanh điểm một số chân dung văn nghệ sỹ nổi tiếng ở Hải Hậu có đoạn:
“Hải Hậu Anh Hùng, một miền quê văn hóa, giữ lá cờ đầu toàn quốc về văn hóa thông tin hơn bốn mươi năm sinh ra nhiều văn nghệ sỹ nổi tiếng, có nhiều đóng góp cho nền văn học nghệ thuật nước nhà. Có thể kể ra như: Nhà văn liệt sỹ Nguyễn Thi, nhà viết kịch Đào Hồng Cẩm, nhà thơ Vũ Quần Phương, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian giáo sư, Ngô Đức Thịnh, nhà đạo diễn phim Trần Văn Thủy..”
         Có thật có số phận!
        Tôi học hành ít, lại là lính chiến đấu tám năm chiến trường, bốn lần bị thương không chết, nên ngang tàng nhưng tin có số phận.
Nếu gia đình Trần Văn Thủy không vượt qua sự quy chụp nghiệt ngã về thành phần “nhạy cảm” trước cải cách để cái đam mê điện ảnh và ý tưởng của ông có được thực hiện sau này! Ông phải ba chìm bảy nổi, chín lênh đênh để theo đuổi, theo đuổi đến nỗi, có xu nào đều nướng sạch vào phim ảnh ngay từ nhỏ trong khi cả nhà chả ai quan tâm đến nó.
        Nếu không có số phận, thử hỏi làm sao ông có thể lọt vào được trường trung cấp điện ảnh? Cái số phận của ông dân tộc Nông Ích Đạt là gặp ông để tìm cách đặc cách người dân tộc Nùng mang họ “Trần” người kinh vào nghề khi nhà trường đã từ chối ông để rồi vô hình ông chuyển giao cái nghề hèn cho Trần Thủy.
        Nếu không có số phận, thử hỏi đất lửa khô cằn Quảng Nam năm 1966 chọn ông trong thiếu mặc, thiếu cả không khí thở, đói ăn, có đợt ba tuần không hạt cơm trong bụng, chỉ có rau rừng nhưng thừa bom đạn, muỗi như trấu, vắt như xơ mít, thừa cái chết rình rập và bao đồng nghiệp đã bỏ mạng, bỏ ông, cử ông phải sống để hoàn thành cái nghề khổ hơn lính bộ binh mang kết quả ra bắc. Người ta nằm xuống để nổ súng, nghề của ông phải đứng lên lia máy hứng cả hai làn đạn.
        Nếu tổ chức không cố tình cử ông đi Liên Xô học lớp đạo diễn thì điều gì sẽ sẩy ra. Liệu ông có thiên duyên gặp được thầy Roman Karmen để lột xác mình..nhận hàng chục giải thưởng quốc tế danh giá, và chính ông cũng đã cự lại không muốn đi. Nhưng cuối cùng. Không còn sự lựa chọn. Phải đi. Đi để cứu cảnh nhà!
         Nếu không có số phận, năm 1966 vừa kết nạp Đảng, nửa đêm nhận lệnh đi B trong đội hình bám sát D3, F 568 để người cõng phim đi, năm 1968 phim cõng người về da bọc xương theo đường 559. Khi vào đường dây 559 ông là người yếu nhất, sốt rét sớm nhất, cùng những cơn đau dạ dày thổ cả huyết hành hạ cả tháng trời. Chính ông cũng đã bị cán bộ khung Trần Chuyên đánh giá là bệnh tư tưởng. Thủy may còn được Bác sỹ Đặng Thùy Châm cùng đi và đã trực tiếp điều trị để ông vượt qua. Giờ thì ông đã hiểu “những cơn sốt rét dài hơn cuộc đời” là gì khi vào với Trường Sơn. Có nghĩa người bị sốt rét chết rồi nhưng con ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể nó vẫn còn sống và chết sau.
