“Bà ngoại tôi với người con Liệt sĩ” - Tản văn Hoàng Minh Đức

Ngày đăng: 03:32 01/08/2025 Lượt xem: 12
BÀ NGOẠI TÔI VỚI NGƯỜI CON LÀ LIỆT SỸ
Tản văn của Hoàng Minh Đức

 
         Có lẽ bà ngoại tôi sinh cậu Chữ lúc đã 47 tuổi nên vóc dáng cậu nhỏ nhắn, không to cao như hai cậu trước. Bù lại cậu có nước da trắng hồng và thổi sáo rất hay. Cậu tôi ra dạy ở xã Quảng Long (huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình cũ).Cậu ra dạy được 2 năm thì dẫn về một cô giáo người bên kia sông ra mắt với gia đình. Ông ngoại tôi không nói gì nhưng bà ngoại tôi cứ kiên quyết bắt cậu phải bỏ cô giáo đó để lấy cô láng giềng, nhà bên cạnh. Dù năm đó sức khỏe chỉ đạt B2 vì không đủ cân nặng nhưng cậu vẫn xung phong đi bộ đội. Cậu nói với bà ngoại: “Trong ba người con trai thì anh Dán bị bệnh, anh Khiêm lại đang làm chủ tịch xã Cự Nẫm, một xã có hai lần anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước. Nhà mình không có ai đi bộ đội cả, lần này đi đánh giặc xong con sẽ về cưới vợ”. 
        Hôm lên đường, cậu ra xóm Bắc tạm biệt mẹ con tôi và cho tôi một chiếc sáo làm từ ống nhiên liệu bằng nhôm của chiếc máy bay F4H bị bắn rơi trên Hòn Léc. Cậu dặn: “Ở nhà, cháu cố mà học cho giỏi. Nếu cậu đánh chưa hết giặc thì đến lượt cháu đó”.
       Vào bộ đội cậu ở Tỉnh đội Quảng Bình, thuộc Quân khu 4 “ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam”. Vào đơn vị được một tháng, cậu viết thư về báo tin đang đóng quân trong nhà ông Niệm, ở xã Vĩnh Sơn, khu vực Vĩnh Linh. Một năm sau, cậu có giấy báo tử về xã. Một buổi chiều có hai anh bộ đội mang về một chiếc ba lô trong có hai bộ quần áo, một chiếc đèn pin và mấy lá thư người bạn gái của cậu. Bà ngoại tôi ngất đi. Bà rất ân hận vì trước đó đã ngăn cản không cho cậu cưới vợ xa nên bây giờ cậu không có đứa con nối dõi.  
       Lúc tỉnh dậy bà khóc không thành tiếng. Bà vật vã suốt một ngày, một đêm.  Hôm sau chẳng nói chẳng rằng bà cùng với bà Chề, (người em dâu thứ ba) vác rìu vào rừng chặt gỗ quốc phòng cho bộ đội làm công sự ở Cửa Gianh và Bến Mới. Lúc đó bà đã 71 tuổi.
       Ba chị em dâu của bà ngoại tôi đều ở xóm Nam, gần cầu Minh Lệ, là trọng điểm bắn phá của máy bay địch. Làng tôi hồi đó hầu như ngày nào cũng bị giặc Mĩ ném bom, ngày nào cũng có người chết. (Sau cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, bà Hoàng Thị Dẹ, nguyên chủ tịch xã Quảng Minh thống kê có 360 người bị chết vì bom. Có trận Mĩ ném bom lân tinh (bom phốt pho) xuống xóm nam làm cháy 320 nóc nhà, chỉ có 2 nhà ở ngoài đồng là không bị cháy). Bà Dưới, người em dâu thứ hai của bà ngoại tôi bị bom chết trong căn hầm gồm mười một người. Bà Chề người em dâu thứ ba có hai người con và ba người cháu bị trúng một quả bom