“Đại Thắng Mùa Xuân” - Đại tướng Văn Tiến Dũng (Tiếp theo Chương 17.)

Ngày đăng: 05:57 08/05/2025 Lượt xem: 14

 “ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN”
ĐẠI TƯỚNG VĂN TIẾN DŨNG
 
Chương 17 
TOÀN THẮNG
(Tiếp theo Chương 17)

         Có thể nói toàn bộ những cơ sở kinh tế lớn trong nội thành đều được nhân dân chiếm giữ, bảo vệ, giao lại cho cách mạng. Quân ta vào tới đâu, rừng cờ cách mạng hiện ra tới đó, nhân dân đổ ra đường đón mừng bộ đội, không khí rộn rịp, tưng bừng, từ vùng ven đến nội thành, tạo ra khí thế cách mạng sôi nổi hào hùng. Quan trọng hơn nữa, được giúp sức bởi quy mô, cường độ và thắng lợi của đòn quân sự, nhân dân đã dấy lên một phong trào làm binh vận, góp phần thúc đẩy sự tan rã hoàn toàn của hơn nửa triệu quân nguy gồm quân tại chỗ và tàn quân bị đại quân ta đánh vào Sài Gòn. Đồng bào khuyên giải, kêu gọi binh lính nguỵ "cởi áo, tháo giầy, vứt súng" đầu hàng, bỏ ngũ, chỉ nơi lẩn trốn của chúng cho bộ đội ta lùng bắt, giữ gìn trật tự, an toàn trên các đường phố. Như các hãng thông tấn nước ngoài đã thuật lại, ngay khi Dương Văn Minh đang nhậm chức Tổng thống nguỵ, nạn cướp bóc đã lan rộng khắp thành phố, kỷ luật đã tan vỡ hoàn toàn. Hàng ngàn thường dân và lính đào ngũ đã tấn công các kho lương thực, thực phẩm của Mỹ trong những phút cuối của chế độ cũ, cuộc sống cũ. Phương Tây tiên đoán một cuộc "tắm máu" những thành phố bị tan nát, như ở châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ hai, khi Việt cộng vào thành phố. Họ không thể ngờ và không hết ngạc nhiên khi thấy cuộc chiến đã kết thúc "gọn gàng" và "sạch sẽ" đến như vậy. Ngay trong ngày giải phóng, một thành phố đông tới trên ba triệu dân vẫn có điện, nước sinh hoạt bình thường, sinh mạng, của cải của dân chúng được bảo đảm không hề có cảnh "hỗn quân, hỗn quan" như mấy ngày "rã đám" của nguỵ quyền. Quả là một kỳ tích chỉ có thể có khi đại nghĩa dân tộc, chính sách của cách mạng đã di vào lòng người khiến họ vùng lên, giành quyền làm chủ vận mệnh của mình, hoà nhịp với đòn sấm sét của các binh đoàn chủ lực. Đó là gì, nếu không phải là một dạng nổi dậy trong chiến tranh, một nét độc đáo trong thế trận tiến công tổng hợp của chiến tranh cách mạng miền Nam. Sài Gòn và Gia Định được giải phóng tạo điều kiện quyết định bắt Quân đóàn 4 nguy đầu hàng, giải phóng nốt đồng bằng sông Cửu Long. Theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân uỷ trung ương, Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh dự kiến sẽ dùng một bộ phận quân chủ lực và binh khí kỹ thuật tiến về đồng bằng sông Cửu Long tiêu diệt nốt Quân đoàn 4 nguỵ nếu chúng còn ngoan cố chống cự. Nhưng phương án này đã không phải thực hiện vì lực lượng tại chỗ của quân dân hai Khu 8 và 9 đã hoàn thành mục tiêu ấy một cách chủ động và sáng tạo với nhiều hình thức đấu tranh rất phong phú. Ngay từ đầu tháng 4 năm 1975, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền đã ra chỉ thị cho mặt trận đồng bằng sông Cửu Long chuẩn bị gấp cho tổng công kích và tổng khởi nghĩa phối hợp với mặt trận Sài Gòn - Gia Định. Chỉ thị quy định đồng loạt tiến công và nổi dậy từ ngày 29 tháng 4 theo phương châm đã nêu là tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã bằng lực lượng của địa phương mình. Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu 8 và 9 đã tổ chức bốn mặt trận: - Mặt trận cắt đường số4. - Mặt trận vành đai bao vây tiến công Cần Thơ (gồm Bộ Tư lệnh vùng 4 nguỵ và hai sân bay Trà Nóc, Lộ Tẻ). - Tham gia cánh quân phía nam giải phóng Sài Gòn. - Huy động lực lượng vũ trang và quần chúng địa phương nổi dậy tự giải phóng. Quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chia cắt, kìm giữ địch trên khu vực phía nam của chiến dịch, đồng thời đưa lực lượng tiến theo đường số 4 cùng các quân đoàn chủ lực tiến công Sài Gòn. Cánh quân này đến đêm 29 tháng 4 đã tiến đến cầu chữ Y, sang ngày 30 tháng 4 vượt cầu, tham gia đánh chiếm Bộ Tư lệnh cảnh sát nguỵ, Biệt khu Thủ đô, sau đó đánh chiếm khu Nhà Bè. Ngày 30 tháng 4 và mồng 1 tháng 5 cuộc tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn đồng bằng sông Cửu Long đã diễn ra đồng loạt theo kế hoạch với nhịp độ dồn dập, mạnh mẽ, nhận chìm căn cứ cố thủ cuối cùng cũng là niềm hy vọng cuối cùng của địch. Lực lượng địch ở đây có ba sư đoàn 7, 9, 21 với các đơn vị thiết giáp, pháo binh, giang đoàn và bảo an dân vệ cùng với Bộ Tư lệnh không quân nguỵ từ Tân Sơn Nhất chuyển về Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 và Quân khu 4 địch đóng ở Cần Thơ có Sư đoàn 21 địch bảo vệ. Tại đây địch chống cự quyết liệt ở tuyến vòng cung ngoại vi, song tình thế của chúng đã tuyệt vọng. Sư đoàn 4 chủ lực của Quân khu 9 đã đánh chiếm sân bay Trà Nóc, sau đó nhanh chóng tiến vào khu trung tâm thành phố. Lực lượng biệt động phối hợp với quần chúng nổi dậy phá trại giam, giải thoát gần 1.000 cán bộ và đồng bào bị địch giam giữ, chiếm đài phát thanh và làm chủ các phường, khóm. Thiếu tướng nguỵ Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân đoàn 4 kiêm Tư lệnh Quân khu 4 vẫn ngoan cố ra lệnh chống trả mặc dù lúc này Tổng thống nguỵ đã tuyên bố đầu hàng. Đến chiều ngày 30 tháng 4, Nguyễn Khoa Nam triệu tập Chuấn tướng Mạnh Văn Trường - Tư lệnh Sư đoàn 21 nguỵ đến họp để bàn mưu tính kế đối phó với ta. Nhưng dưới sức ép áp đảo của ta, các Trung đoàn 31, 32, 33 nguỵ cùng phần lớn cơ quan chỉ huy Sư đoàn 21 đã tự động vứt bỏ vũ khí cởi áo lính, trốn chạy về nhà. Nguyễn Khoa Nam tự kết liễu đời mình, chỉ còn một số sĩ quan cao cấp nguỵ ở lại xin đầu hàng ta vào lúc 20 giờ cùng ngày. Tại Mỹ Tho, trưa ngày 30 tháng 4 đội biệt động của Thành đoàn thanh niên lao động phát động quần chúng ở một số phường trong thị xã nổi dậy, kêu gọi binh lính, cảnh sát, phòng vệ dân sự nộp súng cho cách mạng. Một số học sinh dùng xe máy, xe lam chạy qua các phố gọi loa báo tin Dương Văn Minh đã đầu hàng. Quân địch ở bến chương Dương xả súng vào các xe này làm một số em hy sinh, bị thương. Đến chiều ngày 30 tháng 4 lực lượng bộ đội địa phương tỉnh phối hợp với lực lượng vũ trang quần chúng tại chỗ chiếm Ty Công an, tiểu khu Định Tường. Trung đoàn 1 (Sư đoàn 8, Quân khu 8 của ta) diệt Thiết đoàn 6 ở Chợ Cũ. Chuẩn tướng nguỵ Trần Văn Hai, Tư lệnh Sư đoàn 7 nguỵ phụ trách bảo vệ Mỹ Tho và căn cứ Đồng Tâm triệu tập bọn sĩ quan thuộc quyền đến họp nhưng thuộc hạ đã lũ lượt bỏ trốn chẳng còn ai. Chán nản và tuyệt vọng, Trần Văn Hai tự sát lúc 3 giờ sáng ngày mồng 1 tháng 5. Sư đoàn 7, sư đoàn mạnh nhất của Quân đoàn 4 nguỵ như vậy là đã bị xoá sổ. Tại Gò Công, ngay từ đầu tháng 4 cán bộ binh vận của ta đã móc nối được với nhiểu cơ sở trong các đơn vị bao an dân vệ nên khi