“Đại Thắng Mùa Xuân” - Đại tướng Văn Tiến Dũng (Tiếp theo Chương 11)

Ngày đăng: 06:19 29/04/2025 Lượt xem: 9

 “ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN”
ĐẠI TƯỚNG VĂN TIẾN DŨNG
 
Chương 11 
THẦN TỐC

(Tiếp theo chương 11)
 
         Năm 1962, Sư đoàn 308 diễn tập chỉ có 400 xe đã thấy ùn trên đường không đi nổi. Quân đoàn 2 tổ chức thành từng khối hành quân: công binh đi trước gặp cầu đường hỏng là chữa ngay, xe tăng đi tiếp theo có địch là đánh liền. Mỗi khối hành quân có một trung đoàn pháo cao xạ bảo vệ, bộ binh và pháo binh đi sau. Quân đoàn mang theo một số lượng gạo và thực phẩm đủ ăn trong một tháng và một cơ số đạn đến nơi có thể đánh ngay. Bộ Tổng tư lệnh đã cử các đồng chí Trung tướng Lê Trọng Tấn, Trung tướng Lê Quang Hoà và nhiều cán bộ khác của Bộ đi trước quân đoàn để cùng các địa phương dọc đường nghiên cứu chiến trường và chuẩn bị việc tiếp tế xăng dầu, bổ sung gạo, muối, thực phẩm, cho quân đoàn. Bên đường, nhiều cụ già, nhiều bà mẹ, nhiều cháu thiếu nhi đứng chờ từ lâu đưa nước chè, trái dừa, tấm mía ra tặng bộ đội. Nhưng bộ đội với khẩu hiệu "Thần tốc, táo bạo" dán trên mũ, trên xe, không thể dừng lại một phút để nói chuyện với đồng bào, chỉ kịp vẫy tay, mải miết tiến nhanh ra mặt trận. Ngày 13 tháng 4, Quân đoàn tới sát Phan Rang, nơi địch đang hò hét "tử thủ". Ngày 14 tháng 4, Sư đoàn bộ binh 3 thuộc Quân khu 5 được tăng cường Trung đoàn bộ binh 25 Tây Nguyên nổ súng đánh Phan Rang, cụm phòng thủ tiền tiêu của Quân đoàn 3 nguỵ. Sau hai ngày chiến đấu quyết liệt, quân ta mới chiếm được một số đìểm ngoại vi. Địch dùng máy bay oanh tạc dữ dội, và dựa vào các vị trí chuẩn bị sẵn chống cự quyết liệt. Trước tình hình đó, các đồng chí Lê Trọng Tấn và Lê Quang Hoà chỉ huy cánh quân "Duyên Hải" quyết định sử dụng một bộ phận lực lượng Quân đoàn 2 tiến vào chiến đấu để tăng thêm sức đột kích. Thiếu tướng Nam Long, Phó Giám đốc Học viện quân sự cùng một số cán bộ tham mưu chính trị hậu cần của Bộ Tổng tư lệnh cũng được tăng cường cho Bộ chỉ huy cánh quân này. Rạng ngày 16 tháng 4, dưới sự chi viện mạnh mẽ của hoả lực pháo binh, một lực lượng của Sư đoàn 325 thuộc Quân đoàn 2 được tăng cường xe tăng, thiết giáp cùng với Sư đoàn 3 và Trung đoàn 25 từ ba hướng tiến công vào trung tâm thị xã Phan Rang và sân bay Thành Sơn. Trước sự uy hiếp nặng nề của pháo binh ta và lối đánh thọc sâu táo bạo của các đơn vị thiết giáp kết hợp bộ binh, quân địch hoảng loạn và bỏ chạy. Kết quả là ta đã tiêu diệt bộ tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 không quân, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 2 bộ binh, tiêu diệt Lữ 2 dù, Liên đoàn 31 biệt động quân và 1 trung đoàn của Sư đoàn 2 mới khôi phục, bắt tên Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn 8 và tên Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang Tư lệnh Sư đoàn 6 không quân nguỵ cùng nhiều sĩ quan cao cấp khác của chúng, thu