Đừng quên chúng em" - Truyện ngắn của Trương Ngọc Hùng

Ngày đăng: 05:54 12/06/2025 Lượt xem: 52
ĐỪNG QUÊN CHÚNG EM
 
          Lão vô cùng ngạc nhiên khi hàng xóm chạy sang báo, nửa tiếng nữa sang nghe điện thoại. “Lạ thật, không biết ai gọi, lão có quen biết ai ở xa đâu, vả lại, cũng có ai biết số điện thoại của hàng xóm mà điện về?”
          - Chắc ai đó, họ hàng trên thành phố hỏi về ngày giỗ họ.- Vợ lão tham gia.- Chứ mã ông thì ai thèm gọi.
          Có lí. Từ ngày rời quân ngũ, lão chưa một lần bước ra khỏi lũy tre làng. Úp mặt vào vài sào ruộng khoán, lo ngáy ngáy mỗi lần đến kì nộp học phí cho con. Quanh đi quẩn lại, vài thằng cùng hoàn cảnh như lão. Có việc, lếch thếch đạp xe đến, uống với nhau chén nước, hoặc cùng lắm ở lại uống vài chén rượu với những đồ sẵn có, gọi là cây nhà lá vườn.
          - Anh Thuấn ơi! Em Minh đây. Thằng Minh “tồ” ở Pusat đây.
          - Ô. Thì ra là mày. Đang ở đâu? Khỏe không? Mà sao mày biết số điện thoại này? Anh nhớ mày quá.- Lão xổ ra như đại liên vào trận.
          - Em ở Cần Thơ. Em cũng nhớ các anh lắm. Em mời các anh vào chơi. Vào đi anh! Còn mấy người nữa đâu. Quỹ thời gian của anh em mình đang ngắn lại từng ngày.
          Ừ! Cũng phải. Nhưng lấy tiền đâu mà đi? Ra khỏi nhà là tiền, người đi mồm cũng đi theo, có cất ở nhà được đâu. Đành rằng, nó bao hết nhưng cũng phải có tí “dắt lưng”, chả nhẽ cái gì cũng phải ngửa tay. Loanh quanh, đi lại, thở dài thườn thượt, mặt nhăn như táo tầu héo, không khác bị mắc táo bón là mấy.
          - Này! Có gì thì nói ra. Chóng hết cả mặt.- Bà vợ nói.
          - Anh em chiến đấu ở Cam (Campuchia) mời vào thăm lại chiến trường cũ.
          - Ối giời! Trường với chả đoản. Thằng con trời đánh của ông đang gào lên đòi tiền học mà chưa xoay được đây.
          Có thế thật. Lão lại thở dài đến thượt. Cái thời lão 18, đôi mươi... Lão lại chép miệng như cá ngáp. Ý nghĩ vẫn không buông tha lão. Cái thời, đơn vị lão còn đang làm kinh tế. Cũng cuốc ruộng, đào ao, gánh phân, nhổ cỏ, nhưng lão vâm vam lắm, cao một mét bảy lăm, ngót nghét 70 cân. Ngực vồng, cơ bắp cuồn cuộn. Các em túm lại: “Thôi cho anh ở nhà, việc anh, chúng em làm, anh ăn, chúng em nuôi, chỉ cần mỗi tối lần lượt đến với từng em, hết lượt lại quay vòng. Chúng em, đêm đêm, chỉ cần gối đầu lên ngực anh ngủ, cực mấy chúng em cũng chịu được, hoặc giả không bao giờ dậy nữa cũng không sao”. Lão biết, chỉ đùa cho qua những tháng ngày ở vùng biên ải, nắng như thiêu, mưa thối đất. Ăn không đủ no, áo không đủ mặc... Những người con gái vui vẻ, đẹp đẽ ấy, giờ đã nằm sâu dưới ba tấc đất, không kịp biết mùi đàn ông đã bị xé toạc, rách tướp, nứt toác dưới tay bọn đồ tể. Chúng đến vào lúc chả ai nghi ngờ, đến vào lúc ai cũng nghĩ giờ là lúc dồn sức vào xây dựng đất nước sau mấy chục năm chiến tranh tàn phá. Hôm ấy, lão có việc đi thị trấn Tịnh Biên, lúc quay về đã thấy la liệt các em nằm rải rác ở mọi tư thế. Lão nghiến răng, mắt lồi ra, vằn đỏ. Mấy chục năm qua rồi. Lão chưa có điều kiện quay lại để thắp cho các em một nén hương. “Thì cũng tại hoàn cảnh... Giá được đến lại mảnh đất gợi bao nhiêu kỉ niệm hào hùng, đau thương đó, thực hiện lời hứa với các em, dù chỉ một lần thì có “nằm xuống” cũng không ân hận. Tha lỗi cho lão già này nhé...”.- Lão lẩm bẩm.
