"Huyền thoại một con đường" - Ký ức Trường Sơn của Hoàng Văn Kính

Ngày đăng: 06:42 05/05/2022 Lượt xem: 347

------------------------------------------------------------
HUYỀN THOẠI MỘT CON ĐƯỜNG *
( Nhân kỉ niệm 63 năm truyền thống bộ đội Trường Sơn )
Hoàng Văn Kính
 
       Trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, có một câu hỏi luôn ám ảnh giới quân sự Mĩ là: làm thế nào để ngăn chặn được sự chi viện từ Miền Bắc vào chiến trường Miền Nam.
       Với đồng bào Miền Nam, sự chi viện đầy đủ, kịp thời sức người, sức của từ Miền Bắc là một nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của mỗi trận đánh nói riêng và toàn cục nói chung.
       Có nhiều con đường để vào Nam, song vận tải bộ vẫn là con đường chủ yếu, quyết định.
       Trước nguy cơ chiến lược “ Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản. Để cứu nguy chế độ Sai-Gòn khỏi nhanh chóng bị sụp đổ, Đế quốc Mĩ buộc phải thay bằng chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ào ạt đưa quân đội với khí tài, phương tiện chiến tranh vào miền Nam. Cùng với đó chúng mở rộng quy mô của cuộc chiến tranh, đánh phá cả ra Miền Bắc. Đặc biệt trên các tuyến giao thông vận tải. Đường 1, đường 12, đường 15…các điểm vượt sông quan trọng: phà Gianh, phà Xuân Sơn, Long Đại, Bến Thủy…đã trở thành những túi bom vô cùng khốc liệt.
       Chiến trường đòi hỏi sự chi viện ngày càng lớn hơn, nhiều hơn và khẩn trương hơn. Thay vì chỉ có 1 cửa khẩu duy nhất đường 12A qua các trọng điểm Khe Ve, Cổng Trời, Mụ Giạ…bị địch khống chế. Vào mùa mưa, lũ về ngập trắng Xeng Phan biến nơi đây thành 1 túi nước. Ngập úng, sình lầy làm ách tắc giao thông kéo dài. Trước tình hình đó, Bộ chính trị đã quyết định mở thêm tuyến đường mới để phá thế độc đạo của đường 12A, rút ngắn cự li vận chuyển từ phía Bắc xuống đường 9. Một quyết định kịp thời, sáng suốt và táo bạo của Đảng ta. 17 giờ ngày 21-01-1966, loạt bộc phá đầu tiên khai hỏa mở màn chiến dịch “ Chọc thủng Trường Sơn - mở đường thắng lợi”. Với một lực lượng hùng hậu gồm: 2 Trung đoàn bộ binh số 10 và số 41, Tổng đội Thanh niên xung phong số 25 với hàng vạn nam, nữ thanh niên tuổi mười tám, đôi mươi của các Tỉnh: Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà nam, Ninh Bình. Sau 77 ngày đêm lao động khẩn trương với 519.280 ngày công, đào đắp 915.913m3 đất đá. Ngày 14-4-1966, 2 mũi thi công từ phía trong ra và từ phía ngoài vào cùng với một lực lượng “ nhảy dù” vào giữa đánh sang 2 bên đã hội tụ trên đỉnh Trường Sơn tại km 65 và tới ngày 5-5-1966 một đoàn xe 14 chiếc chở đầy gạo chính thức khai thông tuyến đường.
       Đường 20-Quyết thắng con đường của tuổi trẻ, của ý chí và quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ có chiều dài 125Km như một sợi chỉ đỏ từ Đông sang Tây vắt qua đỉnh Trường Sơn. Điểm xuất phát từ Phong-Nha Quảng-Bình nối với đường 128B tại ngã ba Lùm Bùm thuộc Huyện Bu- La-Pha, Tỉnh Khăm Muộn (Lào).
       Tuổi trẻ khát khao dâng hiến, chỉ với hai bàn tay, một ý chí thép cùng với cái cuốc, lưỡi xẻng, búa, xà beng và thuốc nổ đã làm nên một kì tích “ Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ”. Để ghi nhận sự hy sinh, cống hiến đó, từ năm 1967 con đường được mang tên: Đường 20 Quyết Thắng.