gần 40 máy bay còn nguyên. Địch phát hiện Quân đoân 2 tiến vào Nam theo đường số 1. Chúng tìm mọi cách ngăn chặn. Hết tốp máy bay này đến tốp máy bay khác của chúng đến ném bom xuống đường hành quân của Quân đoàn. Tàu chiến địch từ ngoài biển bắn vào, một đại đội biệt kích địch từ biển đổ bộ vào quận Tuy Phong, phía bắc Phan Thiết. Lập tức bộ binh Quân đoàn 2 và trinh sát lùng quét, chỉ hai giờ sau tóm gọn bọn này. Pháo binh Quân đoàn hạ càng pháo bên đường, hướng nòng pháo ra biển bắn cháy tàu chiến địch. Pháo cao xạ ta đánh trả quyết liệt máy bay địch. Quân đoàn thừa thắng phối hợp với các đơn vị bộ đội Khu 6 tiến đánh Phan Thiết và đánh tiếp giải phóng luôn Hàm Tân. Chúng tôi rời Tây Nguyên lên đường vào Đông Nam Bộ từ trưa ngày 2-4-1975. Trước đó tôi đến thăm Sư đoàn 316 họp với các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Sư đoàn. Đồng chí Đại tá Đàm Văn Nguỵ, Anh hùng lực lượng vũ trang. Sư đoàn trưởng, hôm đó đi kiểm tra bộ đội. Đồng chí Thượng tá Hà Quốc Toản, Chính uỷ và đồng chí Thượng tá Hải Bằng, Phó Tư lệnh Sư đoàn, báo cáo tình hình các mặt đã chuẩn bị để đi làm nhiệm vụ mới. Sư đoàn này sẽ lên đường trước cùng với một bộ phận chỉ huy nhẹ của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3. Nghe các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Sư đoàn báo cáo tình hình và gặp trực tiếp các đơn vị, nhìn các thứ trang bị của Sư đoàn, thấy đơn vị đã lớn mạnh nhanh chóng, tôi rất yên tâm và chỉ thị một số việc phải làm gấp trước ngày hành quân. Cũng ở Sư đoàn này trước khi bước vào Chiến dịch Tây Nguyên, có anh em lo lắng: Chiến trường mới lạ, lần đầu đánh hiệp đồng binh chủng lớn với nhiều loại vũ khí hiện đại, đánh vào một thị xã to, v.v… không biết liệu đánh có được không. Thực tế chứng minh rằng Sư đoàn đã đánh được và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Hôm nay, chuẩn bị lên đường vào Đông Nam Bộ, cả Sư đoàn có khí thế sục sôi, quyết tâm cao, có niềm tin chắc thắng, có đầy đủ các thứ vũ khí cần thiết và đã trưởng thành một bước khá mau. Đường hành quân của Sư đoàn 316 là từ Buôn Ma Thuột theo đường số 14 vào phía tây bắc Sài Gòn. Sư đoàn 320 do đồng chí Đại tá Kim Tuấn, Sư đoàn trưởng, và đồng chí Thượng tá Bùi Huy Bổng, Chính uỷ, chỉ huy sau khi giải phóng Tuy Hoà và toàn tỉnh Phú Yên được lệnh quay trở lại đường số 7 rồi cũng theo đường số 14 vào Đông Nam Bộ. Riêng đối với Sư đoàn 10, dưới sự chỉ huy của Sư đoàn trưởng Thượng tá Hồ Đệ và Chính uỷ Thượng tá Lã Ngọc Châu, đường hành quân vào Nam Bộ hết sức gian khổ. Sau khi giải phóng đèo Phượng Hoàng, Mơ Đrắc, tiến đánh Nha Trang, Cam Ranh, Sư đoàn đi theo con đường liên tỉnh số 2, vào đường số 20 để rồi cùng đi vào tây bắc Sài Gòn. Đường xấu, một đơn vị công binh phải đi trước chữa đường, làm cầu khá vất vả. Trong khi đó địch phát hiện sự di chuyển của Sư đoàn 10. Chúng tìm mọi cách ngăn chặn. Máy bay địch ném bom ác liệt suốt dọc