“Đại Thắng Mùa Xuân” - Đại tướng Văn Tiến Dũng (Chương 11)

Ngày đăng: 08:59 28/04/2025 Lượt xem: 5

 “ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN”
ĐẠI TƯỚNG VĂN TIẾN DŨNG
 
Chương 11 
THẦN TỐC

            Nếu bản thân hoạt động chiến tranh đã là sự đấu tranh quyết liệt, một mất một còn thì trận quyết chiến chiến lược cuối cùng bao giờ cũng là đỉnh cao của sự đọ sức giữa hai bên và là sự nỗ lực tột cùng của hai bên từ sự chỉ đạo đến hoạt động thực tiễn. Sáng ngày 31 tháng 3, Bộ Chính trị họp nghe Quân uỷ Trung ương báo cáo tình hình phát triển các cuộc tiến công của quân ta trong ba tuần qua, đặc biệt trong máy ngày gần đây. Bộ Chính trị nhất trí nhận định rằng: tiếp theo thắng lợi của ta ở Khu 9 và miền Đông Nam Bộ giải phóng tỉnh Phước Long, với thắng lợí to lớn trên chiến trường Tây Nguyên, cuộc tổng tiến công chiến lược của ta thực tế đã bắt đầu và trong một thời gian rất ngắn đã giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn. Chúng ta đã tiêu diệt và làm tan rã hơn 35% sinh lực địch, lần đầu tiên diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 2 quân đoàn địch, hơn 40% các binh khí kỹ thuật hiện đại của chúng bị mất; ta thu và phá hơn 40% cơ sở vật chất và hậu cần của quân nguỵ, giải phóng 12 tỉnh, đưa tổng số nhân dân vùng giải phóng lên gần 8 triệu. Điều đáng chú ý là trong trận Đà Nẵng đã xuất hiện rõ nét những nhân tố kết hợp tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng, trong tình hình nhân dân căm phẫn địch cao độ, chỉ chờ cơ hội vùng dậy. Phần lớn sĩ quan và binh lính địch mất hẳn tinh thần chiến đấu. Vì thế, trong hơn 30 giờ kể từ khi nổ súng, với một lực lượng ít hơn địch nhiều, quân và dân ta kịp thời táo bạo tiêu diệt căn cứ quân sự liên hợp lớn vào bậc nhất của nguỵ ở miền Nam. Lực lượng vũ trang của ta lớn mạnh vượt bậc trong chiến đấu, bộ đội hy sinh và bị thương rất ít so với thắng lợi đã giành được, vũ khí, đạn dược tiêu hao không đáng kể. Kinh nghiệm về tổ chức chiến đấu và chỉ huy tác chiến phong phú thêm. Ta thu được của địch một khối lượng rất lớn vũ khí và đạn dược. Về thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo quân địch. Quyền chủ động chiến lược hoàn toàn nằm trong tay quân và dân ta, còn địch thì bị động, lúng túng, thậm chí bế tắc trầm trọng từ chiến lược đến chiến thuật, tinh thần chúng hoang mang dao động. Mỹ tỏ ra hoàn toàn bất lực, dù có tăng thêm viện trợ cũng không thể cứu vãn được sự sụp đổ đến nơi của bọn nguỵ. Do đó, cuộc họp Bộ Chính trị ngày 31 tháng 3 kết luận: "Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu, nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc. Cách mạng nước ta đang phát triển sôi nổi nhất với nhịp độ một ngày bằng 20 năm. Vì vậy Bộ Chính trị quyết định nắm vững hơn nữa thời cơ chiến lược, với tư tưởng chỉ đạo "Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng", có quyết tâm lớn thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất; tốt nhất là trong tháng 4, không thể để chậm. Chắc thắng và bất ngờ hiện nay chủ yếu là khâu tranh thủ thời gian, tiến công địch vào lúc chúng đã hoang mang, suy sụp, tập trung lực