NƯỚC MẮT NGƯỜI LÍNH
Truyện ngắn của Hoàng Minh Đức
Ngày hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị sáp nhập, Đoàn Cựu chiến binh Trường Sơn chúng tôi tổ chức cho hội viên đi thăm lại chiến trường xưa. Thăm những địa danh như Hang Tám Cô, trọng điểm Trạ Ang, A-T-P, Dốc Ba Thang... đã đi vào huyền thoại.
Điểm đầu tiên đoàn đặt chân đến là Hang Chỉ Huy của Binh trạm 14, trên tuyến đường 20 Quyết Thắng. Con đường huyết mạch nối đông Trường Sơn với tây Trường Sơn. Nơi đây có một cái hang bí mật nằm giữa đại ngàn Trường Sơn, chỉ đạo từng đoàn quân ra trận. Hang Chỉ Huy là nơi tiếp nhận và vận chuyển hàng nghìn tấn hàng hóa, vũ khí, lương thực chi viện cho chiến trường miền Nam. Hang có chiều dài 150m, gồm 7 tầng rộng lớn, được cải tạo thành kho chứa vũ khí, khí tài. Cô hướng dẫn viên giới thiệu các hiện vật của Bộ đội, Thanh niên xung phong, Dân công hỏa tuyến dùng trong những năm chống Mĩ.
Đoàn ăn cơm trưa xong thì cơn mưa ập đến. Nhẹ nhàng thôi nhưng nếu ai không có áo mưa thì đều bị ướt hết. Tháng bảy mưa ngâu nên một lúc sau trời tạnh ráo như chưa có gì xảy ra. Rừng lào thào, lá cây bay xào xạc. Mặt trời ló ra trên tán lá. Chúng tôi kéo nhau vào lều trải bạt giữa nền gạch hoa nằm nghỉ. Tôi cũng nhắm mắt liu riu, mơ màng. Một số đồng đội không ngủ được nằm nói chuyện.
Đang nằm, Nhung ú ớ la lên rồi vùng chạy. Anh bị mộng du, chạy như ma đuổi. Mọi người chạy theo anh nhưng không kịp. Anh la to: “Các đồng chí ơi, chúng tôi đang ở nơi đây”. Nhung băng rừng chạy ào ào đến một tảng đá lớn. Đó là một khối đá vôi nặng hàng trăm tấn rơi xuống dưới chân một hòn lèn. Anh chạy đến gục đầu vào vách đá. “Các đồng chí biết không? Chúng tôi nằm ở đây hơn nửa thế kỷ rồi. Bọn Mĩ không để chúng tôi yên. Bom B52 đã đào mộ chúng tôi lên lần này đến lần khác”.
*
* *
Hồi đánh Mĩ, chính xác hơn là cách đây đúng 55 năm, Nhung là lính lái xe Zil 130 thuộc Đoàn 559. Loại xe này có trọng tải đến 12 tấn. Lúc này chiến trường miền Nam đang cần nhiều nhân sự, khí tài, vật lực bù đắp cho những tổn thất sau trận Mậu Thân 1968. Năm 1970, đường tây Trường Sơn đã vươn ra dài ra các chiến trường, chọc thẳng đến Lộc Ninh. Tới đầu tháng 10, tưởng “trời” đã buông tha nhưng bất thần cơn bão số 9, số 10 liên tiếp ập vào gây mưa lớn kèm lũ quét dọc theo khu vực cửa khẩu. Đường vận tải trên toàn tuyến ách tắc. Theo phán đoán của ta, địch có thể tổ chức một cuộc hành quân cắt tuyến chi viện chiến lược với các binh đoàn thiện chiến gồm quân ngụy Sài Gòn, Lào, Thái, cộng với chỉ huy, hỏa lực và hậu cần của Mỹ. Lệnh của Bộ Tư lệnh Trường Sơn phải tranh thủ dồn hàng vào phía nam đường 9.