đường, pháo địch ở tàu chiến bắn lên ngăn chặn. Sư đoàn 10 vừa đi vừa đánh mở đường. Đồng chí Đinh Đức Thiện ngày đêm bận vào việc tổ chức hậu cần phục vụ Quân đoàn 3 hành quân và đặc biệt là bảo đảm cho chiến dịch mới. Đồng chí mặc bộ quần áo bà ba đi kiểm tra đôn đốc các kho, các đơn vị. Vào một bãi để xe ở gần Đức Lập, thấy hai người lái xe ăn mặc không chỉnh tề đang sửa xe, đồng chí hỏi: - Này, các cậu thuộc đơn vị nào? Bộ đội chiến thắng mà ăn mặc nhố nhăng, mất tư thế như vậy, hả? Hai người lái xe trả lời: - Thưa anh, chúng em là tù binh đây ạ! Lúc này, trên toàn mặt trận, ở khắp các đơn vị, bộ đội chúng ta đã dùng nhiều người trước đây ở trong quân đội nguỵ để lái và sửa các loại xe. Các chiến sĩ ta đã tranh thủ nghiên cứu, tìm tòi và học sử dụng các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ. Trong đội hình hành quân của ta bắt đầu xen lẫn những xe bọc thép M. 113, xe tăng M. 48, M. 41, những khẩu pháo 105, 155 milimét, những máy thông tin chiến thuật PRC 25 của Mỹ. Đặc biệt là những máy bay chiến đấu A.37, F.5 lấy được của địch đã được các đồng chí lái máy bay chiến đấu của ta chuyển sang tập sử dụng. Khả năng ta lấy của địch đánh địch chưa bao giờ phong phú và giàu có như trong chiến dịch này. Khả lăng to lớn ấy làm cho hoả lực của ta càng áp đảo địch một cách ghê gớm và cũng làm cho tốc độ tiến công của ta càng cao. Đường vào Đông Nam Bộ sau chiến thắng Tây Nguyên có nhiều thay đổi so với trước. Có thể đi theo đường số 14, qua Buôn Ma Thuột, Đức Lập, Bu Prăng, Bù Gia Mập đến Lộc Ninh. Đoạn từ Bu Prăng, Bù Gia Mập khá tốt, xe các loại đều chạy được, gọi là đường số 14 A. Sau khi giải phóng thị xã Gia Nghĩa, toàn tỉnh Quảng Đức, xe các loại có thể đi từ Đức Lập qua Kiến Đức xuống Đôn Luân gặp đường số 13 ở Chơn Thành. Từ Buôn Ma Thuột về đến Lộc Ninh, xe nhỏ chạy chỉ mất hơn một ngày. Trong những năm đầu đánh Mỹ, bộ đội ta hành quân qua vùng này rất gian khổ. Địch thường bắn pháo, máy bay B. 52 ném bom toạ độ, biệt kích thả các loại mìn. Đây còn là một đoạn đường thiếu nước và có nhiều loại muỗi truyền bệnh sốt rét rất nguy hiểm. Nhìn những hố bom chi chít hai bên đường, những xác xe, nòng pháo mang nhãn hiệu Mỹ cong queo, những đám dây thép gai hoen gỉ, vụn nát trên những cứ điểm cũ, chúng tôi nhớ lại những cuộc hành quân "tìm diệt", "vượt biên" của Mỹ và bọn chư hầu bị quân ta đánh cho thất bại vào những năm 1965, 1968, 1970. Trên một số mỏm đồi quang đãng hoặc những bìa rừng cao ráo, còn những nấm mồ đắp đất cao, nơi yên nghỉ cuối cùng của những đồng chí chúng ta. Trên mảnh đất heo hút. ác liệt và gian khổ này, biết bao nhiêu đồng chí, bao nhiêu cán bộ, chiến sĩ yêu quý đã đi trước mở đường và đã hy sinh tại đây để góp phần tạo ra con đường tiến quân vào Nam Bộ rộng thênh thang sạch hết đồn bốt thù, cho chúng tôi hôm nay được bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Chiến công và tinh thần của các đồng chí