“Bộ đội Trường Sơn với chiến dịch Hồ Chí Minh” -Tuỳ bút Hoàng Minh Đức
---------------------
BỘ ĐỘI TRƯỜNG SƠN VỚI CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
Tuỳ bút Hoàng Minh Đức
May mắn trong đời, tôi được nói chuyện với Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhiều lần qua điện thoại. Có một lần ông gọi điện cho tôi, cám ơn về cuốn sách mà tôi đã gửi tặng. Cũng là cơ duyên thôi, thời Pháp thuộc cha tôi đã học với ông cùng một lớp ở trường Tiểu học Thọ Linh. Ông đã giác ngộ cho cha tôi và nhiều thế hệ học trò vùng Nam Quảng Trạch, Quảng Bình đi theo cách mạng.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước, cha tôi cũng đã từng gặp gỡ, làm việc với Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhiều lần.
Đọc cuốn hồi ký “Trọn một con đường” (NXB Quân đội Nhân dân, năm 2012) của Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên mới thấy hết tầm vóc của ông trong hai cuộc chiến tranh giữ nước. Đặc biệt là vai trò của bộ đội Trường Sơn do ông làm Tư lệnh để đi đến giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
* * *
Sau hiệp định Ge nè ve, cuộc tổng tuyển cử năm 1956 không tổ chức được. Đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai đang tâm phá hoại, âm mưu chia cắt đất nước ta lâu dài. Cách mạng miền Nam bước vào thời kỳ đen tối nhất. Ngô Đình Diệm ban hành luật 10/59 lùng bắt, giết hại cán bộ kháng chiến và đồng bào yêu nước, những con người lúc đó hầu như không một tấc sắt trong tay.
Năm 1959, theo chủ trương của Trung ương Đảng, Bác Hồ, con đường xuyên Trường Sơn, đường mòn Hồ Chí Minh được mở. Ta mở hai tuyến đường huyết mạch trên bộ và trên biển nhằm cung cấp lương thực, vũ khí cho cách mạng miền Nam. Đường vận tải trên biển bị hải quân và không quân địch đánh chặn. Có chuyến tàu không số đã phải tự đánh chìm để không lọt vào tay địch. Đường Trường Sơn trên bộ cũng bị loại máy bay AC.130 có thiết bị hồng ngoại nhìn ban đêm, có thể bắn trúng từng chiếc xe một. Lúc đó hơn một nửa triệu quân Mĩ đổ vào miền Nam với vũ khí, khí tài hiện đại bậc nhất thế giới. Sự chênh lệch về nhân lực và vũ khí quá lớn. Mãi đến khi đưa được tên lửa và pháo phòng không 57 mm vào chiến trường ta mới tiêu diệt được con quái vật AC.130 khủng khiếp này. Đến Tết Mậu Thân, với những chuyến tàu không số và hệ thống đường Đông, Tây Trường Sơn, ta có đủ nhân tài, vật lực đánh thẳng vào đại sứ quán Mĩ, trung tâm đầu não của chế độ Sài Gòn, làm rung động Lầu năm góc và Tòa bạch ốc.
Bọn địch tập trung lực lượng đánh phá Đông, Tây Trường Sơn, hành lang biên giới Việt Lào. Ngày 19 tháng 4 năm 1968, Binh trạm 42, căn cứ hậu cần của Đoàn 559 và khu vực Thừa Thiên, Bắc Khu 5 bị sáu tiểu đoàn thuộc Sư đoàn “kỵ binh bay” và hai tiểu đoàn quân ngụy càn quét. Lực lượng Binh trạm 42 không đủ sức chống trả, phải chiến đấu giằng co, bị chúng tràn vào cướp phá gần 200 tấn hàng. Liền sau đó có bộ đội chủ lực Trị Thiên, quân chủ lực của Bộ tăng cường cùng hỏa lực phòng không của Đoàn 559, ta đã lật lại thế cờ. Trong cuộc đọ sức với “át chủ bài” của Mỹ - Ngụy tại A Sầu, A Lưới, Đoàn 559 đã bắn rơi 86 máy bay, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 800 tên địch.