nhận được tin Sài Gòn giải phóng, các lực lượng chính trị của ta đã kịp thời hành động, nổi dậy chiếm thị xã hồi 15 giờ ngày 30-4. Sau đó họ đón hai đại đội địa phương tỉnh về tiếp quản thị xã. Tại Trà Vinh, sáng ngày 30-4 lực lượng vũ trang tỉnh từ nhiều hướng tiến về thị xã phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân bức hàng các đồn bảo an, chiếm sân bay, trận địa pháo binh. Bộ phận còn lại của địch chạy về dinh tỉnh trưởng chống trả quyết liệt. Nhưng trước khí thế áp đảo của cách mạng đến 10 giờ 30 phút cùng ngày chúng đã buộc phải đầu hàng. Đây là tỉnh được giải phóng sớm nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Còn ở Long An, Sư đoàn 9 nguỵ do chuẩn tướng Huỳnh Văn Lạc làm Tư lệnh đảm nhiệm giải toả đường số 4 tại khu vực này. Được tin nguỵ quyền trung ương sụp đổ sĩ quan, binh lính địch trong sư đoàn hoang mang cực độ, mất hết tinh thần, nhất loạt bỏ trốn, toàn tỉnh được giải phóng trong khí thế triều dâng thác đổ của đòn tiến công tổng hợp của cách mạng. Cùng ngày 30-4 lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Sa Đéc được giải phóng. Ngày 1 tháng 5 các tỉnh còn lại: Chương Thiện, Long An, Châu Đốc. Kiến Tường, Bến Tre, Cà Mau lần lượt giành chiến thắng. Bằng lực lượng của bản thân được xây dựng, tôi luyện và trưởng thành qua mấy chục năm liên tục chiến đấu, lực lượng vũ trang và nhân dân vùng đồng bằng sông Cửu Long kết hợp tiến công và nổì dậy, hoà nhịp với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn góp phần hoàn thành sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam Tổ quốc. Thiết tưởng đến đây câu hỏi về nguyên nhân của sự kết thúc "gọn gàng, "sạch sẽ" của cuộc kháng chiến thần thánh đã nhận được lời giải đáp thuyết phục. Chính những cuộc nổi dậy của nhân dân miền Nam dưới những hình thức khác nhau ở hầu khắp các địa phương trong Mùa Xuân 1975 đã góp phần có ý nghĩa quyết định vào "tốc độ thần tốc" của cả trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, cũng như nhịp độ tiến công vũ bão của các binh đoàn chủ lực. Ta cũng bắt đầu đưa xe tăng và pháo binh xuống tàu để cùng hải quân và không quân chuẩn bị tiến đánh đảo Côn Sơn, một trận hiệp đồng hải lục không quân đầu tiên của ta. Nhưng lúc tàu sắp rời bến thì được tin các chiến sĩ yêu nước ở Côn Sơn đã nổi dậy tự giải phóng đảo. Riêng đảo Phú Quốc thì Bộ Tư lệnh Quân khu 9 có kế hoạch tăng cường lực lượng để giải phóng. Các tàu hải quân được lệnh đi đón các chiến sỹ yêu nước trên các đảo vừa thoát khỏi nhà giam địch. Ngày 1 tháng 5, Sở chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh mừng chiến thắng hoàn toàn giải phóng miền Nam và kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Kẹo, bánh, nước ngọt bày trên bàn. Và khi thấy có chai rượu, đồng chí Phạm Hùng ngạc nhiên hỏi rượu ở đâu ra, thì đồng chí Đinh Đức Thiện nói "lộ bí mật": - Hôm nay nhân tiện cũng là kỷ niệm ngày sinh đồng chí Văn Tiến Dũng, rượu này là của "hậu phương" gửi vào cho đồng chí. Tôi cũng đã uống rượu này ngày 1 tháng 5 năm 1972 ở Quảng Trị. Trong cánh rừng mặt trận im tiếng súng báo hiệu thời đại Tổ quốc ta đã sang xuân, đồng chí Phạm Hùng vui vẻ mời mọi người nâng cốc chúc mừng ngày toàn thắng. Vinh quang này thuộc về Chủ tịch Hồ Chí Minh! Vinh quang này thuộc về Đảng anh hùng, về Trung ương Đảng ta, về Bộ Chính trị. Vinh