          - Tiền đây. Ông cầm lấy. Cả một đời trận mạc, về nhà lại chúi mũi, lo cho vợ, cho con. Tôi lại ngăn không cho ông thực hiện một chuyến cuối đời, có họa tôi là người cạn tàu ráo máng.  Ông cứ đi. Rồi đâu sẽ có đó.
          Lão ôm lấy bà. Hình như lâu lắm lão mới làm như thế. Bà rơm rớm nước mắt: “Nỡm ạ. Già cả rồi, người ta cười cho”.
***
          Minh tồ đón ông ở ga Hòa Hưng. Phương phi, sang trọng. Ngồi lên chiếc xe tay lái nghịch. Hơi lạnh tỏa ra mù mịt như sương. Ông rùng mình: “Chả khác gì chiều đông dưới chân Đăngrech”.
          - Sao thế anh Hai, không xài được máy lạnh à?
          - Mày xài sang dữ.- Lão cố ngồi thẳng lưng.
          - Sang gì đâu. Xe bãi, loại dùng cho các nước theo luật giao thông của Anh. Bên Cam bán rẻ như cho. Em mua về xài đỡ. Vài năm. Vứt.
          “Ối giời, nó nói vứt cái xe nhẹ như lão quăng cái áo rách”. Bất giác, nhìn xuống bộ quần áo đẹp nhất của lão- một bộ quân phục tàu tàu. Mấy ngày vạ vật trên tầu, nhăn nhúm, dù trước đó lão đã mượn hàng xóm chiếc bàn là đốt than hiệu con gà có từ thời Pháp, hí húi cả buổi. Lão lại bật ra tiếng thở dài (chả hiểu sao lão lại hay thở dài đến thế).
          - Anh Hai vào đây tắm giặt, nghỉ ngơi. Em đi đón mấy ảnh về, ta đi ăn cơm.- Minh nói xong đi luôn.
          - Ô, thằng Thuấn!
          - Ơ, thằng “trời đánh” còn sống hả?
`         Những cái ô, a. Những cái ôm xiết, vỗ lưng nhau thùm thụp. Nhìn chằm chặp vào mặt nhau, lại ôm ghì, nước mắt rân rấn. Thoáng cái đã hơn chục năm kể từ ngày chia tay nhau ở chân đèo Khỉ. Lão nhìn theo cái xe tải, chở thằng bạn thân nhất của lão, ì ạch, lắc lư bò trên con đường lầy đất. Cái thằng “trời đánh” ấy đã không chịu nghe lời Chanthavy- cô gái Campuchia đang tình cờ có mặt trên chốt của lão. “Đang sốt không được phơi nắng. Nhiễm lạnh sẽ bị viêm phổi, không cứu được đâu”.
          - Chết có số. Trời đánh còn chả chết nữa là.- Nó gân cổ cãi. Đúng là trời đánh nhưng nó không chết thật. Hôm đi tải gạo từ khu năm nhà về, gặp trời mưa, sét đánh vào đội hình, hầu hết bị thương vong, riêng nó không hề gì. Nó tin số nó không thể chết nên vào trận, lao thục mạng. Cũng lạ, đạn dường như tránh nó, mìn cũng kiêng chân nó. Nhờ đó mà nhiều khi chuyển bại thành thắng vì bọn Pốt vốn hay chơi trò mềm nắn rắn buông.