         Nếu không có số phận, năm 1968 khi nhận nhiệm vụ từ Duy Xuyên phải cõng mấy chục cuốn phim nặng hơn trọng lượng người theo đường dây 559 ra Bắc…Trong lúc đói lả, lên cơn sốt vẫn ôm khư khư gùi phim trong bãi khách vắng hoe, một nửa cái tăng che phim, một nửa che cái xác đang nghiến răng chịu trận sốt tưởng không qua khỏi đã viết ra mảnh giấy. “Ai nhận được gùi phim này hãy chuyển ra Hà Nội gấp”! Chợt mang máng bên tai có tiếng quát; “Tay nào đây? Định B quay hả?”. Một người giật mảnh tăng ra, họ xem mảnh giấy và lễ phép thưa: “Thưa thủ trưởng, một lính phóng viên chiến trường chắc của xưởng phim quân đội đưa phim ra Bắc bị sốt nặng nằm chờ chết ạ”. “Thế thì phải khẩn trương cấp cứu, chuyển về bệnh xá gần nhất ngay”. “Dạ, anh ấy đã tỉnh, cứ ôm chặt cái gùi bảo; phim quay ở chiến trường, phải mang ra Hà Nội”. “Thế thì càng phải khẩn cấp bắt xe, vừa điều trị vừa chạy thẳng ra”. Khi lên xe Thủy cố thò đầu ra hỏi người lính; “Ông nào đấy”. “Ông thủ trưởng đấy”. “Thủ trưởng tên gì”. “Ông Tư lệnh, Tướng Đồng Sỹ Nguyên đấy”. Thủy giật mình, ứa nước mắt. Trời ơi, chiến trường ác liệt mà Tướng Tư lệnh chống gậy cùng lính đi kiểm tra đường dây? Gỉa như mình có chết vào cái phút cuối gặp được Tư lệnh cũng mát dạ, chả ân hận gì, phận con sâu cái kiến. Còn ông là Tướng, là Tư lệnh cơ mà, nhẽ chiến trường chỉ đếm đầu ngón tay, sao mạo hiểm thế chứ! Đúng là “Tướng sỹ một lòng phụ tử”. Tư lệnh đã “cải tử hoàn sinh” ra lệnh cứu cả hai sinh mệnh, cả mình và những thước phim mà hơn chục phóng viên đã ngã xuống cử mình phải sống và cõng nó ra. Suốt đời này mình biết ơn ông Tư Lệnh Trường Sơn huyền thoại. Chính ông đã cứu sống bộ phim “Những người dân quê tôi” quay dưới mưa bom bão đạn ở Duy xuyên nơi mà bác sỹ Đặng Thùy Châm đã ngã xuống, để sau này bộ phim duy nhất đã nhận giải Bồ Câu Vàng tại Đức. Qua đó bầu bạn hiểu rõ về cuộc chiến tranh tàn bạo nhất, lâu dài nhất, ác liệt nhất, hy sinh nhiều người của nhất nhân loại của thế kỷ 20 mà Mỹ đã gây ra với nhân dân Việt Nam.
         Với hình hài mắt trắng dã, da bọc xương, râu tóc tua tủa như một con ma rừng, chị gái ông Trần Thị Mạc không nhận ra khi ông gọi cửa số 52 - Hòa Mã Hà Nội, chị mở cửa nhìn một hồi rồi lắc đầu, đóng sầm cửa lại: “Ông nhầm nhà rồi”!
         Nếu không có số phận, chỉ một chút định mệnh thôi những thước phim nó đã phản bội ông, giết chính ông tới nhiều lần chỉ vì chất liệu kỹ thuật tráng phim tư bản và xã hội chủ nghĩa. Cũng chỉ cách nhau bức tường, thế mà Đông Đức Và Tây Đức cùng phim nhưng tráng hoàn toàn khác nhau. Đã có người bảo; “Thằng Thủy lừa chúng ta rồi, nó chả quay được thước phim nào, có B quay thì có”. Và cũng chính số phận những cuốn phim đã cứu ông, cứu đồng đội ông khi ông Trần Đoàn bằng kinh nghiệm của mình một tháng sau mới tráng được phim. Thủy đã khóc. Khóc là một thứ tài sản đặc biệt vô giá lúc này để tự đáy lòng mình cảm ơn ông Tư lệnh đường 559 Đồng Sỹ Nguyên đã cứu ông, cứu một giải thưởng Quốc tế phim quay nóng ở chiến trường duy nhất dự giải.