Ở hướng Khe Sanh, suốt 170 ngày đêm bị ta tiến công vây hãm, địch đã tung vào đây 40% số tiểu đoàn lực lượng viễn chinh mà MACV (cơ quan chỉ huy quân sự thống nhất đối với các đơn vị quân sự của Mĩ tại miền Nam Việt Nam) có trong tay, nhưng vẫn không sao tránh khỏi một trận “Điện Biên Phủ mới”. Tại làng Vây, bộ đội Tăng - Thiết giáp lần đầu tiên xung trận. Trung tuần tháng 7 năm 1968, Mĩ đã không kèn không trống rút khỏi “thung lũng tử thần”.
Sau khi xuống thang ở miền Bắc, thu hẹp phạm vi đánh phá từ vĩ tuyến 20 trở vào, số trận bom Mĩ thả xuống Khu 4 tăng lên gấp 2,6 lần, mật độ bom đạn tăng lên 20 lần gây ách tắc tuyến vận tải trên bộ. Tháng 7 năm 1968, các tướng lĩnh dày dạn kinh nghiệm như Nguyễn Đôn, Lê Quang Đạo, Hồng Kỳ, Đoàn La… được tung vào chiến trường để khai thông “nút cổ chai” Khu 4.
Bị thất bại liên tiếp trên các chiến trường, dưới áp lực của dư luận trong nước và quốc tế, Mĩ phải ngồi vào bàn đàm phán tại Paris. Năm 1971, với cuộc hành quân “Lam Sơn 719”, Mĩ, ngụy Sài Gòn phải vứt bỏ xe pháo ôm đầu máu chạy tháo thân. Đây là đòn quyết tử giáng mạnh vào học thuyết “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mĩ. Bế tắc, chúng mở tiếp “Chiến dịch Lai- nơ- bếch- cơ II”, canh bạc cuối cùng đánh vào thủ đô Hà Nội, Hải Phòng.
Không để Tổ quốc bị bất ngờ, lúc 16 giờ 30 phút ngày 18/12/1972, qua mạng lưới tình báo, Bộ Quốc phòng đã thông báo từ 19 giờ sẽ có một đợt hoạt động lớn của máy bay B.52 đánh vào thủ đô Hà Nội. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đích thân đến Sở chỉ huy Quân chủng Phòng không - Không quân để theo dõi cuộc chiến đấu. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này ta đã cho kẻ thù đo ván. Suốt 12 ngày đêm ngoan cường đánh trả cuộc tập kích chiến lược bằng không quân đại quy mô của đế quốc Mỹ, quân dân miền Bắc đã bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 siêu pháo đài bay B.52. Đòn cân não có tính quyết định buộc chính phủ Mỹ phải trở lại bàn đàm phán, cuốn cờ khỏi miền Nam Việt Nam.
Từ năm 1973, ta củng cố lại thế trận, phát triển kinh tế hậu phương miền Bắc, cải tạo hai tuyến đường Đông, Tây Trường Sơn. Đường ống xăng dầu, đường thông tin tải ba vươn đến tận thị trấn Lộc Ninh. Thế lực ta và địch đã thay đổi hẳn, quân địch lâm vào thế bị động đi đến hồi giãy chết khi không có lực lượng chính quan thầy Mĩ chiến đấu bên cạnh. Bộ Chính trị hạ quyết tâm phương án vận chuyển lương thực, vũ khí để giải phóng miền Nam trong năm 1975. Lực lượng vận tải nòng cốt là 2 sư đoàn 471 và 571 của bộ đội Trường Sơn do Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên chỉ huy.
Tháng 3/1975, Sư đoàn vận tải 471 đã cơ động Sư đoàn 968 vào Bắc Tây Nguyên thế chân cho Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 vào đánh Buôn Ma Thuột. Nghệ thuật ngụy trang, nghi binh bậc thầy của quân Giải phóng đã làm cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mắc mưu, điều binh khiển tướng lung tung. Ngày 10/3/1975, ta nổ súng giải phóng Buôn Ma Thuột, chặt đứt mắt xích quan trọng của địch tại Tây Nguyên dẫn đến sự sụp đổ liên hoàn hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng hòa. Ngày 14/3/1975, tên Trung tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2, Quân khu 2, quân lực Việt Nam Cộng hòa được Thiệu giao cho tái chiếm Buôn Ma Thuột đã thề sống, thề chết: “Tôi sẽ sống chết với cao nguyên. Tôi sẽ lấy máu mình để thu hồi Buôn Ma Thuột”. Ngày hôm sau Phú lên máy bay chuồn thẳng, bỏ lại hơn 100.000 quân rút lui trong tình trạng hỗn loạn trên đường số 7.
