“ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN”
ĐẠI TƯỚNG VĂN TIẾN DŨNG
Chương 5
CÀI THẾ
Tối 30 Tết, chúng tôi nghỉ lại ở Sở chỉ huy Sư đoàn Công binh 470 đóng tại I-a Đrăng. Vài ngày trước, máy bay A.37 của địch ném bom gần chỗ này làm cháy hai xe của ta. Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn bộ vẫn đón Tết đàng hoàng. Khắp nơi trong cơ quan dùng đèn điện có chụp phòng không. Sáng Mồng một Tết, chúng tôi vui Tết và chúc nhau Năm mới lập chiến công mới. Vào tới Tây Nguyên, chúng tôi lập Sở chỉ huy ở phía tây Buôn Ma Thuột, gần Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh Mặt trận. Chỗ chúng tôi ở là rừng xanh, cạnh một rừng khoọc, lá khô rụng, phủ mặt đất như một thảm vàng. Mỗi lần có người đi giẫm lên, lá dưới chân như tấm bánh đa giòn vỡ làm cả một khoảng rừng xào xạc. Ở đây chỉ một tàn lửa nhỏ có thể gây cháy rừng. Vất vả nhất là các chiến sĩ thông tin. Mỗi lần cháy, dây thông tin đứt, anh em đi chữa về người đen nhẻm như vừa ở hầm than ra. Lại còn nạn voi đi từng đàn 40-50 con kéo đứt các mạng dây thông tin mắc đã khá cao vắt qua các cây. Trong cuộc họp với các đồng chí phụ trách Mặt trận, thay mặt Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, theo quyết định, tôi tuyên bố việc thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên gồm các đồng chí: Trung tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh. Đại tá Nguyễn Hiệp (Đặng Vũ Hiệp), Chính uỷ. Thiếu tướng Vũ Lăng và các đại tá Phan Hàm, Nguyễn Lang, Nguyễn Năng, Phó tư lệnh. Đại tá Phí Triệu Hàm, Phó Chính uỷ. Chúng tôi điểm lại tình hình mặt trận. Cho đến lúc này, quân chủ lực địch ở Tây Nguyên vẫn gồm có 1 sư đoàn và 7 liên đoàn biệt động quân (tương đương 10 trung đoàn), 4 thiết đoàn, 8 tiểu đoàn pháo và 1 sư đoàn không quân, tập trung giữ bắc Tây Nguyên là chính. Ở bắc Tây Nguyên, chúng để 8 trung đoàn bộ binh, 4 thiết đoàn, còn ở nam Tây Nguyên chúng chỉ để có 2 trung đoàn bộ binh. Chúng bố trí như thế vì tên Thiếu tướng nguỵ Phạm Văn Phú, chỉ huy Quân khu 2 và Quân đoàn 2, nhận định như sau: nhất định Pleiku sẽ bị đánh vì nó là địa đầu quan trọng nhất của Tây Nguyên, ở đó có Sở chỉ huy Quân đoàn, là bàn đạp thuận tiện để đánh xuống Bình Định, hơn nữa lại gần đường hành lang tiếp tế, gần các căn cứ phía sau của Quân giải phóng. Tên Phú thường bị ám ảnh bởi câu: "Ai làm chủ Tây Nguyên sẽ làm chủ cả miền Nam" và hắn cho rằng đòn quyết định của Quân giải phóng ở Tây Nguyên phải là Pleiku - Kon Tum. Mất Pleiku - Kon Tum thì Buôn Ma Thuột cũng mất. Tuy địch ở Tây Nguyên phải căng ra phòng giữ nhiều mục tiêu, lực lượng cơ động của chúng trong quân khu có hạn, nhưng chúng vẫn có thể huy động một lực lượng nhất định để đối phó với ta bằng cách điều thêm ở Quân khu 1 và Quân khu 3 đến, nếu ở những chiến trường đó ta không thực hiện được đánh phối hợp chặt chẽ với Tây Nguyên hoặc những điều kiện tăng viện của địch để giữ Tây Nguyên vẫn còn. Chúng rất tin vào khả năng cơ động bằng đường không. Lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm các đơn vị chủ lực của Tây Nguyên, của Bộ Tổng tư lệnh, và của Quân khu 5, được chuẩn bị tương đối tốt, có quyết tâm cao và khí thế sôi nổi, được bổ sung quân số tương đối đầy đủ: Nhiều đơn vị quen thuộc chiến trường và có nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Hệ thống đường sá phục vụ việc cơ động trong chiến dịch đã làm xong, bộ đội được tiếp tế về vật chất tương đối tốt, sở chỉ huy các cấp đã lập xong và ổn định. So sánh với địch trên toàn bộ khu vực chiến dịch thì về bộ binh ta không hơn địch nhiều, nhưng, do ta tập trung phần lớn lực lượng trên khu vực chủ yếu của chiến dịch, cho nên trên khu vực này ta đã có được ưu thế so với địch. Về bộ binh, ta 5,5, địch chỉ có l; về xe tăng, xe bọc thép, ta 1,2, địch có 1; về pháo lớn, ta 2,1, địch 1. Tuy nhiên, bộ đội ta vẫn còn một số nhược điểm như trình độ tác chiến tập trung chưa đều, còn ít kinh nghiệm đánh thành phố và tác chiến hợp đồng binh chủng quy mô lớn cũng còn mới đối với một vài binh đoàn. Khi chúng tôi bàn ở Bộ Tư lệnh Mặt trận, mọi người nhanh chóng thống nhất ý kiến về nhiệm vụ và mục tiêu chủ yéu của chiến dịch, nhưng về cách đánh thì mất nhiều thời giờ thảo luận hơn, cuối cùng nhất trí và có những sự phát triển mới. Trong cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968, ta chủ yếu sử dụng lực lượng tinh nhuệ đánh vào tất cả các thành phố và thị xã trong điều kiện so sánh lực lượng quân sự chúng ta còn kém hơn địch, do đó ta không giữ trọn được thành phố, thị xã nào. Năm 1972, ta tiến công trong một tháng tiêụ diệt Sư đoàn 3 nguỵ, giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị đúng vào ngày 1 tháng 5. Sau đó, vào mùa mưa, các chiến trường của ta trên toàn miền Nam giảm hoạt động, địch tập trung các sư đoàn dù, thuỷ quân lục chiến và một số đơn vị khác phản kích với sự chi viện của không quân và hải quân Mỹ để chiếm lại Quảng Trị. Sau những đợt đánh bại liên tiếp các cuộc phản kích của địch và qua 86 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành cổ và thị xã, cuối cùng ta chỉ giữ được phía bắc sông Thạch Hãn. Địch chiếm lại quận Hải Lăng, một phần quận Triệu Phong, Thành cổ và thị xã đổ nát: Lần này ta có rút kinh nghiệm những chiến dịch trước, nhưng chủ yếu là xuất phát từ nhiệm vụ, yêu cầu chiến lược, đặc điểm tình hình ta và điều kiện chiến trường cụ thể. Do đó, cách đánh trong Chiến dịch Tây Nguyên là: Một mặt, phải sử dụng lực lượng tương đối lớn, cỡ trung đoàn và sư đoàn để cắt các đường giao thông số 19, số 14, số 21, tạo ra thế chia cắt địch, về chiến lược tách rời Tây Nguyên với đồng bằng ven biển và về chiến dịch cô lập Buôn Ma Thuột với Pleiku và Pleiku với Kon Tum. Đồng thời tích cực hoạt động nghi binh giam chân địch, thu hút sự chú ý và lực lượng của chúng về phía bắc Tây Nguyên, tạo điều kiện cho ta có thể giữ bí mật bất ngờ ở phía nam cho đến khi nổ súng đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Mặt khác và là mặt chủ yếu, thực hiện trận then chốt mở đầu chiến dịch đánh chiếm Buôn Ma Thuột, bằng cách tổ chức lực lượng đột kích binh chủng hợp thành tương đối mạnh cỡ trung đoàn, không để sẵn ở vị trí xuất phát tiến công mà tập kết từ xa vận động đến, bỏ qua các mục tiêu của địch bảo vệ vòng ngoài, bất ngờ thọc sâu vào bên trong thị xã, phối hợp với các đơn vị đặc công và bộ binh đã bí mật bố trí sẵn từ trước, nhanh chóng tiêu diệt ngay các mục tiêu chỉ huy đầu não và vị trí xung yếu, đánh chiếm vững chắc các bàn đạp bên trong xong, mới từ trong thị xã đánh ra ngoài tiêu diệt những cứ điểm cô lập đã mất chỉ huy, đang hoảng hốt. Trong quá trình đó, nhanh chóng hình thành ngay một lực lượng dự bị binh chủng hợp thành rất mạnh sẵn sàng đánh bại các cuộc phản kích của địch hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột. Riêng kế hoạch đánh thẳng vào thị xã Buôn Ma Thuột, ngay từ đầu chiến dịch không thực hiện được vì khi chúng tôi vào đến mặt trận, các đồng chí tại chỗ đã bố trí lực lượng mạnh từ trước ở quanh Đức Lập tới Đắc Soong rồi, nhằm tiêu diệt địch và giải phóng đoạn đường số 14, mở thông hành lang chỉến lược vào Nam Bộ. Điều động quân trở lại vừa mất thời giờ vừa gây thêm nhiều khó khăn, nhất là về giữ bí mật. Cho nên phải quyết định cứ đánh Đức Lập trước rồi đánh tiếp Buôn Ma Thuột ngay ngày hôm sau, khi đã cô lập Buôn Ma Thuột và triển khai lực lượng cài thế bao vây chặt quanh thị xã này. Chúng tôi tiếp tục nghiên cứu kỹ hơn tình hình thị xã Buôn Ma Thuột. Một cán bộ dẫn đoàn trinh sát đột nhập thị xã Buôn Ma Thuột về báo cáo: "Thị xã này to lắm, to gần như thành phố Hải Phòng". Chúng tôi biết Buôn Ma Thuột không to như Hải Phòng, nhưng là thị xã lớn, bao gồm cả ngoại vi rộng, có nhiều nhà cao, ban đêm đèn nê-ông sáng trưng cho nên anh em đi trinh sát lại càng thấy nó lớn. Một số cơ sở cách mạng trong thị xã được mời ra báo cáo tình hình. Đồng chí Bùi San (Đặng Trần Thi), uỷ viên thường vụ Khu uỷ Khu 5, và đồng chí Huỳnh Văn Mẫn (Cần), Bí thư tỉnh uỷ Đắk Lắk, cũng đến Sở chỉ huy chúng tôi cho, biết tình hình chính trị và phong trào của địa phương, tình hình các cơ sở của ta trong thị xã. Khi gặp đồng chí Võ Chí Công ở Hội nghị Quân uỷ Trung ương ngoài Hà Nội, chúng tôi đã đề nghị Khu 5 cho người đi chuẩn bị trước nắm tình hình để vào Tây Nguyên cùng gặp nhau làm việc cho nhanh. Ta lại vừa bắt được một thám báo của Trung đoàn nguỵ 45, qua khai thác cũng biết thêm được một số tình hình. Trong suốt thời gian chuẩn bị, ta bám sát, nắm vững tình hình đóng quân và chuyển quân của địch từng giờ một. Theo dõi điện đài của địch, chúng tôi bìết bọn chỉ huy của chúng ra lệnh cho trinh sát phải tìm bằng được Sư đoàn 10 của ta. Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh phải giữ kín hơn nữa lực lượng của ta; cán bộ, trinh sát viên có lệnh mới được đi và tiếp tục nghi binh để địch cho rằng Sư đoàn 10 vẫn còn đóng ở phía bắc Tây Nguyên. Suốt mấy ngày liền, địch bắn đại bác quanh khu vực Buôn Ma Thuột yểm trợ cho các toán thám báo, biệt kích hoạt động sâu về phía ta. Máy bay địch ném bom xuống các chốt phòng thủ của ta ở bắc Kon Tum. Máy bay trinh sát địch hàng ngày bay trên Đức Cơ và đông bắc Kon Tum. Chúng lại điều thêm quân tới Pleiku. Tối ngày 25-2-1975, trong một cánh rừng của Đắk Lắk, giữa tiếng đại bác địch bắn cầm canh, chúng tôi và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên họp thông qua phương án đánh chiếm Buôn Ma Thuột gồm phương án đánh địch có tăng cường thêm lực lượng phòng ngự và phương án đánh địch như hiện nay. Tôi thay mặt Bộ Tổng tư lệnh phê chuẩn và ký tên lên bản đồ quyết tâm ghi nhiệm vụ, lực lượng tham gia và các đường tiến quân của ta vào Buôn Ma Thuột, đồng chí Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh, và đồng chí Nguyễn Hiệp, Chính uỷ, ký bên cạnh. Chúng tôi bắt tay nhau, chúc thắng lợi. Tôi phát biểu ý kiến sau khi ký: - Đánh địch bằng cách và vào lúc mà địch không thể nào nghĩ tới, hết sức bất ngờ là nguy hiểm vô cùng cho chúng. Ta phải bằng mọi biện pháp, mọi hình thức, tập trung suy nghĩ ra sức giữ bí mật, bất ngờ để tranh thủ đánh theo phương án địch chưa có tăng cường thêm lực lượng. Nếu địch đã tăng thêm được lực lượng và đề phòng rồi thì ta sẽ đánh theo phương án thứ hai. Như vậy, có thể có khó khăn hơn nhưng nhất định cũng phải thắng. Cho đến nay, địch vẫn chưa nghĩ đến việc ta có thể tổ chức tiến công bằng lực lượng quy mô lớn và cũng chưa biết vào thời gian nào. Phía Buôn Ma Thuột này địch chưa biết rõ lực lượng ta, trừ trường hợp ta di chuyển bị lộ. Trong những ngày tới phải tiếp tục làm cho địch vẫn yên trí hướng tiến công chính của ta là Kon Tum, Pleiku. Vấn đề thời cơ là ở chỗ này. Phải đẩy mạnh hoạt động sắp tới ở Kon Tum và Pleiku để củng cố thêm sai lầm của địch. Bây giờ có mấy vấn đề đặt ra: - Một là, các hình thức đánh vào thị xã lớn và thành phố thế nào? Thời kỳ cuối của chiến tranh cách mạng, trong điều kiện ta đã mạnh hơn địch, nhất định phải thực hiện đánh tiêu diệt lớn và giải phóng thị xã, thành phố, không có con đường nào khác. Vì vậy, cách đánh vào Buôn Ma Thuột, nói về ưu thế thì ta cũng mạnh hơn địch. Ta có gần 3 sư đoàn, địch chỉ có một trung đoàn chủ lực của Sư đoàn 23 và 3 liên đoàn bảo an, cho nên địch yếu, cô lập. Nhưng địch ở trong thị xã rộng, kiến trúc rất phức tạp, có tổ chức phòng ngự sẵn. Đánh vào thị xã lớn, dùng lực lượng lớn hiệp đồng binh chủng cũng lại là mới đối với ta. Đó là những điều cần chú ý. Tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột, ta lấy lực lượng mạnh gấp nhiều lần hơn địch, tổ chức các đội đột kích binh chủng hợp thành mạnh kết hợp với các tiểu đoàn đặc công và bộ binh bí mật triển khai trước, đánh thẳng ngay vào trung tâm thị xã, chiếm hai sân bay, nhanh chóng diệt đầu não chỉ huy của địch rồi mới phát triển trở ra tiêu diệt địch bên ngoài thị xã. Cách đánh này có hai