Kỷ niệm sâu sắc chiến đấu trên Trường Sơn

Ngày đăng: 03:11 02/06/2015 Lượt xem: 725

 

     KỶ NIỆM SÂU SẮC CHIẾN ĐẤU TRÊN TRƯỜNG SƠN

                                                              Nguyễn Viết Nhì

 

Đi B lần thứ nhất ngày 02/06/1968, tôi hành  quân đi bộ từ Cẩm Thủy, Thanh Hóa vào Kon Tum mất 4 tháng.

Trên đường hành quân vượt Trường Sơn vào đến Kon Tum tôi bị sốt rét phải đi điều trị từ tháng 10 năm 1968. Ra viện tôi được bổ sung vào đơn vị C5-D33 Công Binh thuộc Binh trạm 32, Đoàn 559, đảm bảo giao thông tại trọng điểm ngầm Ta Lê; đèo Phulanhich. Tháng 6/1969 bị đánh bom B52 rải thảm tôi bị thương nặng và được đưa ra miền Bắc điều trị. Khi lành vết thươddK, tôi lại được bổ sung vào C2, D22 Pháo phòng không 37 ly và lên đường đi B lần thứ 2, đơn vị tôi vừa hành quân vừa chiến đấu vào đến đường mòn Hồ Chí Minh  lại được bổ sung vào Binh trạm 32, Đoàn 559 tiếp tục chiến đấu bảo vệ tuyến đường Trường Sơn.

Cuối năm 1972, đơn vị tôi nhận nhiệm vụ đi tham gia chiến dịch Không Sê Đôn tại Cao Nguyên Bôlôven  tỉnh Păc Soong (Lào). Phối thuộc với sư đoàn 968.  Lần đầu tiên pháo phòng không 37 ly đi theo với bộ binh ta đánh địch.

Sau nhiều ngày chiến đấu ác liệt bảo vệ bộ binh ta chiến đấu

Hôm đó đại đội được lệnh đi đào trận địa mới ở tuyến trước.

Do bị sốt rét không thể đi vào trận địa được, Đại đội cử tôi và đồng chí Lê Văn Toán, hai đồng chí đang sốt rét ở lại bảo vệ 4 khẩu  pháo của đơn vị.

Vào khoảng 11h30 chúng tôi đang thay nhau cảnh giới thì tôi phát hiện thấy nhiều tốp địch đang tiến về phía trận địa ta. Tôi gọi đồng chí Toán lại hội ý chớp nhoáng, đồng chí theo lệnh tôi cho chờ địch vào thật gần rồi mới được bắn.

Chúng tôi chờ địch vào thật gần đến khoảng 15 m, tôi hô “toàn đại đội bắn”. Súng của ta nổ và quân địch cũng hốt hoảng bắn vào trận địa ta như mưa, chúng tôi tập trung bắn tỉa từng tên và tiết kiệm đạn vì mỗi đồng chí chỉ được trang bị có 1 khẩu AK+2 băng đạn, 60 viên. Địch bị đánh bất ngờ nên chúng hoang mang chạy toán loạn. Sau hơn 1 giờ chiến đấu, địch không chiếm được trận địa của ta, chúng đành thu xác đồng bọn rồi rút lui. Đồng chí Toán lại báo cáo với tôi là đã bắn sắp hết đạn đề nghị rút lui về tiểu đoàn để xin chi viện thêm người và vũ khí vì quân địch đông lắm (sau đó chúng tôi mới biết quân địch gồm 1 tiểu đoàn). Tôi nói với đồng chí Toán: - Nếu chúng ta rút thì mất pháo, chúng ta sắp hết đạn rồi mà bị chúng bao vây chặt, chúng ta rút chắc gì đã thoát được. Chúng ta quyết tâm ở lại chiến đấu đến cùng bảo vệ bằng được vũ khí, khí tài. Kiên quyết không để vũ khí rơi vào tay quân địch.  Vừa nói xong quân địch lại tổ chức tấn công, tôi hô đồng chí toán dùng pháo 37 hạ thấp nòng để đánh địch. Tôi và đồng chí Toán mỗi người một khẩu 37 ly hạ thấp nòng một tay quay mâm pháo, một tay ấn cò chỉnh đường đạn tiêu diệt địch (pháo 37 ly là loại pháo phòng không chỉ bắn mục tiêu trên không là chủ yếu).