       Trong số 125 Km đường, có tới gần 40 cây số đi chênh vênh trên lưng chừng núi đá. Nhiều đoạn hẹp chỉ vừa đủ cho bánh xe lăn. Đoạn qua dốc Ba-thang phải xẻ đôi cả một dẫy núi. Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 10 chỉ với búa, xà beng và thuốc nổ, phải mất 15 ngày đêm treo mình trên vách đá đục lỗ, nổ mìn mới đột phá thành công mở toang cánh cửa cho con đường đi qua. Hàng trăm m3 đá hộc qua vai nam, nữ Thanh niên xung phong đổ xuống dòng nước chảy xiết của sông Cà-roòng, A- ki, Ta-lê…để tạo ra đường ngầm chạy dưới mặt nước. Hàng chục quả đồi đất, đá gan gà nối tiếp nhau, được bàn tay nam, nữ TNXP đu mình, xẻ núi từ trên đỉnh xuống với vách Taluy dương dựng đứng cao hàng chục mét, một bên là vực sâu hun hút nhìn xuống là thấy hoa mắt, chóng mặt. Nhiều đoạn uốn lượn, vắt vẻo trên đỉnh Trường Sơn, mây giăng trắng xóa, giữa mùa khô phải đến 10h mới thấy mặt trời, lúc thì lạnh như cắt da thịt, khi thì nóng như lửa nung…
       Đi xuyên qua rừng nguyên sinh. Muỗi, vắt nhiều vô số kể, rình rập, len lỏi cả vào trong giấc ngủ. Sốt rét rừng “ mắt trăng, môi thâm” ghẻ lở, đói khát, thiếu thốn trăm bề, hành hạ bào mòn dần sức lực. Tất cả như đã đến giới hạn cuối cùng của sức chịu đựng. Chỉ có một thứ duy nhất không nao núng là ý chí và nghị lực phi thường của con người. Càng được thử thách, càng thể hiện rõ sự vững vàng, kiên cường không thể khuất phục.
       Ngay từ khi được khai thông và đưa vào sử dụng, với vai trò và vị trí chiến lược, đế quốc Mĩ đã không từ một thủ đoạn nào đánh phá, ngăn chặn sự vận chuyển của ta.
       Các loại phương tiện chiến tranh hiện đaị nhất ở thời điểm đó như: Máy bay phản lực Thần sấm, Con ma, AC130, OV10 đến B52…thường xuyên túc trực không ngớt gầm rú. Chúng đã thi thố mọi hình thức đánh phá như: Đánh bom rải thảm, đánh tọa độ, chỉ thị mục tiêu bằng đạn khói, bổ nhào cắt bom, bắn rốc két… cả ngày và đêm, trong mọi điều kiện thời tiết. Tất cả các các loại bom thông thường như: bom phá, bom phát quang, bom nổ chậm, bom cháy, bom lân tinh, bom bi đến các loại thông minh như bom từ trường, bom Lazes, tên lửa, cây nhiệt đới… Các loại mìn cóc, mìn bướm, mìn lá, mìn dây… đều đã được đem ra sử dụng.
       Sự sống dọc con đường bị hủy diệt bởi hàng ngàn lít chất độc Đioxin, cây cỏ chết khô, đất đá và nguồn nước bị nhiễm độc nặng.