sát thương. Người con gái đầu của bà Chề là người nữ dân quân đêm đêm chèo đò đưa bộ đội qua sông vào binh trạm Cự Nẫm. Có khi dì còn chở hàng hóa quân sự của Binh Trạm 4 lên tận bến Khương Hà, huyện Bố Trạch để xe chở theo đường Trường Sơn ra chiến trường. Một quả bom sát thương rơi xuống sát miệng hầm làm xác năm người bị bay ra giữa ruộng rau muống. Bà Chề đang đi làm ngoài đồng nên thoát chết. Bà Chề chỉ còn lại người con trai duy nhất là cậu Trần Hữu Tuề, vì hai vợ chồng cậu đang chiến đấu bên chiến trường Lào.
         Dồn căm thù lên đôi bàn tay bé nhỏ, bà tôi, bà Chề cùng dân quân xã Quảng Minh chặt “gỗ quốc phòng” cho bộ đội. Hai bà trèo lên mái núi Cột Cầu chặt gỗ nạng hầm phóng xuống dôc bến Sải ầm ầm. Lúc đầy thuyền bà lại cùng bà Chề chở gỗ xuống giao cho bộ đội ở Bến Mới. Bà ngoại tôi lúc ây khỏe lắm. Bà quên cả tuổi 71 đi rừng chặt gỗ như thanh niên. Lúc đó tôi đã lớn  (học lớp 8 trường cấp 3 Nam Quảng Trạch) nhưng không sao vác nổi cột nạng hầm của bà.
Năm 1973, giặc Mĩ làm lễ cuốn cờ về nước. Miền Bắc tạm yên tiếng súng. Bà ngoại cùng bố tôi (bố tôi lúc đó là Bí thư Đảng ủy trường sư phạm (10+3) Quảng Bình) vào Vĩnh Linh gặp ông Niệm để hỏi han tình hình. Ông Niệm cho biết trong bốn người đóng quân ở nhà ông thì chỉ còn ba người sống sót trở về. Đó là đồng chí đại đội trưởng, chiến sĩ bộ đàm 5 w và chiến sĩ cần vụ. Ông Niệm nói lúc còn sống, cậu tôi có gửi một chiếc đồng hồ sứt quai nhờ ông Niệm cất giữ hộ. Đêm vượt sông Bến Hải sang bờ nam đánh giặc cậu cầm theo để coi giờ nổ súng. Thấy chỉ có ba người trở về lại lặng thinh không nói năng gì, ông Niệm liền hỏi chiến sĩ cần vụ thì mới biết cả đơn vị sa vào ổ phục kích của địch bên Dốc Miếu. Cả đơn vị bị pháo và xe tăng địch đánh vào giữa đội hình. Bên kia sông Bến Hải là hàng rào điện tử McNamara được địch xây dựng kiên cố từ trước.
        Miền Nam hoàn toàn giải phóng, bà ngoại tôi cùng cậu Trần Minh  Khiêm, bố tôi và con cháu nhiều lần vào Huyện đội Bến Hải, Tỉnh đội Quảng Trị (cũ) để tìm hài cốt. Đã bao lần kiếm tìm vô vọng, cậu trở về nghĩa trang liệt sĩ của xã trong một ngôi mộ gió. Trước khi qua đời bà ngoại tôi vẫn dằn vạt băn khoăn chưa đưa được hài cốt cậu Trần Quang Chữ trở về quê hương.
       Nay, sau bao lần tách nhập tỉnh, hai tỉnh từng bị chia cắt, hứng chịu nhiều đau thương mất mát nhất miền Trung trong chiến tranh lại trở về bên nhau. Tôi thầm gọi: “Bà ơi! Nay Quảng Bình và Quảng Trị đã sáp nhập lại rồi, các cháu càng có điều kiện hơn để đi tìm cậu. Bà cứ yên giấc ngàn thu bà nhé, dù không tìm được nhưng dù ở nơi nào cậu cũng nằm trong lòng đất mẹ Việt Nam”.
 
Hoàng Minh Đức
Xóm 2, thôn Bắc  Minh Lệ, xã Nam Gianh tỉnh Quảng Trị.
Điện thoại: 0379872648.

tin tức liên quan