lượng hơn nữa vào những mục tiêu chủ yếu trong từng lúc, trên từng hướng. Cần nắm vững nội dung chiến lược của ta là phát huy sức mạnh của ba đòn chiến lược, kết hợp tiến công và nổi dậy, từ ngoài đánh vào và từ trong đánh ra, trên mỗi hướng và từng lúc đều phải tập trung lực lượng áp đảo quân địch, nhanh chóng tạo nên thuận lợi mới và nhanh chóng lợi dụng thời cơ mà dồn dập phát triển thắng lợi. Cần gấp rút tăng thêm lực lượng ở hướng tây Sài Gòn. Nhanh chóng thực hiện nhiệm vụ chia cắt và bao vây chiến lược từ phía tây, áp sát Sài Gòn, triệt hẳn đường số 4, đồng thời nhanh chóng tập trung lực lượng phía đông, đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây cô lập hoàn toàn Sài Gòn từ Bà Rịa, Ô Cấp. Sẵn sàng có nắm đấm thật mạnh của chủ lực, kể cả binh khí kỹ thuật để lúc thời cơ xuất hiện thì tức khắc đánh thẳng vào những mục tiêu hiểm yếu và quan trọng nhất ở ngay trung tâm thành phố Sài Gòn". Nhìn vào tình hình thực tế lúc đó, ai cũng thấy nổi lên hai đặc điểm lớn gần như mâu thuẫn nhau. Đó là sự khẩn trương cao độ của thời cơ chiến lược mới và yêu cầu phải chuẩn bị một lực lượng mạnh về nhiều mặt cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng với một quy mô lớn, trên một địa bàn rộng, theo một cách đánh mới mẻ, độc đáo. Nếu đặc điểm thứ nhất đòi hỏi chúng ta phải hoàn thành việc chuẩn bị trong thời gian càng ngắn càng tốt thì đặc điểm thứ hai lại đòi hỏi một thời gian cần thiết tương đối dài mới đáp ứng cả về khối lượng và về chất lượng trên các mặt. Trong khi đó Mỹ - nguỵ cũng tìm mọi cách lợi dụng tình hình để hòng ngăn cản ta, buộc ta phải kéo dài thời gian chuẩn bị lực lượng đánh vào Sài Gòn - Gia Định. Bộ Chính trị quyết định tập trung chỉ đạo, tập trung lực lượng để giành thắng lợi trong trận quyết chiến lịch sử này. Các quân khu, các địa phương và các cấp chính quyền trong cả nước được lệnh dành ưu tiên số 1 cho mọi nhu cầu của chiến trường trọng điểm. Các cơ quan của Bộ Tổng tư lệnh ngày đêm làm việc, vừa chỉ đạo tốt việc tiếp quản các vùng mới giải phóng, vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược này. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta dốc sức biến quyết tâm chiến lược mới của Bộ Chính trị thành hiện thực. Từ đầu tháng 4-1975, trên tất cả các nẻo đường đất nước - đường bộ, đường sông, đường biển, đường sắt, đường không, nhân dân ta sống những ngày hết sức sôi động, nhộn nhịp. Cả một dân tộc trẩy hội trong mùa Xuân lịch sử. Cả một dân tộc ra quân với khẩu hiệu: "Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng". Quân đi như nước chảy, xe chạy gần như chỉ có một chiều: tiến về phía Nam. Từ miền Bắc, các loại xe ngày đêm hối hả, nối đuôi nhau vượt cung, vượt trạm đưa người và hàng ra tiền tuyến. Vào Đông Hà, một cánh rẽ lên Đông và Tây Trường Sơn, một cánh theo đường số 1 tiến thẳng vào Nam, qua Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, theo bước tiến quân của các đơn vị phía trước. Trên đường Trường Sơn đất đỏ, bụi mù, mùa khô còn lại ngắn ngủi, các dòng xe liên tục đổ về Nam, qua Đức Lập, Bù Gia Mập, xuống Đồng Xoài, Lộc Ninh rồi toả vào các cánh rừng cao su Dầu