Đúng như dự đoán của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, ngày 30 tháng 1 năm 1971, Mĩ - ngụy bắt đầu đổ quân xuống đường 9 - Nam Lào, mở màn cuộc hành binh đại quy mô được mang mật danh “Lam Sơn - 719”. Theo lệnh của trên, Bộ đội Trường Sơn phải cung cấp 2.000 quả đạn pháo lớn, 1.000 tấn đạn và lương thực cho hướng chủ yếu. Đơn vị Nhung đã chạy suốt ngày lẫn đêm. Cuối cùng Binh trạm 9 và Binh trạm 27 đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cung cấp vượt mức đạn dược cho chiến trường. Ngày 12 tháng 3 pháo binh ta bắn cấp tập mở màn giai đoạn chuyển sang tấn công trên toàn mặt trận. Với thế trận đã bày sẵn, quân địch lọt vào giữa vòng vây tử thần. Bị phản công bất ngờ, đội hình chúng rối loạn. Lưới lửa phòng không tầm thấp tầm cao của quân giải phóng dày đặc, chờ sẵn, máy bay trực thăng và phản lực rơi rụng đầy trời. Bộ binh ta dũng mãnh xông lên, áp sát vào bãi đổ quân của địch để giảm thiểu thương vong do bom B52 ném xuống. Mĩ ngụy phải vứt bỏ xe pháo, khí tài chạy thục mạng khỏi đường số 9 hòng thoát thân. Ở các điểm cao chúng phải triệt thoái bằng trực thăng vận. Các cổ pháo phòng không chờ khi trực thăng bốc lên khỏi mặt đất mới khai hỏa. Lính thủy quân lục chiến, niềm kiêu hãnh của quân lực Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ đã bị đánh bại. Ngày 23 tháng 3 năm 1971, chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi.
Khi tiếng súng trên chiến trường đường 9 tạm im thì địch tập trung máy bay đánh phá toàn tuyến vận tải Trường Sơn. Máy bay AC.130 túc trực suốt ngày đêm trên tuyến đường Hồ Chí Minh. AC.130 là loại máy bay có thể phát hiện được ô tô đang hoạt động trong đêm tối. Tầm hoạt động của chúng trên 3 cây số, chủ yếu bắn tên lửa tầm ngắn và đạn 40 ly, gây sát thương trên diện rộng. Đội hình xe đang chạy mà gặp AC.130 dù tắt hết đèn gầm cũng bị phát hiện. Đây là loại máy bay được trang bị ra đa hồng ngoại. Pháo cao xạ 37 ly của ta ở chốt trọng điểm gần như bị vô hiệu hóa. Hôm giao hàng xong đại đội quay trở ra thì bị máy bay địch phát hiện. Chúng bắn trúng ngay chiếc xe cuối đoàn. Đồng chí đại đội trưởng lái chiếc đi đầu chạy đến ngã rẽ, anh liền bật đèn pha sáng trưng. Anh phóng như bay dụ máy bay địch bay theo sang đường nhánh, tránh xa đội hình đoàn xe. Tất cả các xe phải dừng lại tắt máy. Máy nguội chúng khó phát hiện được bằng tia hồng ngoại. Chạy được khoảng 1 cây số thì xe đại đội trưởng trúng đạn bốc cháy. Nhung quay lại ngã rẽ, đuổi theo anh. Đại đội trưởng đã nhảy ra khỏi ca bin. Quần áo anh bắt lửa cháy rừng rực như bó đuốc. Nhung dìu anh lăn mấy vòng xuống một cái khe nước bên đường. Sau khi dập lửa Nhung mới biết đại đội trưởng đã bị thương, mảnh đạn trúng vào đầu. Nhung xé vội cái áo lót trong người buộc lại vết thương và bế anh lên xe. Anh nói quê anh ở Gio Linh, Quảng Trị. Anh theo cha đi tập kết năm 1954 ngoài Hà Tĩnh. Cha anh cũng đã vào chiến trường. Nếu có mệnh hệ gì thì lấy tấm ảnh này về quê trao lại cho mẹ. Vừa nói anh vừa lấy tấm ảnh trong túi áo ngực ra trao cho Nhung giọng thều thào: “Anh rất vinh dự được góp sức mình đánh bại bọn Mĩ- ngụy trên mảnh đất quê hương Quảng Trị của mình Nhung ạ. Đã 17 năm nay anh chưa một lần được gặp lại mẹ”. Xe chạy được một quãng nữa thì anh tắt thở. Nhung chở anh đến bàn giao cho Binh trạm 14 giữa núi rừng Phong Nha.