vấn đề khó: một là tổ chức chiến đấu hợp đồng và chỉ huy các cánh thống nhất thời gian và hành động theo kế hoạch, vượt sông, vượt qua được các chốt phòng ngự của địch từ xa đến sát thị xã. Có một điểm nữa là phải giữ được bí mật, làm cho địch bị bất ngờ đến lúc ta nổ súng. Thực hiện được tốt hai vấn đề trên thì địch sẽ bị đánh ngã rất nhanh, không phải từ 7 đến 10 ngày như các đồng chí dự kiến lúc đầu. So sánh lực lượng ở đây cho phép ta không những tiêu diệt được địch, chiếm giữ được thị xã mà còn có lực lượng dự bị mạnh tiêu diệt các đơn vị quân địch tới phản kích, giữ vững thắng lợi và phát triển tiến công, vì cả Tây Nguyên đã bị cô lập với toàn chiến trường miền Nam, chứ không nêng ở Buôn Ma Thuột. Đấy là chưa nói sự phối hợp hoạt động trên các chiến trường khác của ta với Tây Nguyên càng hạn chế khả năng của địch điều động lực lượng lớn tăng viện cho chiến trường Tây Nguyên. Cần nói thêm là, trong các trận chiến đấu, tốt nhất là phá được cơ quan chỉ huy, bắt được chỉ huy đầu sỏ của địch thì giải quyết trận đánh nhanh hơn. Dĩ nhiên, việc đó là khó, vì chỉ huy đầu não của địch bao giờ cũng ở trong sâu và được bảo vệ chắc chắn. Chúng ta đã thảo luận kỹ và nhất trí cách đánh mới, táo bạo, bất ngờ trên cơ sở phân tích tình hình một cách khoa học này. Cũng cần phải thấy trận Buôn Ma Thuột là trận then chốt mở đầu chiến dịch, nhanh chóng đánh ngã địch, tiêu diệt nó, giải phóng và giữ vững thị xã, đánh bại quân địch phản kích và phát triển là những mặt rất gắn bó với nhau không phải riêng cho Buôn Ma Thuột mà là cho cả Chiến dịch Tây Nguyên. Giữ được bất ngờ về mục tiêu, về thời gian, về lực lượng, về cách đánh, cô lập được thị xã rồi lại có sức mạnh hơn hẳn địch mà địch không phát hiện được thì càng bảo đảm cho trận đánh ta tổn thất ít hơn, thắng lợi lại nhanh hơn. Thời gian mùa khô của ta rất quan trọng, không được để phí một ngày, một giờ, phải tranh thủ thời gian để liên tục tiến công, liên tục giành thắng lợi. Tóm lại, đây là cách đánh của ta nhằm tiết kiệm thời gian, nhanh chóng tiêu diệt địch và giải phóng thị xã lớn như Buôn Ma Thuột, tạo ra một biến động trên chiến trường, một cách đánh rất sáng tạo, thể hiện tư tưởng và tình thần tích cực tiến công của quân đội cách mạng. Nó lâ kết quả của quá trình điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng, xem xét mọi vấn đề một cách công phu và khoa học để đi đến một quyết tâm chính xác và thể hiện một nghệ thuật chiến dịch phát triển cao. Thực hiện được quyết tâm nói trên thì ta càng có thêm kinh nghiệm để tiếp tục giải phóng các thị xã khác ở Tây Nguyên như Phú Bổn, Gia Nghĩa, Pleiku, Kon Tum. Hai là, có cách đánh đúng rồi bây giờ phải tổ chức các trận chiến đấu: phải tổ chức cụ thể, chặt chẽ từ trung đoàn, tiểu đoàn đến đơn vị thấp nhất, tổ chức cụ thể cho từng cánh, từng mũi, từng binh chủng, nhất là tổ chức các đơn vị cơ giới đột kích thọc sâu và tổ chức hiệp đồng đánh trong thị xã. Có quyết tâm cao, có tư tưởng