Ở Huế, tên Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh quân đoàn 1, Quân khu 1 ngụy từng tuyên bố tử thủ: “Tôi sẽ sống chết với cố đô, Cộng quân muốn vào Huế phải bước qua xác tôi”. Chiến dịch giải phóng Trị Thiên - Huế và Đà Nẵng thắng lợi. Tên tướng láu cá này nhanh chân hơn cả lính, tháo chạy ra biển rồi bay vào Sài Gòn.
Ngày 26/3/1975 đồng chí Đồng Sĩ Nguyên giao cho Bộ Tư lệnh Sư đoàn 571 tập trung 1000 đầu xe phối hợp với Cục Vận tải Tổng cục Hậu cần cơ động Quân đoàn 1 vào Đồng Xoài. Ngày 19/4/1975 toàn bộ đội hình quân đoàn 1 có mặt tại Đồng Xoài, Lộc Ninh sớm hơn quy định 6 ngày.
Sư đoàn vận tải 471 đã cơ động toàn bộ đội hình Quân đoàn 3, Sư đoàn 2, Sư đoàn 3B, Khu 5 chỉ trong 10 ngày đầu tháng 4 tới Lộc Ninh.
Đầu tháng 4 năm 1975, Bộ chính trị quyết định thành lập cánh quân Duyên Hải có nhiệm vụ cơ động thần tốc theo đường số 1, đánh địch trong hành tiến, đập nát các tuyến phòng thủ từ xa của địch dọc duyên hải miền Trung, tiến vào hợp vây Sài Gòn - Gia Định từ hướng Đông, Đông Nam. Bộ Tư lệnh cánh quân Duyên Hải do đồng chí Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Lê Quang Hòa làm Chính ủy, Đồng Sĩ Nguyên làm Phó Tư lệnh. Sư đoàn vận tải 571 đã nhanh chóng cơ động gần 33 ngàn quân của Quân đoàn 2 (thiếu Sư đoàn 324) tăng cường Sư đoàn 3 (Quân khu 5) vào hợp vây ở Sài Gòn - Gia Định.
Ngày 7/4/1975, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ký bức điện khẩn với nội dung: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”, mệnh lệnh như tiếp thêm sức mạnh, cổ vũ toàn quân xông lên giành thắng lợi cuối cùng.
Ngày 8/4/1975, Bộ chỉ huy giải phóng Sài Gòn - Gia Định được thành lập do Đại tướng Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy, các phó Tư lệnh là các đồng chí Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện, Lê Quang Hòa (Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị); Lê Ngọc Hiền, Quyền Tham mưu trưởng… Và đến ngày 14/4/1975, Tổng Bí thư Lê Duẩn thay mặt Bộ Chính trị quyết định: “Đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh”.
Sau 11 ngày đêm các chiến sỹ Quân đoàn 1 đã vượt chặng đường dài hơn 1700 km đập tan hệ thống phòng thủ của địch ở hướng Bắc Sài Gòn, tiêu diệt và bức hàng Sư đoàn 5 ngụy, giải phóng tỉnh Bình Dương. Quân đoàn tiếp tục đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu - cơ quan đầu não của Quân ngụy Sài Gòn, tấn công Sài Gòn – Gia Định.
Khó khăn nhất là mặt trận Xuân Lộc, nơi được mệnh danh là “cánh cửa thép” của địch ở phía Đông Sài Gòn. Quân đoàn 4 và Đoàn 232, triển khai lực lượng trên hai hướng Đông Bắc và Tây Nam Sài Gòn. Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 ngụy ở Xuân Lộc mắm môi mắm lợi huyênh hoang tuyên bố: “Chúng tôi sẽ đánh một trận dập đầu Cộng quân để thế giới biết sức mạnh của quân lực Việt Nam Cộng hòa”. Chúng đã ném xuống Xuân Lộc 2 quả bom CBU - 55, loại bom đang bị thế giới cấm hòng hủy diệt mục tiêu. Nhưng không có loại vũ khí tối tân nào có thể ngăn nổi khí thế tiến công như vũ bão của quân ta. Lính ngụy ở Xuân Lộc lọt vào giữa gọng kìm thép, trong không ra được, trên không xuống được, ngoài cứu viện cũng không thể tiến vào nổi. Chúng ngày càng cạn kiệt về vũ khí, tiêu hao binh lực. Ngày 21/4/1975, ta đã đập tan tuyến phòng thủ của địch ở Xuân Lộc, giải phóng thị xã và toàn bộ tỉnh Long Khánh. Ngày hôm sau, Tướng Đảo cùng bọn lính tráng cải trang thành dân thường chạy trốn.