Tiếng, vào chiến khu Đ, men theo bờ sông Sài Gòn, sông Bé, sông Vàm Cỏ Đông. Lần đầu tiên nhìn thấy dòng thác bộ đội cách mạng chảy qua quê hương mình cả ngày lẫn đêm, thấy bộ đội ta trẻ, khỏe, tươi vui, thấy những cỗ pháo lớn, những dàn tên lửa phòng không, những đoàn xe tăng, xe bọc thép, pháo cao xạ, các xe cầu thuyền, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên dọc đường số 14 vừa được giải phóng rất vui mừng và không giấu được sự ngạc nhiên. Do việc tuyên truyền xuyên tạc, lừa bịp từ lâu của Mỹ-nguỵ, đồng bào trước đây không thể hình dung được bộ đội Cụ Hồ lại có nhiều xe, nhiều pháo đến thế và những chiến sĩ bộ đội trẻ đẹp, hiền hậu, tươi vui như vậy. Thấy xe chở những quả đạn tên lửa chạy qua, đồng bào gọi là "máy bay tháo cánh". Hàng trăm, hàng nghìn xe nối đuôi nhau chạy cả đêm lẫn ngày. Có những đoạn đường bụi mù, nhìn nhau không rõ, xe phải bật đèn pha và bóp còi liên tục, bụi cuốn kéo dài, không kịp lắng xuống đường, lượn khúc qua những cánh rừng rậm Tây Nguyên, qua những vùng đồi cỏ xanh rờn ở Bu Prăng, luồn qua các rừng nứa ở Bù Gia Mập. Trên một đỉnh đèo, nơi gặp nhau giữa hai đường Trường Sơn Đông và Trường Sơn Tây, đồng chí Phùng Thế Tài, Phó Tổng Tham mưu trưởng, cùng các cán bộ của công binh, vận tải, quân cảnh ngày đêm đôn đốc các đơn vị hành quân theo đúng đường, đúng thời gian quy định, giải quyết nhanh chóng các trường hợp ùn xe, tắc đường và quyết định dành đường đi ưu tiên cho từng đơn vị, cho từng loại xe, từng binh chủng. Đồng chí cùng với số cán bộ nói trên làm việc mấy tuần liền như thế, bên tấm biển chữ lớn "Thần tốc, thần tốc, táo bạo, táo bạo nữa" để kéo, đẩy và lái đoàn xe hàng chục nghìn chiếc chở hàng trăm nghìn tấn hàng và hàng nghìn khí tài khác nhau vào chiến trường cho kịp kế hoạch, cố làm xong trước khi mùa mưa đổ xuống Tây Nguyên. Có những chiến sĩ lái xe không biết đấy là đồng chí Phùng Thế Tài nhưng thấy một đồng chí rất tận tuỵ, kiên quyết, nghiêm khắc nhắc nhở, đôn đốc những lúc xe bị tắc, bị ùn đã đặt một câu vè để dặn nhau: Nè, gặp ông thần tốc, Đang đốc hành quân Thì phải nhanh chân Không thì gay đấy, Và cũng từ đó, đồng chí được các chiến sĩ ngoài mặt trận gọi là "ông thần tốc", "ông đốc hành quân". Trên đường số 1, không những chỉ có xe quân sự của ta và xe ta lấy được của địch mà có cả xe chở khách, xe chở hàng của Nhà nước và của nhân dân được huy động từ miền Bắc vào và từ những tỉnh, thành phố vừa được giải phóng. Để kịp phục vụ cho chiến trường sẽ được giải phóng sau cùng của cả nước, Quân khu 5 tổ chức một đoàn xe đặc biệt, chở thẳng vào Nam Bộ những thứ súng đạn cần thiết nhất mà Khu 5 vừa thu được của địch và những thứ của bộ đội ta mà Khu chưa dùng hết khi giải phóng Đà Nẵng và các tỉnh phía Nam. Đoàn xe này do đồng chí Thiếu tướng Võ Thứ, Phó Tư lệnh Quân khu 5, trực tiếp chỉ huy chạy từ đồng bằng Quân khu lên Tây Nguyên rồi đi xuống miền Đông Nam Bộ. Các sân bay Gia Lâm, Vĩnh Phú, Đồng Hới, Phú Bài, Đà Nẵng, Kon Tum nhộn nhịp khác thường. Các loại máy bay lên thẳng nặng, nhẹ, các loại máy bay vận tải và cả máy bay chở khách đặc biệt của ta đều được huy động, không những để chở