mạnh dạn nhưng tổ chức hiệp đồng chiến đấu kém, không chặt chẽ, phân công không rõ ràng thì khi đánh có thể không thắng, dây dưa, bị tiêu hao. Ba là, thực hiện các chính sách: thị xã Buôn Ma Thuột là trung tâm chính trị, kinh tế, dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên, có đồng bào người Thượng, đồng bào Thiên chúa giáo, Tin lành, Phật giáo, lại có những nhà tư sản, các chủ đồn điền, các ngoại kiều sống dưới chủ nghĩa thực dân mới mấy chục năm, cho nên rất phức tạp. Bộ đội vào thị xã phải có thái độ, tác phong đúng, phải chấp hành nghiêm các chính sách và kỷ luật đề ra, giúp đơ cấp uỷ địa phương xây dựng chính quyền cách mạng ở cơ sở, tranh thủ lòng dân và mau chóng ổn định đời sống nhân dân sau khi giải phóng. Bôn là, phải tổ chức quân quản sau khi giải phóng. Có công việc, có cơ quan phải có người đứng đầu, công việc quân quản sẽ rất nhiều, lại mới mẻ, sẽ bàn chuyên vấn đề này với đồng chí Bùi San và Tỉnh uỷ Đắk Lắk, nhưng vấn đề chủ yếu là có tổ chức, có người phụ trách, có quân đội tham gia thì sẽ làm được. Ở đây đồng chí Thượng tá Y Blốc là người dân tộc, vốn có uy tín trong nhân dân, được bà con địa phương yêu mến, kính trọng. Chúng tôi trao đổi ý kiến với Bộ Tư lệnh Khu 5 đề nghị với Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, nếu giải phóng xong thị xã sẽ xin thăng cấp đồng chí Y Blốc lên đại tá và cử làm Chủ tịch Uỷ ban quân quản Buôn Ma Thuột. Năm là, thị xã Buôn Ma Thuột là hậu cứ của Sư đoàn 23, có đủ hậu cứ các trung đoàn, có hệ thống kho lớn, ngoài ra có nhiều xí nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp của tư sản. Phải bảo vệ tốt và đưa các cơ sở hoạt động trở lại. Tổ chức việc này rất phức tạp. Cái gì là tài sản của công phải thu, tài sản của nhân dân không được đụng tới, tài sản của tư sản phải làm theo đúng chính sách. Đồng chí Nguyễn Năng, Phó Tư lệnh, phụ trách về hậu cần, phải giúp địa phương làm việc này. Xe cộ, phương tiện, trang bị vũ khí, phải thu thập. Lương thực, thực phẩm cái gì dùng được cho quân đội, phải giữ và bảo quản tốt. Sáu là cần phải vận dụng kinh nghiệm của Phước Long, sau khi giải phóng có thể sử dụng ngay tù binh bắt được nhất là lính các binh chủng như lái xe hơi, xe tăng, xe bọc thép, pháo binh, xe công trình sửa đường. Thế ta mạnh, ta thắng, ta làm được. Tóm lại, chiến lợi phẩm, tù binh phải hết sức chú ý sử dụng ngay cho chiến đấu, tất nhiên phải cảnh giác, có giám sát. Vấn đề cuối cùng tôi muốn nói với các đồng chí là thời gian để chúng ta bắt đầu đánh Buôn Ma Thuột không còn nhiều: nếu kéo dài công việc chuẩn bị có thể sẽ bị lộ. Phải đánh cho kịp thời gian đã dự kiến, bởi vì các chiến trường khác đều lấy thời gian của ta làm chuẩn để hiệp đồng. Cần thấy rằng nếu địch phải đối phó trên toàn mặt trận miền Nam là điều sẽ rất khó cho chúng. Buôn Ma Thuột là thị xã quan trọng nhất ở Tây Nguyên, nhưng các nơi khác cũng quan trọng đối với địch vì gần Sài Gòn, gần Đà Nắng hơn.
Chương 5 (Còn nữa)