          Hôm ấy, lão cũng ngây ngấy, cũng đang nằm phơi dưới trời nắng, cảm giác da thịt nở căng, nhìn rõ lỗ chân lông đang giãn ra, sâu dần. Những tia mặt trời lách vào từng tế bào, đê mê. Có lẽ phê ma túy cũng chỉ được như thế. Đang mơ màng, lão bị Chanthavy lôi tuột vào:
          - Muốn chết thì thiếu gì cách, mà phải làm như thế này. Nhìn khuôn mặt tái xám, đôi mắt thất thần của cô. Lão biết có chuyện nghiêm trọng, khật khưỡng bước vào nhà, mắt vẫn không rời bóng nắng.
          - Thằng kia, cũng vào đi.- Lão gọi với ra.
          - Cái thằng nhát chết. Cứ để tao nằm xem có việc gì không.
          Khi mặt trời núp sau ngọn núi, gió thổi hun hút, hơi lạnh lùa về. Lão run bần bật, cái lạnh từ trong đưa ra, từ ngoài ùa vào, cuộn cơ thể lão như người ta cuốn bánh tráng. Cũng may lão vào sớm, da chưa căng hết, chân lông còn khít nên chỉ qua một đêm đã cắt được cơn. Trong khi thằng trời đánh vẫn hôn mê. “Phải đưa về trạm phẫu của trung đoàn, may ra còn cứu được, chứ để đây qua ngày chắc chín mươi phần trăm về với tử thần”. Chỉ kịp nghĩ có thế, lão xốc lên vai, chạy một mạch bất chấp vừa mới ốm dậy, gai cào, dây cuốn. Cũng từ hôm đó, bặt tin.
          - Sau hôm ấy mày đi đâu mà mất mặt?- Lão quay sang hỏi.
          - Lúc tao tỉnh dậy, thấy xung quanh một màu trắng toát. Hỏi ra mới biết đang ở quân y Viện 175 thành phố Hồ Chí Minh. Các bác sỹ nói tao hôn mê gần nửa tháng, sống được là sự thần kì. Nếu không “ké” chuyến trực thăng đưa một sếp nào đó về nước thì chắc tao đã thành giun từ lâu rồi. Số tao chưa thể chết. Khỏi bệnh, tao được xuất ngũ vì sức khỏe không bảo đảm. Ngày khoác chiếc ba lô lộn ngược về quê. Bố mẹ cũng không nhận ra vì cái mặt tao chả khác gì quả dưa gang thối cuống. Năm sau, bố mẹ bắt cưới vợ. Thương các cụ thì lấy thôi chứ nhẽo nhèo nhèo, làm ăn được gì đâu. Lấy rồi, lại thương vợ đến thắt lòng. May cô ấy cũng thương mình hết lòng nên tìm mọi cách tẩm bổ. Mãi năm năm sau mới có được thằng cu- hòn vàng, hòn bạc của nhà tao.
          - Còn nhiều thời gian để cho các “bố” tâm sự. Giờ thay đồ rồi đi ăn cơm.- Minh xuất hiện đột ngột.
          Bữa cơm đặc sản Nam bộ, toàn những món thượng hảo hạng nhưng lão không xơi được. “Ừ. Thì vẫn biết là bổ lắm, tốt lắm, khỏe lắm nhưng hàng “hậu vệ” đã thiếu lại lỏng. Hàng “tiền đạo” thì phập phà phập phù, đưa ra đưa vào khi nói, thì nhá sao nổi món gân bò hầm thuốc bắc của mày”.
          - Khổ các ông anh của tôi. Ngày trước, gặm báng búng cả vỏ...
          Lại ngày trước. Cái ngày lão còn chốt chân núi Bà Rá, gần dòng sông Bé.  Đi truy quét cả tuần. Lạc. Hết gạo, hết lương khô, hết ráo trọi, chỉ còn ăm ắp những viên đạn đồng vàng chóe, những trái lựu đạn đen xì, lạnh lẽo. Những thứ đó lại không ăn được. Cố dằn cái đói xuống tận đáy lòng, lão nằm ngửa nhìn trời, vài ba ngôi sao nhấp nháy, lộ qua kẽ lá như những linh hồn cô độc, không biết đi đâu về đâu.
          - Khổ thân các anh!- Thằng Minh nhắc lại điệp khúc. Lúc cần thì chả có mà ăn, lúc có thì không ăn được. Lúc mới về em cũng thế. Chả nghề ngỗng gì, kiếm bữa một, lo bữa hai. Kiếm bữa sáng, lo bữa tối. Có mỗi một nghề mình thạo, là bắn súng thì chả ai thuê. Lang thang ở thành phố Hồ Chí Minh cả năm trời. Tình cờ, biết dưới Hậu Giang có những đầm nuôi tôm bỏ hoang. Em và anh bạn xuống thuê rồi mua đứt, giá rẻ như cho. Trúng luôn vài vụ. Nhưng tiếp theo tôm chết hàng loạt. Nguyên nhân, do ô nhiễm nguồn nước. Nghe nói một công ty của Quân khu ngoài Bắc có chế phẩm làm sạch bằng đá nghiền từ mỏ Kiện Khê, không phải dùng hóa chất. Dùng thử, thấy tốt, nên nhận làm đại lí. Từ đó nhân rộng ra toàn bộ vùng đồng bằng Nam bộ, tiếp đến là thị trường Campuchia. Vừa lúc, nhà nước mở ra theo cơ chế thị trường, em mở công ty. Hàng hóa Tư bản theo chân UNTAC tràn vào Campuchia. Em kiêm thêm mua bán hàng đã qua sử dụng mang về Việt Nam. Một vốn bốn lời. Qua vài nguồn tin biết các anh đang sống khá chật vật, nhưng mong muốn được một lần thăm lại chiến trường xưa, nên tìm cách liên lạc với các anh. Cũng không còn nhiều, chưa đầy chục người nhưng lần này chỉ có hai anh. Anh Bảo nhận lời nhưng đến hôm trót, bị “anh bạn” sốt rét đến “thăm” theo định kì. Lần này có vẻ nặng, phải lên bệnh viện trung ương. Đành bỏ lỡ.
          - Bảo nào? Bảo ... Bảo “dê” phải không?
          - Vâng! Đúng anh Bảo ấy.
          “Chà! Thằng nợ này vẫn còn sống”.- Lão nghĩ. Sở dĩ, có cái tên ghép gợi lên vẻ không đẹp lắm ấy vì bản tính loăng quăng của hắn. Ngày ấy, yêu nhau chưa báo cáo là sai phép, là bất chính. Báo cáo nhưng quá trình tìm hiểu không hợp, thôi nhau bị coi là lăng nhăng. Vô phúc bị ghép vào tội hủ hóa thì coi như xong. Quan hệ trai gái bị nâng lên phạm trù đạo đức. Một khi bị khép vào tội ấy, chả có thằng con trai hay đứa con gái nào dám đến gần. Sự nghiệp cũng vì thế mà đóng lại. Bảo “dê” biết điều đó nhưng phớt lờ. Cứ thấy đàn bà là lao đến và cũng chỉ độc một câu: “Tớ thích đằng ấy...” . Rồi ôm, rồi lôi, rồi kéo... Không biết được mấy lần thành công, hình như thất bại nhiều hơn, nhưng hắn vẫn thế, chẳng lấy làm phiền. Tất nhiên, hắn luôn trong tầm ngắm của cán bộ, bị điều đi những nơi xa nhất, gian khổ nhất, không có đàn bà càng tốt để “tránh hậu họa”. Nhưng không thể không dùng. Hắn đánh trận rất giỏi, thông minh, mưu mẹo... Một hôm đi truy quét, thấy có khói bay lên. Lão cho anh em bí mật tiếp cận. Ở khoảng trống hiếm hoi giữa rừng, một nhóm người Khrme đang túm tụm nướng cái gì đó. Hai thằng lính Pốt cầm súng đi lại canh chừng. Không thể bắn vì rất dễ đạn lạc vào nhóm dân. Lợi dụng hai thằng chú ý vào món nướng, lão dùng kĩ thuật trinh sát tiến sát. “Lớp đai lơn” (Giơ tay lên).- Lão thét. Hai thằng “nhãi” luống cuống buông rơi cả súng.  Gọi là nhãi vì chúng chỉ khoảng 13, 14 tuổi. Tù binh và nhóm người dân được đưa ngay lên trung đoàn. Riêng bà mẹ của cô gái quá yếu không thể đi được nên lão tạm cho lưu trú tại vị trí đóng quân của trung đội lão.