Theo quy định mỗi khẩu pháo chúng ta phải sử dụng 7 pháo thủ. Trong chiến trường chỉ sử dụng 5 pháo thủ nhưng chúng tôi mỗi người một khẩu, vừa bắn vừa lắp đạn (pháo CX 37 ly là loại pháo bắn đạn khi nổ văng ra rất nhiều mảnh chùm sát thương rất lớn) làm cho quân địch kinh hoàng kéo nhau chay tháo thân ra xa.  Rồi chúng dùng cối 60ly, 81 ly, M79, M72  bắn vào trận địa ta cấp tập. Tôi và đồng chí Toán tạm rút xuống hầm để tránh pháo của địch và chuẩn bị đạn cho trận chiến đấu tiếp. Sau trận mưa đạn cối và lựu pháo quân địch tưởng đã quét sạch được ta, chúng lại tổ chức tấn công ồ ạt. Tôi phân công đồng chí Toán một hướng, tôi một hướng tiếp tục dùng pháo quét quân địch và dùng vũ khí thu được của địch để đánh trả. Do bị thương vong nhiều, quân địch tấn công đến lần thứ 6 không chiếm được trận địa của ta, buộc chúng phải thu xác đồng bọn và rút chạy bỏ lại một số vũ khí và đồ quân dụng.

Vào khoảng 16h trận địa im tiếng súng. Đại đội cử một tổ trinh sát về tìm xác chúng tôi. Khi về đến nơi thấy chúng tôi vẫn còn đầy đủ 2 đồng chí và 4 khẩu pháo chỉ bị hỏng nhẹ, tôi bị thương phần mềm vào đùi phải.

Sau trận chiến  đấu tôi được kết nạp vào Đảng tại trận địa. Đại đội tôi được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang năm 1973.

 Tổng kết chiến dịch tôi đã cùng đơn vị chiến đấu trên 650 trận lớn nhỏ đã cùng đơn vị bắn rơi 45 máy bay các loại bắt sống nhiều phi công Mỹ. Đơn vị tôi được Nhà nước tặng thưởng 32 huân chương các loại.

Đến đầu năm 1975 chúng tôi được lệnh hành quân vòng qua Tây Ninh sang tỉnh Soài Riêng, Campuchia và bổ sung vào trung đoàn 595 -  F377 -  QK7. Tôi còn nhớ vào khoảng ngày 17/04/1975, chúng tôi đang trú quân ở cánh rừng lá nón thì đại đội tổ chức họp công bố lệnh cấp trên: Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn được mang tên “CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH” bắt đầu. Đại đội phát động thi đua quyết tâm cắm cờ trên Dinh Độc Lập. Vinh dự lớn nhất là tôi cùng đơn vị tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh đánh địch ở mũi Tây Nam Sài Gòn. Trên đường tiến quân giải phóng Sài Gòn, đại đội tôi vượt sông Vàm Cỏ Đông đánh vào huyện lỵ  Đức Hòa tỉnh Long An qua xã Mỹ Hạnh, Hậu Nghĩa xuống Cầu Bông. Trên đường tiến công, chúng tôi tiến đến đâu quân địch tan dã đến đó. Chúng cởi quần áo, vứt vũ khí đầy đường để tháo chạy. Và 14h ngày 30/04/1975 tôi đã có mặt tại Bà Quẹo đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng 8, thành phố  Sài Gòn).

Một vinh dự lớn lại đến, ngày 17/5/1975 tôi được tham gia diễu hành mừng Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước Thống nhất, tại Dinh Độc Lập, Tp Sài Gòn. Phấn khởi, tự hào và xúc động khi đội hình pháo phòng không 37 ly tiến qua lễ đài trước Dinh Độc Lập trước rừng người và cờ hoa của đồng bào Miền Nam chào đón. Tôi mừng và vui đến trào nước mắt trong niềm vui trọn vẹn hôm nay. Chúng tôi lại càng nhớ đến Bác Hồ kính yêu và bao đồng đội đã hi sinh vì tổ quốc.

Bác ơi ! Chúng con đã thực hiện trọn vẹn lời ước nguyện thiêng liêng của Người: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”

Hà Nội, ngày 30 tháng 04 năm 2015

 

tin tức liên quan