là tấm gương sáng cho chúng tôi xông vào trận đánh sắp tới và lập công xứng đáng với các đồng chí đã nằm xuống. Mùa Xuân đang về tưng bừng trên những đồi cỏ non ngập nắng. Nhưng rừng cao su chạy tít tắp hàng chục cây số đang thay lá. Trên những cây cổ thụ, hoa phong lan đang nở. Rừng cao su hai bên đường là những bãi trú quân rất tốt, xe vận tải, xe tăng, xe kéo pháo ẩn nấp kín đáo dưới tán lá cây rừng. Dọc theo các bờ suối, bếp kiểu Hoàng Cầm đang hoạt động. Các hàng võng mắc đều đặn trĩu nặng - các chiến sỹ ta đang ngủ sau một đêm hành quân vất vả. Để che giấu những binh khí kỹ thuật và giảm bớt mật độ xe trên đường, từng chặng có những trạm điều chỉnh, trạm kiểm soát, nhắc nhở đội hình hành quân và biện pháp nguỵ trang, báo động máy bay địch. Ở các ngã ba, ngã tư là cả một "rừng" biển chỉ đường của các đơn vị, cơ quan, các cánh quân, đủ kích thước, hình dáng, kiểu chữ, màu sắc. Người ngoài cuộc khó mà biết những biển đó hướng dẫn những gì và hướng dẫn cho ai khi đến đây. Các đường dây điện thoại mắc vội vàng luồn vào trong rừng chạy ngang qua đường. Trên những đường dây đó có biết bao nhiêu nội dung cơ mật liên quan đến trận quyết chiến chiến lược. Cảnh xe, pháo tấp nập hành quân trên đường và trú quân hai bên đường vào Nam Bộ làm cho tôi nhớ đếr n những năm kháng chiến chống quân đội thực dân Pháp vùng sau lưng địch ở đồng bằng Bắc Bộ. Hồi đó tôi cùng với các chiến sĩ trong Đại đoàn Đồng bằng mặc áo nâu, đội nón lá, tay cầm gậy, bấm từng ngón chân trên những đoạn đường trơn lầy trong đội hình một hàng dọc kéo dài "rồng rắn" theo các bờ ruộng, các luỹ tre của vùng Hà Nam, Ninh Bình hoặc ngồi thuyền nan ban đêm vượt qua các "làng tề" trên những cánh đồng Thái Bình, Nam Định, dưới ánh sáng của pháo dù hoặc những tràng đạn địch bắn vu vơ và giữa tiếng sóng đồng vỗ óc ách. Ban ngày, bộ đội phân tán thành từng đơn vị nhỏ vào các thôn xóm có cơ sở kháng chiến, thuyền nhấn chìm xuống nước, tổ chức sẵn sàng chiến đấu, có các anh chị em du kích canh gác và các mẹ lo lắng cơm nước để bộ đội được nghỉ ngơi, tối lại tiếp tục hành quân. Ba mươi năm qua, quân dân ta chứng kiến và trực tiếp tham gia biết bao nhiêu cuộc hành quân vì độc lập và tự do của Tổ quốc. Chưa có ngày nào nhân dân ta, quân đội ta ngừng hành quân. Từ Nam ra Bắc, từ Bắc vào Nam, chiến sĩ và nhân dân ta đi suốt chiều dài đất nước, đi bất cứ đâu Tổ quốc cần, "đâu có giặc là ta cứ đi". Mùa Xuân năm 1975, trong đội hình xe, pháo tiến vào mặt trận Sài Gòn, cũng như trong các làng xóm, bến bãi và chiến hào miền Nam, không thể phân biệt được người Nam, người Bắc, mà chỉ có người Việt Nam xông vào trận đánh cuối cùng chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai, giành lại độc lập, tự do, hoà bình, thống nhất trọn vẹn. Cả nước hành quân thần tốc, cả nước vào trận. Mùa Xuân của đất trời và mùa Xuân của dân tộc quyện vào nhau trong tháng Tư lịch sử năm 1975.

 
tin tức liên quan