          - Khổ thân các chị (lại khổ thân). Lúc chết không có hạt cơm nào vào bụng. Mỗi lần ăn cái gì đó ngon ngon em lại không thể nào quên được.
          - Về!- Tiếng của thằng “trời đánh” bật ra cụt lủn như tiếng “ục” của bộc phá ném cá.
          - Ơ, đã ăn gì đâu. Em đang gọi món mềm mềm.
          - Về!- Một tiếng “ục” nữa phát ra.
          - Tao không thể quên được cái ngày hôm đó. Chứng kiến từ đầu đến cuối sự việc, hình ảnh ấy ám ảnh tao chắc đến hết cuộc đời.- Thằng trời đánh ngồi dậy, thả thõng chân, cất giọng khàn khàn. Chúng đánh sang khi đơn vị vừa đi làm về, khăn mặt còn vắt vai. Anh nuôi vừa đảo nồi cơm lần cuối. Đạn rít trên đầu ràn rạt, tao kịp nhào vào thùng chứa phân. Chúng dồn mọi người vào sân bóng chuyền. Số nam giới chúng đập chết ngay. Chị em chúng bắt từng người cởi quần áo xếp hàng ngang. Ai dùng tay che phần kín, lập tức bị chém sẻ tay ngay. Đấy mới là màn dạo đầu, tiếp theo thật không thể nào tưởng tượng được. Thà rằng chúng đè ra hiếp từng người, như thế còn ra giống người. Nhưng không. Chúng dùng các loại dụng cụ thô sơ nhặt được đâu đó để làm chuyện đó. Tiếng gào thét đau đớn xen trong tiếng cười khả ố. Trong nhóm ấy có mấy con Pốt nữ. Bọn này còn dã man hơn cả đàn ông, chúng biết chỗ khoét vào nỗi đau nhất của đàn bà, con gái. Nên khi mày đưa con Chanthavy về, tao chỉ muốn đập cho một phát chết ngay. Cũng may, tao bị sốt rét chuyển về sau, chứ không chẳng biết cái gì sẽ xảy ra.
          Không phải lão không nhận ra ánh mắt của thằng “trời đánh”, nhất là lúc Chanthavy kéo lão ra bờ suối, móc một nắm bùn lên đưa sát vào mặt lão:
          - Anh nhìn xem, đây là cái gì?
          - Bùn chứ còn cái gì nữa!
          - Không phải. Anh nhìn kĩ xem.
          - Đúng ra là lá mục, nhưng lá mục thì cũng là bùn.
          - Anh không thấy suối ở đây rất trong, không hề có bất cứ sinh vật nào. Nắm lá mục này cũng thế. Rừng ở đây yên tĩnh đến rợn người, không tiếng chim kêu, thú chạy, không rắn, rết, vắt. Chứng tỏ đây là khu rừng thiêng, nước độc. Không phải chỗ để con người sinh sống. Phải rời khỏi đây tìm chỗ khác.- Chanthavy nói.
          - Cô đùa chắc. Đâu có chuyện thích thì ở, không thích thì đi. Có hiểu thế nào là mệnh lệnh không?
          - Nhưng không thể tắm ở đây, không thể dùng nước này để nấu ăn được.
          Nghe cũng có lí vì chưa đầy nửa tháng đã có mấy người “ra đi” vì bị sốt rét. Lão cũng thấy lạ vì bệnh đó là do muỗi, trong khi không hề có con nào vo ve. Phải một buổi luồn rừng cật lực, dưới sự trợ giúp của Chanthavy mới tìm ra được nguồn nước chảy từ khe đá ra tạo thành con thác nhỏ, vài ba con cá suối đầu to, đuôi nhỏ bơi loăng quăng. Chanthavy xuống tắm. Bộ quần áo ướt, bó sát người lộ ra những đường cong quyến rũ. Sau đó ít ngày, nhân có chuyến xe vào chở hàng, lão gửi mẹ con cô về. 