Hết chiến tranh, Nhung tìm về quê hương người Đại đội trưởng của mình. Bố anh đã hy sinh. Cả nhà anh cũng bị bom Mĩ sát hại, nay chỉ còn một người em gái tên là Thanh Khiết. Thanh Khiết là nữ sinh trường trung học Đồng Khánh trong Huế (sau này là trường Trung học Trưng Trắc). Sau chiến tranh, Nhung được ưu tiên về trường ôn văn hóa, thi vào đại học địa chất. Khiết cũng học đại học sư phạm. Cô xin ra dạy ở Quảng Bình để tiện việc đi tìm hài cốt anh trai. Nhung đã hứa sẽ tìm được anh vậy mà sau chiến tranh Binh trạm 14 đã giải thể không biết nơi chôn cất Liệt sĩ.
*
* *
Nhiệm vụ của Ngọc Nhung là đi tìm tài nguyên nằm trong lòng đất cho Tổ quốc. Khi khắp nơi nổi lên phong trào tìm trầm và đi đãi vàng, thanh niên quê tôi ra huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh để khai thác vàng và đá quý. Ban đầu người ta đào đất đá bằng tay, có cái máng đãi vàng làm bằng gỗ hoặc gò từ thùng sắt tây. Năng suất đã thấp mà có nhiều vụ sập hầm tai nạn nguy hiểm. Về sau, một số người đã góp vốn tổ chức lại, khai thác theo hướng công nghiệp. Cô Kim Ngọc ở quê hương Hà Tĩnh là một trong những người đầu tiên mạnh dạn đầu tư như thế. Cô sắm nhiều máy móc chuyên dụng như máy nghiền, máy thổi khí, máy phát điện và máy tời vật liệu từ nơi khai thác đến nơi nghiền đầy đủ cả. Chỉ còn thiếu một chuyên gia lành nghề trong việc phân kim. Biết Ngọc Nhung là một chuyên gia giỏi, Kim Ngọc nhắm tới. Kim Ngọc là phụ nữ chân dài, đã qua một đời chồng. Cô có khuôn mặt rất khả ái và quan hệ khá rộng, nói năng cũng lịch thiệp dịu dàng nên khó lòng mà một người đàn ông nào như Nhung thoát khỏi lưới tình. Nhung giải thích cho Kim Ngọc hiểu kỹ thuật phân kim thu hồi vàng là quá trình sử dụng hóa chất phức tạp. Phải dùng hỗn hợp axít nitric và axít clohydric để hòa tan vàng và các kim loại khác. Sau đó dùng phương pháp kết tủa hoặc điện phân để tách vàng ra trong công đoạn cuối cùng. Nàng hăng hái chuẩn bị hóa chất, phương tiện cần thiết cho Nhung. Anh đã giúp cô tách được mẻ vàng đầu tiên hơn 300 gam bằng phương pháp “thủy phân”. Họ phối hợp với nhau khá ăn ý. Nàng trả công cho Nhung xứng đáng theo kết quả sản phẩm thu được.
Ngày thị xã Đồng Hới nâng cấp lên thành phố, nàng bắt xe khách vào dự lễ. Nhung nói với nàng: “Chúng mình quan hệ ngoài luồng, nếu em để cho vợ anh biết thì chết cả nút”. Nàng dụi đầu vào ngực Nhung nũng nịu: “Em biết chứ. Có nhớ anh thì em mới vào. Dù không có danh phận gì thì cũng cho em vào đây để biết cuộc sống thực của anh là thế nào. Em đã cất công đi một trăm rưỡi cây số đó”.
Nhung dịu giọng: “Thì giờ anh sẽ đền bù cho em. Đêm nay chúng mình lên Suối Đá nhé. Ở đó có cái quán thịt rừng ngon lắm”. Anh vào bãi đỗ xe lấy xe máy. Nàng dỗi: “Nghe anh nói làm giám đốc công ty to lắm cơ mà. Sao. Anh đến đây bằng xe máy à?”.
Nhung cười chống chế: “Các lần anh đi công tác là bằng xe công, xe cơ quan nhà nước. Anh có tài xế riêng hẳn hoi. Giờ anh sẽ gọi cậu lái xe đến chở chúng mình đi nhé”.