quang này thuộc về các lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng tuyệt vời của cả nước ta. Vinh quang này thuộc về nhân dân vĩ đại và anh hùng cả nước ta. Vinh quang này thuộc về các anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội của Tổ quốc ta. Chúng tôi lên xe đi vào Sài Gòn qua những vùng địa bàn chí cốt với sự nghiệp giải phóng Sài Gòn: Trảng Bàng, Củ Chi và những vùng căn cứ cách mạng lâu năm từ thời dựng Đảng: Hóc Môn, Bà Điểm. Trên đường, trong xóm, ngoài phố, không có biển máu mà chỉ có biển người hớn hở vẫy tay, vẫy cờ đón chào hoà bình và cách mạng. Biển người ấy hoà vào dòng xe của bộ đội dài dằng dặc, tự nó báo tin toàn thắng. Dọc đường còn ngổn ngang quần áo, lon ngù, súng đạn, giày, mũ, xe pháo của nguỵ quân thua trận bỏ lại. Ở đây phơi ra không những vết tích của một lực lượng quân sự bị đánh sập mà còn cả vết tích của một học thuyết chính trị phản động tan vỡ, học thuyết của một bọn đế quốc hợm của và sùng bái vũ khí đến mù quáng. Điều mỉa mai là căn cứ nào, doanh trại nào của địch cũng đắp nổi, sơn vẽ dòng chữ rất to: "Danh dự - Trách nhiệm - Tổ quốc". Cái mà địch không có chúng thường phải hô to nhiều nhất. Đường chính vào Sài Gòn rất tốt, trước địch làm để phục vụ các cuộc hành quân. Các căn cứ, kho tàng địch rộng và lớn. Những nhà ngân hàng, những cư xá Mỹ, những khách sạn, nhiều tầng cao, đồ sộ, quảng cáo cho chủ nghĩa thực dân mới với ngụ ý nó sẽ đứng vững chãi ở đây, nó sẽ đứng lâu dài không thời hạn. Năm 1968, Oétmolen huênh hoang: "Chúng ta (Mỹ) sẽ ở Nam Việt Nam mãi mãi. Bom đạn của chúng ta sẽ chứng minh điều đó". Nhưng sự thật chứng minh đều hoàn toàn ngược lại. Chúng tôi vào Bộ Tổng Tham mưu nguỵ. Ở đây cũng như ở Tổng Nha cảnh sát nguỵ, các hồ sơ tài liệu tối mật của bọn chỉ huy nguỵ vẫn còn. Chiếc máy tính điện tử hiện đại của địch có bộ nhớ tên tuổi, lai lịch từng tên sĩ quan, tên lính trong số hơn một tríệu quân của chúng vẫn còn chạy. Máy tính điện tử Mỹ không thắng trong cuộc chiến tranh này. Trí tuệ và ý chí của dân tộc ta đã toàn thắng. Từ Bộ Tổng Tham mưu nguỵ chúng tôi đến trại David ở sân bay Tân Sơn Nhất. Trong phòng họp báo trước kia của phái đoàn ta, đồng chí Hồ Xuân Anh "đăng cai" cuộc họp đầu tiên của Bộ chỉ huy chiến dịch sau toàn thắng với các Tư lệnh và Chính uỷ các Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232 và Đoàn 559 để giao nhiệm vụ cụ thể cho các binh đoàn phải làm trong thời kỳ quân quản thành phố và phân công tiếp quản các cơ sở quân sự của địch. Mới cách đây 17 ngày, khi giao nhiệm vụ cho từng quân đoàn tiến công vào Sài Gòn và phân công tiếp quản thành phố, chúng tôi chỉ bàn với nhau trên bản đồ. Hôm nay ngồi giữa Sài Gòn đã giải phóng, chúng tôi đã nhìn tận mắt, đến tận nơi để bàn bạc và giao nhiệm vụ "trên thực địa". Có đồng chí thốt lên: "Nhanh quá. Đẹp hơn cả giấc mơ". Ít hôm sau, đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Võ Nguyên Giáp từ Hà Nội đáp máy bay vào Sài Gòn hạ cánh ở sân bay Tân Sơn Nhất. Dưới ánh nắng tháng 5 rực sáng của thành phố Sài Gòn vừa được giải phóng, đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn bước xuống máy bay, tay cầm khăn lau nước mắt. Nhiều năm hoạt động gian khổ trên chiến trường miền Nam, đồng chí hiểu sâu sắc giá trị của chiến thắng vĩ đại hôm nay. Gặp các đồng