          - Mày là thằng không có tim.- Người lái xe lão nhờ đưa mẹ con Chanthavy về Phnompenh nói như thét vào tai lão. Lần trước, lên xe nó khóc như mưa, như gió suốt chặng đường. Nó yêu mày như thế mà mày dửng dưng. Nó còn bảo mày khinh nó vì không cùng đẳng cấp với mày. Khôn hồn, lúc nào về được, thì tìm nó. Tao mà biết mày phụ bạc, là tao vặn cổ nghe chưa.
          Khốn nạn! Đẳng cấp gì chứ. Cái thằng đầu binh cuối cán, quân hàm trồi lên, trụt xuống quanh mốc Binh nhất. Chẳng qua là lão sợ. Thằng Bảo biết chuyện “phun” vào mặt lão: “Đồ ngu. Kỉ luật hả? Sỹ quan Thiếu úy, chiến sỹ Binh nhì, hạ vào đâu được nữa. Đưa đi chỗ gian khổ ác liệt hả? Còn chỗ nào khốn khổ hơn chỗ này không? Ăn gì mà ngu thế không biết.” Lão chả còn cơ hội sửa sai, tờ giấy ghi địa chỉ, lão đã lấy ra cuốn thuốc hút. Thôi thì... Hãy để quá khứ ngủ yên.
***
          Lão tần ngần đứng trước một cửa hàng bách hóa lừng lững, án ngữ ngôi biệt thự với vườn cây xanh mát phía sau- mảnh đất, nơi trước kia lão và đồng đội an táng những người con gái bị sát hại.
          - Ông mua gì? Nhiều hàng ngoại lắm. Chúng em mới nhập ở bên Cam về.- Một mụ phốp pháp, mặt ngấn mỡ đon đả.
          - Tôi... tôi muốn hỏi... Đây có phải là nghĩa trang...
          - Nghĩa trang nào. Mắt mụ thoắt đỏ đọc, lồi ra như muốn nhảy khỏi tròng. Vừa sáng ra đã hãm. Cút. Cút ngay. Bọn mày đâu, lôi cổ thằng ăn mày này ra.
          Lão líu ríu, chân nọ đá chân kia, bước ra khỏi cửa còn ngửi thấy mùi giấy báo đốt vía. Lão chưa hết run, ngồi vào quán nước tuềnh toàng xế bên nấp dưới tán cây bàng đơn vị lão trồng, giờ đã xum xuê to cỡ người ôm. Chủ quán là một người đàn ông tàn tật cỡ trên dưới 50 tuổi.
          - Bác uống nước đi. Có việc gì à?
          - Hình như ở đây, trước kia là doanh trại một đơn vị bộ đội?- Lão hỏi ngập ngừng.
          - Đúng rồi nhưng bỏ lâu rồi.
          - Ở chỗ kia là nơi chôn cất những người bộ đội đã hy sinh? Lão lập cập nói như va vào nhau.
          - Hình như thế. Tôi cũng nghe loáng thoáng là khi đào móng ngôi nhà kia...- Chủ quán hất đầu về phía ngôi biệt thự, đôi mắt lộ vẻ e ngại.
          “Thế thì đúng rồi. Trí nhớ chưa đánh lừa lão”. Lão lần mò đi đến nghĩa trang liệt sỹ ở phía cuối con đường. Mặt trời như khoan xuống, phản hắt lên những ngôi mộ trắng toát lóa nắng. Mắt lão hoa lên như muôn vàn con đom đóm bay chấp chới. Sao nhiều thế, dễ đến hàng nghìn ngôi mộ giống nhau y đúc: Một ngôi sao, vài hàng chữ. Nhiều nhất là “Liệt sỹ vô danh”. Bất chợt lão nhớ đến một bài thơ nào đó : “Đừng gọi anh là liệt sỹ vô danh/Anh có tên như bao khuôn mặt khác/Mẹ sinh anh tròn ngày tròn tháng/Cha đặt tên chọn tuổi, chọn mùa.... Bình yên sau cuộc chiến tranh/Anh trở về không tên, không tuổi/Trắng hàng bia những ngôi sao không nói/Rưng rưng cỏ mọc dưới chân”... Đang mơ màng, lão thấy từ những tấm bia các hàng chữ phồng lên, to dần, từ đó bước ra những thanh niên trai tráng, vâm váp, quần áo nửa vàng nửa xanh vì ngấm bùn phèn, mặt trắng như bôi phấn, đôi mắt tròn đỏ như hòn bi ve. Mùi gì lạ lắm, không tanh nhưng lờm lợm, trộn với khói hương lạnh lẽo. Lão rùng mình, nhiệt độ trời phương Nam suýt 40 độ, sao lạnh thế. Lão run bần bật, sợ hãi quay đầu chạy. Những bước chân đuổi theo không bén đất, không tiếng động. Phút chốc lão lọt thỏm trong vòng vây trùng trùng ấy.