“Thôi em về đây. Chúng mình chỉ cách nhau một con đèo mà lúc nào muốn gặp nhau cũng rình mò như đi ăn trộm”. Nàng phụng phịu.
Tình thế khó khăn, Thanh Khiết cũng đang tập trung trong đội hình nhà trường đến dự lễ. Không thể để nàng xuất đầu lộ diện ở đây lâu được. Nhung liền gọi điện cho Phạm Bình Bát, thằng bạn thân nhất từ thời học cấp ba: “Nàng vào rồi. Cậu cứu nguy cho tớ ngay nhé. Vợ mình cũng đang diễu hành trong khối giáo viên”.
Bát cười khì khì: “Tớ cũng không thể bỏ công việc mà đi lúc này được. Tớ sẽ điều cho cậu một con cua đồng màu đen, nhưng phải có thằng Phan Đình Mới làm tài xế. Lấy xe cơ quan cho cậu mượn như thế này mà họ biết thì họ sẽ trị tớ chết”.
Phạm Bình Bát từng đi xuất khẩu lao động bên Bulgari. Năm 1991, Hội đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON) và Liên Xô tan rã, Bát về nước và làm thanh tra giao thông của tỉnh.
Tấp xe vào vệ đường, Nhung liền gọi điện về cho vợ: “Em với các con cứ ăn cơm đi nhé, đừng để phần anh. Anh đang đi với đối tác bàn một số việc khảo sát mỏ vàng trên Phong Nha. Ở đó anh sẽ đến Binh trạm 14 tìm hiểu nơi chôn cất các liệt sĩ hồi trước luôn. Có thể ngày mai anh mới về. Em bảo về ngay đêm nay sao? Anh đang ở trên ấy đây này, họ hẹn gặp anh tại nhà hàng. Em nói chuyện với thằng Phan Đình Mới nha. Ờ ờ, biết rồi. Xong việc anh sẽ về ngay với mẹ con em”. Trả lời vợ qua quýt cho xong chuyện, Nhung bảo Đình Mới chở cô nàng ra thị trấn Kỳ Anh. Tới nơi, Nhung bảo Mới đi chơi đâu đó, sau hai tiếng đồng hồ thì đến đón anh ở nhà nghỉ. Khi quay về, anh bảo Mới dừng lại một cái quán ven đường mua mấy bịch kẹo Cu Đơ. Lên đến Đèo Ngang, Đình Mới ngân nga: “Trèo lên giữa đỉnh đèo Ngang. Bụng ở Hà Tĩnh dạ bảo sang Quảng Bình”.
Nhung gắt: “Về nhà mà cậu cứ bô lô ba la cái miệng như thế con vợ tớ biết là no đòn đấy nhá”.
Mới nhăn răng ra cười: “Chị Thanh Khiết đã biết cô Kim Ngọc lâu rồi anh ạ. Mấy lần anh ra Hà Tĩnh giúp người ta khai thác vàng chị nhà cũng đi theo đó còn gì. Vợ Quảng Trị, bồ Hà Tĩnh hay thiệt. Đi vô đi ra chỉ hơn trăm cây số chứ mấy”.
“Hồi đó khác, bây giờ khác. Lúc ấy ra Kỳ Anh có cả hai người. Còn lần này chỉ có mình tớ hiểu chưa”. Nhung dằn giọng.
Hai người về đến Đồng Hới đúng ba giờ sáng. Nhung bảo Mới cầm kẹo Cu Đơ về cho anh em trong cơ quan uống nước trà nhưng Mới không lấy. Mới bảo Nhung cầm về. Nhung mở cổng, nhẹ nhàng đi vào như một con mèo ngoan ngoãn nằm trên đi văng ngoài phòng khách. Vợ con anh đang ngủ say.
Hai hôm sau Phạm Bình Bát đến nhà Nhung chơi. Thanh Khiết pha trà và lấy gói kẹo Cu Đơ ra mời khách. Bát cười toe toét: “He he. Thằng Nhung nhà ni mua gì mà lắm kẹo Cu Đơ dữ ri?. Hắn muốn khoe với vợ là có quà của con bồ nhí à?”.