chí Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Trần Quốc Hoàn, các đồng chí Trung ương Cục và tôi cùng nhiều đồng chí khác ra đón, đồng chí Lê Duẩn ôm hôn thắm thiết, biểu dương việc làm đã qua và nhắc tới nhiều việc quan trọng mới phải làm. Hôm Chủ tịch Tôn Đức Thắng dẫn đầu Đoàn đại biểu miền Bắc vào Thành phố Sài Gòn dự lễ chiến thắng, các đồng chí Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, các đồng chí trong Trung ương Cục, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam Huỳnh Tấn Phát, các vị trong Liên minh các lực lương dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam và nhiều vị khác cùng hàng nghìn nhân dân Sài Gòn đủ lứa tuổi cầm cờ hoa ra đón Bác Tôn tại sân bay Tân Sơn Nhất. Các đồng chí Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt và tôi lại là thành viên của đoàn miền Bắc. Máy bay vừa dừng giữa tiếng reo mừng của nhân dân, chúng tôi lên máy bay đến chỗ Bác Tôn ngồi để chào Bác. Tôi đứng nghiêm báo cáo với Bác Tôn: - Báo cáo đồng chí Chủ tịch nước, các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam. Tôi nghẹn ngào không nói được hơn. Thấy Bác Tôn lại nhớ Bác Hồ. Đất nước quang vinh, miền Nam thân yêu hoàn toàn giải phóng thì lại vắng Bác Hồ. Miền Nam luôn trong trái tim Người. Tôi bỗng nhớ đến một ngày năm 1969, trước khi tôi đi sang một nước xã hội chủ nghĩa anh em, Bác Hồ dặn tôi nhớ đến thăm hai cháu du kích gái quê ở miền Nam, trong đó có cháu Kiện bị địch bắt chặt một chân, đang nằm chữa bệnh ở nước bạn. Tôi về nước và ngày 7- 8-1969, trong bữa cơm chiều với Bác Hồ và Bác Tôn, tôi báo cáo với Bác Hồ tình hình sức khỏe hai cháu, đưa Bác tấm ảnh chụp với hai cháu và đưa thư của hai cháu gửi lên Bác Hồ. Bác tỏ ra yên tâm. Người thường ăn không ngon, ngủ không yên khi đồng bào miền Nam còn đau khổ. Đêm đã qua, trời lại sáng mà đồng bào miền Nam không được đón Bác vào. Nhưng ý chí và tư tưởng của Người sống mãi ngàn thu với dân tộc, với đất nước, và với mỗi con người Việt Nam. Sau lễ chiến thắng trước "Dinh Độc lập" nay trở thành trụ sở Uỷ ban Quân quản thành phố, và mừng kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể các đống chí trong Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh, các cán bộ cao cấp chỉ huy các đơn vị, các cơ quan, các ngành tham gia chiến dịch cùng về Đà Lạt dự Hội nghị sơ kết chiến dịch. Tiết trời Đà Lạt tháng 5 làm nhớ đến Hà Nội sang thu. Tính từ khi Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đến nay vừa tròn 5 tháng. Hội nghị họp tại khách sạn Palace, toà nhà lớn nhất Đà Lạt nhìn xuống hồ Xuân Hương và cả một vùng trung tâm thành phố. Đây là nơi 29 năm trước, trong cuộc đàm phán giữa ta và Pháp, thực dân Pháp ngoan cố đòi tách Nam Bộ khỏi Việt Nam và lập lại ách thống trị cũ dưới một hình thức mới. Hôm nay, tại đây, có đông đủ đại diện các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam, những người đã giành toàn thắng cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, đã giành lại hoà bình, độc lập, thống nhất trọn vẹn cho dân tộc. Anh em đồng chí hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ bên nhau từ mọi hướng chiến dịch, từ mọi mặt trận của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy toàn thắng, người phía trước; người phía sau, lần đầu gặp nhau đông đủ, tay bắt mặt mừng.
(Chương 17 còn nữa)

 
tin tức liên quan