người, chở đạn, chở vũ khí, chở sách, báo, phim ảnh, tranh vẽ, bản nhạc, mà còn chở hàng tấn bản đồ Sài Gòn - Gia Định vừa mới in xong ở Xưởng đồ bản Bộ Tổng Tham mưu ta tại Hà Nội. Các bến sông Hồng, sông Gianh, sông Mã, sông Hàn, các cảng Hải Phòng, Cửa Hội, Thuận An, Đà Nẵng cũng ngày đêm nhộn nhịp. Các mặt hàng được bốc xếp kịp thời để các đoàn tàu vận tải của Bộ Giao thông vận tải và tàu của Hải quân nhân dân đưa vào phía trong, nối dài đường biển qua các cảng vừa được giải phóng như Quy Nhơn, Cam Ranh. Phải có bằng ấy con đường và phương tiện mới đủ sức vận chuyển thần tốc ra mặt trận một số lượng quân đội và vật chất lớn chưa từng có của cách mạng nước ta. Tất cả sự chịu đựng gian khổ, chắt chiu, tần tảo của nhân dân ta, tất cả sự kiên nhẫn chuẩn bị lực lượng của chúng ta trong nhiều năm như muôn nghìn dòng suối nhỏ hôm nay dồn thành những dòng thác lớn ào ào đổ tới cuốn phăng đi những dinh luỹ cuối cùng của chủ nghĩa thực dân mới trên đất nước ta. Chàng Phù Đổng Việt Nam vươn vai đứng dậy trong năm 1975 có sức mạnh lay trời chuyển đất, và nhảy lên mình ngựa là phi nước đại thần tốc ngay vì hiểu rằng thời cơ là quý giá, thời gian là sức mạnh. Bộ Tổng Tham mưu nắm chắc kế hoạch hành động và lực lượng của chiến trường nhưng cũng nắm chắc tình hình từng kho đạn đặt trong cả nước, chỉ đạo chặt chẽ và đôn đốc ráo riết việc chuyển nhanh các loại đạn đáp ứng kịp thời và đầy đủ mọi yêu cầu của các cánh quân trên Mặt trận Sài Gòn, nhất là đưa đủ đạn cho Quân đoàn 1 và cho Đoàn 232 gồm những sư đoàn và trung đoàn độc lập của Miền và Quân khu 8 hợp lại do đồng chí Trung tướng Tư lệnh Lê Đức Anh và đồng chí Thiếu tướng Chính uỷ Lê Văn Tưởng (Lê Chân) chỉ huy. Lúc bấy giờ vấn đề đạn pháo, đạn ĐKZ, đạn cối và đạn cao xạ là mối quan tâm lớn của toàn Mặt trận. Bộ đội công binh và nhân dân Nam Bộ sừa chữa và mở rộng gấp các đoạn đường Đồng Xoài, Cây Gáo, Bến Bầu, sửa chữa cầu Nha Bích, ngầm Mã Đà, ngầm Bến Bầu, chuẩn bị các đường cơ động cho pháo binh di chuyển áp sát vào Sài Gòn và các đường cơ động cho các lực lượng bộ binh cơ giới thọc sâu vào trung tâm thành phố. Ngày 25 tháng 3, Quân đoàn 1 do đồng chí Thiếu tướng Nguyễn Hoà, Tư lệnh, và đồng chí Thiếu tướng Hoàng Minh Thi, Chính uỷ chỉ huy đang đắp đê ở Ninh Bình thì được lệnh hành quân bằng cơ giới thẩn tốc vào Nam tham gia chiến đấu. Quân đoàn vượt đường số 9, theo các đường số 12, số 15, số 14, qua Pleiku, Buôn Ma Thuột, vượt 1.700km, cuối trung tuần tháng 4 đã đặt chân tới Nam Bộ. Quân đoàn 2 do đồng chí Thiếu tướng Nguyễn Hữu An, Tư lệnh, đồng chí Thiếu tướng Lê Linh, Chính uỷ, chỉ huy, sau khi giải phóng Đà Nẵng bắt đầu hành quân thần tốc theo đường ven biển vào Đông Nam Bộ. Trên chặng đường đài 900km có nhiều cầu bị phá, riêng quãng Đà Nẵng - Quảng Ngãi có tới sáu cầu sập, lại phải đánh địch ở Phan Rang, Phan Thiết trên đường đi vào, mà lệnh trên định rõ trong 18 ngày quân đoàn phải có mặt ở Biên Hoà, Bà Rịa. Tổ chức cho 2.000 xe của quân đoàn vượt qua sáu con sông lớn, chưa kể phải đánh địch trên đường đi, là cả một công tác tổ chức, chỉ huy phức tạp.
(Chương 11 còn nữa)

 
tin tức liên quan