         Nếu không có số phận, sự ầm ĩ tranh luận gay gắt, sự nghi kị nhỏ nhen thái quá của người có quyền để bị cấm phim, để đến tai Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, để ông hạ một câu như mệnh lệnh sau khi xem phim: Hà Nội Trong Mắt Ai: “Bộ phim chỉ có thế này thôi à các anh! Nếu chỉ có thế này sao lại cấm. Hay vì trình độ có hạn mà tôi không hiểu được? ”Chính câu nói ấy mà phim của ông được cải tử hoàn sinh về với công chúng và mở đường cho phim “Chuyện Tử Tế” ra đời sau này có số phận may mắn hơn.
         Sự thành công và nổi tiếng.
         Hóa ra điều giản dị nhất cũng có thể trở thành nổi tiếng. Điều rất đơn giản  của Trần Văn Thủy là: Làm cái không ai làm, làm cái gai góc, nhưng rất nhậy cảm, rất bản ngã đó là giá trị con người. Ngổn ngang lời bình là những ngôi người lạc trong nổi chìm muôn mặt của cõi nhân gian với những chi tiết được xắt ra đầy kịch tính, của cảnh mạt đạo, mạt pháp, xô bồ, trồi sụt bất trắc.
Câu hỏi thường trực trong ông là: Làm phim cho ai, có ích không, làm sao phải hay! Khi làm cũng không cần nghĩ ai duyệt, có vào giải, cũng không phải có móc được nhiều tiền trong túi khán giả! Trần Văn Thủy đã làm lên cái ồn ào, ầm ĩ. Ngay đầu phim Chuyện Tử Tế đã có dòng… “Tất nhiên chỉ có súc vật mới có thể  quay lưng lại nỗi đau khổ của con người, và chăm lo riêng cho bộ da của mình…”. Và những lời bình đầy ấn tượng nhưng không kinh viện siêu phàm… “Tử tế có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi dân tộc. Hãy bền bỉ đánh thức nó, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của quốc gia. Bởi thiếu nó, một cộng đồng dầu có nỗ lực tột bực và chỉ hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ và cả người lớn đầu tiên vào việc học làm người - Người tử tế, trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành người có quyền hành, giỏi giang hoặc siêu phàm…”
         Ông bình sát ván, đẫm đời để rồi kiệm lời, im lặng nghe phản biện vì ông luôn đứng về sự thật đến cùng. Sự thật của con người, nhưng sự thật khó nói cùng một lúc. Ông thừa hiểu thuyết nhân quả, họa có phúc, trong phúc có họa, nhưng ông tự nguyện làm “tội đồ”, làm “phu chữ”, trong cái nghề “Lập thân tối hạ thị văn chương”. Ông cứ âm thầm rút gan ruột mà làm, ông tin là có ích. Những nghi kỵ, quy chụp, cấm đoán, có cả chửi bới, đe dọa của ai đó càng làm tâm hồn ông trong lại. Mỗi mất mát, kỷ niệm nhớ thương, đau khổ đã trải nghiệm càng làm giầu thêm cho nguồn sống, vốn sống, thêm động lực để ông càng đứng vững với số phận nghề đã chọn ông. Bởi ông thấu hiểu, để hiểu nỗi đau của con người không phải là một việc dễ dàng! Nếu không có lòng tin con người không thể sống với con người được. Khi người nghèo ắt sẽ hèn yếu, hèn yếu là thấp cổ bé miệng, là