          - Ông bạn, đi đâu mà vội thế? Không nhận ra nhau à? Hôm ấy ông bạn ở nhà thì chúng tớ đã có súng, choảng nhau với chúng nó, không phải chết tức tưởi dưới thủ cuốc và dao phay.
          Lão là thủ kho vũ khí. Lão trốn đi thị trấn chơi mang theo cả chìa khóa. Điều mà lão giấu biệt nhưng chỉ giấu được người còn sống. 
          - Ngày xưa ông bạn là thần tượng của các em xinh tươi cơ mà. Giờ sao nhàu nhĩ thế? Hình như cuộc đời cũng không ưu ái cho kẻ đã gián tiếp đưa đến cái chết cho chúng tớ thì phải. Nói ông bạn đừng giận, thà chết như chúng tớ, trẻ trung khỏe mạnh còn hơn sống cuộc đời dằn vặt như ông bạn. Nhỉ”.
          - Thôi các anh. Tha cho anh ấy. Anh ấy cũng đâu có biết hôm ấy chúng tới.- Giọng nói mềm mại, cái mùi gây gây không thể trộn lẫn của đàn bà.
          Thoáng cái. Các bóng dài ra, ngoằn nghoèo, tản ra chui theo ngọn khói hương. Lặng vắng, gió cũng im, nắng cũng lặng im, những ngôi mộ cũng lặng im như người lính nằm chờ đến giờ nổ súng...
          Lao xao: “Anh Thuấn ơi! Còn đứng đó làm gì, lại đây với em.” Lão bật dậy, cuống cuồng, vấp ngã, rồi lại lao đi... Vật xuống ngôi mộ tít tận góc cuối cùng, lão giang tay ôm trọn nấm mồ nhỏ bé, đưa bàn tay gầy guộc, đầy chai lên mặt bia. Lại “Liệt sỹ vô danh”. Sao lại vô danh? Chính tay lão đã lên vùng bảy núi lựa từng hòn đá, tạc những dòng chữ cho tất cả anh chị em trong đơn vị, cơ mà.
          - Họ lén đào, cuốc rồi đưa chúng em ra một bãi trống. Các tấm bia bị dồn lại. Họ bắc làm cầu rửa, như thế cũng còn may, có kẻ còn làm chỗ kê những chỗ bẩn thỉu.- Chừng như hiểu tâm trạng của lão, cô gái thì thầm. Rồi cất tiếng hát, vừa ai oán, vừa não nề: “Đừng gọi em là liệt sỹ vô danh...”. Tiếng gió qua ngọn phi lao vi vút như đệm nhạc. Mặt trời bị che lấp, mây đen sà xuống len qua những dãy mộ trắng. Rồi, những giọng cả nam, cả nữ, ồm ồm, thanh thanh, thé thé: Sao cứ gọi chúng tôi là liệt sỹ vô danh. Tôi có tên như bao người khác... Nghe khắc khoải, đau đớn đến vô cùng.
          - Khi bộ phận quy tập của Tỉnh đội, theo sơ đồ mộ chí đến hỏi chủ căn biệt thự. Họ chối bay chối biến. Chúng em hiện về làm hắn sợ bỏ cả nhà ra thị xã. Chúng em cũng không tha khiến nó phải tự thú và chúng em được quy tập về đây nhưng không còn biết ai vào ai nữa.