       Trên dọc tuyến đường, có hàng chục vị trí xung yếu trở thành trọng điểm, là những “túi bom”, “ tọa độ lửa” địch tập trung đánh phá. Đấy là những nơi ác liệt nhất, nơi ta phải chịu nhiều tổn thất lớn lao nhât, đồng thời cũng là nơi Bộ đội và TNXP… đã thể hiện rõ nhất chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
       Những địa danh nổi tiếng: Trạ Ang, ngầm Cà-roòng, ngầm A-ki, Chà-là, hệ thống trọng điểm liên hoàn ATP ( cua chữ A, ngầm Ta-lê, đèo Phu-la-nhích) đã thành huyền thoại bất tử. Riêng tại cua chữ A, địch đã đánh phá 3.020 trận. Ngầm Ta-lê và đèo Phu-la-nhích dài 8Km đã bị đánh 10.000 lần. Cũng tại đây, Anh hùng LLVT Nguyễn Thị Vân Liệu và Anh hùng Vũ Tiến Đề đã lập nhiều chiến công xuất sắc, là biểu tượng của một thế hệ Thanh niên chống Mĩ cứu nước. Có những thời điểm ở mùa khô 1971-1972, trong nhiều đêm liền bộ đội ta cả nam lẫn nữ phải thay phiên nhau dầm mình dưới dòng nước lạnh buốt làm 2 hàng cọc tiêu sống chỉ dẫn cho xe qua ngầm trong tiếng gầm rú của máy bay địch, phía trên là pháo sáng trắng trời. Tại Trạ Ang chỉ với chiều dài 5 Km có thời điểm địch đánh phá lên tục 87 ngày đêm, gây tác đương kéo dài. Ta phải dùng sức người chuyển tải xăng. Chỉ riêng 2 ngày cuối tháng 9/1968 để đưa được 30 phuy xăng sang sông đã có 29 cán bộ chiến sỹ hy sinh. Máu hòa với xăng thành biển lửa rực cháy trên mặt sông…
       Ngày 14/11/1972, tại Km 16,5, tám đội viên TNXP tuổi mười tám đôi mươi đã bị bom Mĩ chôn sống trong hang đá. Để tri ân các anh chị, nơi đây đã lập miếu thờ, trở thành địa danh linh thiêng - “Hang 8 cô”…
       Đây là cuộc đối đầu bằng cả ý chí, nghị lực, lòng quả cảm và sự thông minh, sáng tạo. Để phá thế hiểm của ngầm Ta-lê, ta đã mở thêm ngầm B, ngầm C. Bí mật bắc 2 cầu treo bằng dây cáp, dấu kín dưới tán lá cây, cứ đêm đến mới lao dầm ghép mặt cầu. Mở đường kín 20B dài 9 km vòng tránh cua chữ A. Đường kín 20C dài 31 Km vòng tránh cả hệ thống trọng điểm ATP. Khi đường kín bị phát hiện ta lại mở đường tránh 20D dài 22 Km. Đến đầu năm 1969 mở tiếp đường tránh 20E dài 15Km.
      Bất lực trước “ Thiên la, địa võng” đường tránh qua trọng điểm liên hoàn ATP. Mùa khô 1971-1972 địch tập trung đánh trọng điểm Chà-là. Suốt 90 ngày đêm ( từ 10/10/1970 đến 10/1/1971) chúng đã huy động cả ngàn lần chiếc cường kích và 880 lần B52 trút xuống trọng điểm này hàng vạn tấn bom mìn hỗn hợp. Đối phó lại, ta mở đường tránh QZ25 phá thế độc đạo của “chao lửa”.
       Chống lại thủ đoạn đánh phá của AC130 chuyên săn lùng xe bằng tia hồng ngoại, bắn đạn cối “xuyên thùng” ở những cung đường bằng phẳng, ta thực hiện phương châm “Nhất tốc, nhì thông, tam vòng, tứ tránh”, mở rộng, làm phẳng mặt đường, tăng tốc độ xe chạy. Cùng với đó là 22 Km đường K ( đường kín) được ngụy trang cẩn thận, đi dưới tán rừng già cho xe chạy cả ban ngày.