Đi làm về Nhung thấy Khiết lầm lầm lì lì chẳng nói chẳng rằng, mặt mày sưng sỉa. Đến tối cô bảo Nhung ôm gối đi giường khác mà ngủ. Anh gặng hỏi thì Khiết cười khẩy:
- Các quán ở trên Phong Nha bây giờ người ta còn bán cả kẹo Cu Đơ nữa hả anh Nhung. Anh nói dối một vừa hai phải thôi nhé. Thanh Khiết, vợ của Ngọc Nhung bắt đầu chì chiết.
- Hôm đó anh thấy các quán trên đó bán thật mà. Bây giờ trên đó người ta bày bán đủ các mặt hàng cho du khách về tham quan hang động. Nhung cố phân trần.
- Tôi không thể chịu nổi một thằng chồng đốn mạt chuyên lừa dối vợ con như anh được nữa. Sự việc đã sờ sờ ra đấy mà anh còn cứ cãi.
- Không tin thì em cứ đi mà hỏi thằng Phan Đình Mới. Thằng Mới lái xe cho anh đó. Nhung cố cãi lại nhưng không còn hăng hái như lúc đầu, giọng anh chùng xuống.
- Giỏi! Giỏi lắm anh Nhung ạ! Hôm qua Phạm Bình Bát, thằng bạn nối khố của anh đã kể hết với tôi cả rồi. Không phải anh đi luyện ngọc, luyện vàng đấy chứ.
Nghe vợ kể tội, Nhung tức thằng Phạm Bình Bát đến nghẹn cổ họng. Lúc đầu Nhung hăng hái chối đây đẩy nhưng cuối cùng biết mình đuối lý, anh đành đấu dịu:
- Thì cũng chỉ tại em cứ hay chì chiết truy đuổi nên anh mới phải nói dối. Mọi việc không như em nghĩ đâu. Anh ra Hà Tĩnh thật đấy nhưng mà đi theo việc của thằng Phan Đình Mới. Thằng Mới hắn ra tán con Kim Ngọc. Em hiểu chưa?
Vợ Nhung trợn mắt:
- Tôi không phải là đứa con nít mới lên ba. Thằng Mới thua con Kim Ngọc đến những 5 tuổi. Thằng Mới trai tân, con Kim Ngọc đã có một đời chồng.
- Thì có sao đâu. Bây giờ trai tân lấy nạ dòng là chuyện bình thường mà. Có đứa chờ có bầu rồi mới cưới đó có sao đâu. Thời buổi này phụ nữ vô sinh nhiều lắm.
- Anh kéo cả thằng Mới vào chuyện con Ngọc nữa đấy à. Vàng với chả Ngọc. Tôi không tin anh đâu.
- Thì đợi em hết giận rồi anh mới nói. Em gọi điện hỏi thằng Mới kiểm tra lại xem anh nói có thật không. Nhung nhanh chóng nhắn tin báo cơn địa chấn mới xảy ra tức thì cho Mới xem. Mới nhắn lại: “Anh yên tâm”.
*
* *
Tỉnh lại, Nhung nhìn mọi người xung quanh, mặt tỉnh queo: “Sao tôi lại ở nơi đây”. Rồi Nhung nói một mạch: “Chính nơi đây, trên tuyến đường này hàng ngàn, hàng vạn đồng đội của mình đã ngã xuống. Họ đã hy sinh cho chúng ta có cuộc sống hôm nay. Suốt đời tôi gắn với việc đi tìm bạc, vàng, đá quý, đi tìm các vĩa quặng và có lúc say sưa vui thú, hưởng thụ mà quên mất đồng đội. Nhưng vàng, bạc, kim cương, đá quý không thể nào sánh được với các anh, các chị đã hy sinh cho đất nước. Họ quý hơn ngọc, hơn vàng, hơn kim cương, quý hơn tất cả các giá trị vật chất trên đời. Tôi biết lâu nay mình có tội lớn lắm các đồng chí ạ”. Rồi Nhung khóc hu hu như đứa trẻ chưa bao giờ được khóc.
Hoàng Minh Đức
Xóm 2, thôn Bắc Minh Lệ, xã Nam Gianh tỉnh Quảng Trị.
Điện thoại: 0379872648