          - Em biết nhất định anh sẽ tìm em. Nhưng sao lâu thế, gần hai chục năm rồi. Ôm em đi, ôm chặt vào. Hôn em đi, hôn nhiều vào, bù cho những ngày xa cách, bù cho những năm tháng dại khờ, gồng mình lên để gìn giữ. Mà gìn giữ làm gì? Để cho ai? Của mình cơ mà, tại sao phải sợ? Vẫn biết là như thế nhưng vẫn giữ vẫn gìn, vẫn sợ vẫn hãi. Anh còn nhớ ông cán bộ đội không?- cái ông, lúc nào cũng dán vào mọi hành động của em, nhất là lúc nào đó anh và em đứng tách ra, thì y như rằng sẽ có một mệnh lệnh hay đơn giản là một lời gọi của một người nào đó. Em sợ ánh mắt của ông ấy, nó ám ảnh em suốt ngày, suốt tháng. Ông ấy cũng yêu em và cũng như tất cả mọi người khi ấy không dám thốt ra. Khi bọn Pốt rút đi, ông ấy nức nở ôm lấy em, bất chấp quả M79 chúng găm vào cơ thể em có thể phát nổ bất cứ lúc nào. Tội ông ấy lắm anh ơi! Sau chiến tranh, ông ấy không về quê, tá túc ngay trong thị trấn để ngày rằm, mùng một mang hương hoa đến cắm trên tất cả những ngôi mộ những người lính của đơn vị chúng mình. Ông ấy ngồi rất lâu trước mộ em miệng lẩm bẩm: “Em tha lỗi cho anh, nếu ngày đó anh nói với em hoặc anh không ngăn cản em với thằng Thuấn thì có lẽ em đã cảm nhận được cái hôn của con trai con gái và biết đâu có thể em đã được nếm trải chứ không bị đau đớn, tức tưởi bởi quả đạn M79.” Em đau đớn mỗi lần ông ấy đến, và thật sự cầu mong ông ấy quên đi, đến được với một người đàn bà khác. Nhưng... ông ấy vẫn thế, vẫn đến đây đều đặn và vẫn ngồi bên em suốt sáng...
          -Anh Thuấn! Đến với chúng em đi. Mày nhường anh Thuấn cho chúng tao một lúc.- Tiếng lao xao lại vọng lên từng ngôi mộ.
          - Anh đến với chúng nó đi. Chúng cũng mong anh nhiều lắm.
          Lão ngồi xổm, lại giơ bàn tay nhăn nheo, xoa lên những tấm bia. Dường như không phải gạch, vữa, xi măng mà mềm mại như da, như thịt. Có phải các em đấy không?- những người con gái Thái Bình, Nam Định. Những da, những thịt được hạt lúa, củ khoai, được nước ao, nước giếng, được giọt sữa của mẹ, nước mắt của cha nuôi dưỡng. Vậy mà chúng nó dùng lê, dùng dao rạch nát. Đau lắm không các em? Để nước mắt anh thay dòng nước gột sạch những vết máu đã đọng khô, để thịt da các em lại lành, lại tươi trẻ hồng lên, căng tràn nhựa sống. Lão thì thầm, trước mắt lão hiện lên những cô gái trẻ măng đang bay lên, bay lên như thiên thần đón ánh mặt trời. Lão lết đến từng ngôi mộ. Ngôi nào lão cũng ngồi thật lâu, thì thầm. Mặt trời kéo dần từ Đông sang Tây, lão vẫn mê đi trước hàng bia trắng lóa...
          - Đây rồi! Anh Thuấn! Chúng em tìm anh từ sáng. Mãi mới nghĩ ra, có thể anh đã lên đây. Sao anh không nói với em? Thôi về đi anh. Trời sắp tối rồi.
          - Minh nói đúng đấy. Anh về đi. Anh đã ở với chúng em một ngày rồi.- Tiếng lao xao thoảng qua như tiếng gió. “Đừng quên chúng em. Anh nhé”
          Bước chân lão ngập ngừng, mặt ngoái lại phía sau, lẩm nhẩm: “Anh làm sao có thể quên...”.

Tháng 3 năm 2023
Trương Ngọc Hùng.
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn tại Nam Định 
 

tin tức liên quan