yếu thế nhưng nó lại là nơi tung tẩy nhẩy múa của sức mạnh ma quỷ. Chống sự suy thoái trong đời sống kinh tế là chống sự sói mòn nhân tính. Không phải trong hoàn cảnh nào cũng có thể sống tử tế. Ngày nay khi nền kinh tế thị trường đã và đang đưa đời sống kinh tế lên khá rõ rệt, thì mặt trái của nó, sự phân hóa giầu nghèo, lối sống đề cao đồng tiền, sống gấp, bạo lực, vô cảm tăng lên, đạo đức xã hội, lối ứng xử có văn hóa đang bị hao vơi đi đáng kể. Một xã hội mà ông nhận thấy, tưởng như đầy ắp những dậy bảo, những răn đe, con người vẫn khao khát về lẽ sống, lẽ phải, tôn trọng sự khác nhau. Chuyện tử tế dần trở thành xa sỉ ngay chính trong nông thôn trong đó có làng ông ở xã Hải Phong. Một ngôi làng mà ông đã về đầu tư xây bảy cây cầu mang tên cầu Nhân,  Nghĩa,  Lễ, Trí,  Tín..trường học, đường xá và gần trăm giếng khoan, nhà thờ, lăng mộ..mà ông cho là hiếu nghĩa chứ không gọi là nhân đạọ. Nhưng ông vẫn buồn..
Điều dự đoán trong phim: Hà Nội Trong Mắt Ai, Chuyện Tử Tế, Tiếng Vĩ Cầm Ở Mỹ Lai, Những Người Dân Quê Tôi, Phản Bội.. và hơn hai mươi phim khác của Trần Văn Thủy đạo diễn, viết lời bình từng đoạt hàng chục giải cao trong nước và giải Quốc tế, đã trải dài, loang rộng, như gió lành thổi về, như hạt bụi xuân thấm sâu vào đất, in vào đáy con mắt người xem hơn hai mươi năm, đi qua bao cơ chế, vắt qua hai thế kỷ vẫn còn nguyên tính thời sự. Một bộ phim tài liệu lần đầu tiên bán vé thu tiền, chiếu nhiều buổi ở một điểm vẫn cháy vé khắp Bắc, Trung, Nam thì nó đã đến và ở lại với công chúng rồi. Đạo diễn Trần Thủy đã thuộc về công chúng, theo tôi đấy là một “hiện tượng” điện ảnh rồi. Nhân dân sẽ là người tử tế. Nhân dân rất công bằng trong thẩm định cho dù chỉ bằng một tràng pháo tay đã đủ.
           Lời cuối.
       …Ở nghề nào con đường và sự nghiệp cũng dài xa và chứa đầy gian nan sử sách, trong lộ trình mà các bậc tao nhân tự nguyện dấn thân, có người về đích nhanh, có người đến chậm. Có người thăng hoa sớm, có người long đong vật vã mà vượng khí hào sảng đến đầu hai thứ tóc vẫn thánh thót tài hoa nơi đài các văn chương nghệ thuật. Rõ là: “Thiết thụ khai hoa vãn”. Nơi gốc cây già mà thớ gỗ theo thời gian đã đặc quánh lại, vẫn trào lên dòng nhựa tươi nguyên làm nẩy chồi non và mang sắc hương riêng. Hiện ông đã nghỉ hưu hơn hai chục năm nay, ở tuổi ngoài tám mươi, sức khỏe và nội lực vẫn sung mãn với nghề. Hiện ông đang là giảng viên của không ít trường đại học Điện ảnh Quốc tế, thường có mặt nói chuyện, hội thảo, chia sẻ chuyện nghề với các khóa Đại học điện ảnh trong nước. Nhà văn, nhà giáo, Nghệ Sỹ Nhân Dân, chiến sỹ Trần Văn Thủy là một người đạo diễn NGHỀ như thế.
 
          Nguyễn Bổng
          Hải Tây Hải Hậu Nam Định
           Tháng 9 – 2023.
 

tin tức liên quan