       Rút kinh nghiệm sau mùa vận chuyển 1968-1969, các đơn vị của Tiểu đoàn 33 Công binh đã chuyển toàn bộ lực lượng ra áp sát mặt mặt đường. Cả 3 Trung đội của Đại đội 3 đóng quân chỉ cách trọng điểm ngầm Ta-lê, đèo Phu-la-nhích khoảng 200m. Một hệ thống hầm chữ A kiên cố được làm ngay tại các trọng điểm, lực lượng chốt giữ có mặt thường xuyên 24/24 giờ. Cứ 20-30m lại có 1 hầm trú ẩn. Có đêm ( đầu năm 1973) lực lượng tại chỗ đã ứng cứu hơn 40 chiếc xe cháy trong sự đánh phá điên cuồng của máy bay Mĩ. Nhờ có giải pháp này mà mọi sự cố xẩy ra như: tắc đường, bom mìn, san lấp hố bom, giải cứu xe hàng, cứu chữa Thương binh dù ngày hay đêm đều được xử lí kịp thời.
       Cán bộ, chiến sĩ Đại đội 3, Tiểu đoàn 33 có sáng kiến tạo ra lớp mây nhân tạo bằng vật liệu tại chỗ phủ kín ngầm Ta-lê đã vô hiệu hóa thành công bom Lazes. Anh hùng LLVTND Nguyễn Thị Vân Liệu có sáng kiến phá bom nổ chậm bằng cách đào hố đặt thuốc nổ phía dưới thân quả bom, khi bộc phá nổ hất quả bom lên cao, đồng thời kích bom nổ bảo đảm an toàn cho mặt đường. Tổng đội 25 TNXP có sáng kiến chống lầy bằng “Rong đanh” thay vì bằng đá trong thời kì đầu thông tuyến.
       Nắm vững quy luật đánh phá của địch có nhiều thời điểm ta tổ chức cho xe chạy cả ban ngày. Trong những giây phút hiểm nguy, Anh hùng LLVTND Khúc Văn Lượng đã tự nguyện cho xe lao qua bãi bom từ trường, kích thích cho bom nổ để thông tuyến. Anh hùng Kim Ngọc Quảng bất chấp bom đạn, chạy lấn sáng, lấn chiều vượt cung tăng chuyến trở thành cánh chim đầu đàn trên tuyến vận tải…
       Từ chỗ chỉ là một con đương đơn tuyến với 125Km, đến cuối cuộc chiến tranh đường 20-Quyết thắng đã trở thành một “Trận đồ bát quái” với tổng chiều dài 260 Km. Một thế trận vững chắc, hoàn toàn chủ động để ta đưa hàng vào Nam, làm phá sản mọi thủ đoạn đánh phá của địch.
       Không thể đong đếm hết được những tổn thất và sự hy sinh to lớn của Bộ đội, TNXP… đã mở và ngày đêm bám trụ giữ vững con đường, chăm chút cho từng chuyến xe qua. Những câu khẩu hiệu: “ Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm”; “Tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả để chiến thắng”; “ Máu có thể đổ, nhưng đường không thể tắc”… đã trở thành lẽ sống của tuổi trẻ, là nguồn cổ vũ tinh thần, tạo thành sức mạnh to lớn góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta.
       Trong 7 năm, từ 1966-1973 trên con đường này đã có 8 tập thể và 9 cá nhân được phong tặng và truy tặng danh hiêu Anh hùng LLVT nhân dân. Gồm: Binh trạm 14, Tiểu đoàn cao xạ 224, Tiểu đoàn công binh 33, Tiểu đoàn cao xạ 14, Đại đội 1 Tiểu đoàn 52 xe, Tiểu đoàn xe 781, Đội 25 TNXP, Đội cầu 10 và các chiến sỹ: Nguyễn Thị Vân Liệu, Vũ Tiến Đề, Khúc Văn Lượng, Kim Ngọc Quảng, Nguyễn Phong Lưu, Nguyễn Thị Nhạ, Phùng Văn Lưu, Ngô Xuân Quảng, Nguyễn Văn Tửu.
       Tháng 3/1973, Bộ đội Trường-Sơn vinh dự được đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm. Đứng trên đỉnh đèo Phu-la-nhích Đại tướng đã biểu dương: “… Đường 20 là một kì công, kì tích, kì quan do ý chí vì độc lập tự do của chiến sỹ và Thanh niên xung phong làm nên”.


Hoàng Văn Kính
CTV Trang TT&BT Trường Sơn tại Hà Nội
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn VN
tin tức liên quan