“Cánh cửa thép” của địch đã được mở. Sau 18 ngày vượt 1000 cây số, xuyên qua ba quân khu, Quân đoàn 2, quân Giải tiến về Sài Gòn theo hướng Đông Nam.
Ngày 21/4/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức. Trong bài diễn văn từ chức Thiệu vẫn tuyên bố hùng hồn: “Dù mất một Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, quân đội vẫn còn một Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kề bên anh em chiến sĩ…”. Chỉ 4 ngày sau, vào đêm 25/4/1975, Thiệu bí mật lẻn lên máy bay thoát khỏi Sài Gòn. Tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa ngoài miệng khoác lác nhưng trong thâm tâm tên nào cũng sợ chết. Bản chất của đội quân đánh thuê là như thế.
Hơn 7.064 xe ô tô, 32 tàu biển của hải quân, 311 toa tàu hỏa vận chuyển lực lượng, binh khí kỹ thuật vào Nam Bộ. Tất cả đã sẵn sàng. Ngày 26/4/1975 chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Đến ngày 28/4/1975 ta đã chọc thủng tuyến phòng ngự vòng ngoài. Những tên tướng ngụy tranh nhau leo lên máy bay tháo chạy, di tản ra ngước ngoài. Các cánh quân của chúng như rắn bị cụt đầu.
Ngày 29/4, quân ta tổng tiến công. Các binh đoàn bộ đội hợp thành tiến công trong hành tiến. Sáng 30/4, năm cánh quân nhanh chóng chiếm lĩnh các mục tiêu, tràn về Sài Gòn với thế mạnh như chẻ tre. Đúng 11 giờ 30 phút, hai xe tăng của Lữ đoàn 203 đã húc đổ cổng dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên dinh Độc Lập. Quân đoàn 2, quả đấm thép của Bộ quốc phòng và Binh chủng Tăng - Thiết giáp, mũi đột kích dũng mãnh tiến vào dinh Độc Lập trong niềm vui chiến thắng. Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Sau 21 năm đấu tranh kiên cường gian khổ, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc sự chiếm đóng của quân đội nước ngoài.
* * *
Tôi là một người lính xe tăng thuộc thế hệ sau. Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, tôi chưa đủ sức khỏe nên không được đi bộ đội như bạn bè cùng trang lứa. Những năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng tôi dạy học ở Trường cấp 3 vừa học vừa làm Quảng Trung, trên quê hương của Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên. Nhiều lần tôi đến chơi nhà bà mẹ của Trung tướng và mấy anh em ông đang nghỉ hưu ở trong làng. Các anh em, con cháu ông có nhiều người là tướng lĩnh, sĩ quan quân đội. Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, người từng chỉ huy 9 sư đoàn binh chủng và thanh niên xung phong với quân số 120.000 người, góp phần làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975. Người dân Quảng Bình quê tôi, ai cũng tự hào về một người con của quê hương “Hai giỏi”, một vị Tư lệnh tài ba trên chiến trường Trường Sơn.
Sau này đi bộ đội, tôi còn được gặp Đại tá Bùi Văn Tùng, Hiệu phó chính trị trường Hạ sĩ quan xe tăng 1 (lúc đó là Thượng tá), nguyên Chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203, người đã từng thay mặt Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam chấp nhận sự đầu hàng của Tổng thống chế độ Sài Gòn Dương Văn Minh. Tôi ở phòng Tham mưu, sát với nhà ở của các thủ trưởng cơ quan Hiệu bộ. Tôi ở cùng nhà với Trần Quang Thành, con trai của Hiệu trưởng, Đại tá Trần Quang Bôn nên Thành thường hẹn tôi đến chơi các thủ trưởng và được nghe kể nhiều lần về chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Năm 1983, tại phòng Chính trị, tôi được xem bộ phim “Đột kích” của Binh chủng Tăng - Thiết giáp, kể về chiến dịch Hồ Chí Minh, và việc tiến vào dinh Độc Lập như thế nào. Trong phim, Thượng tá Bùi Văn Tùng đã dẫn đầu đoàn tham quan về thăm lại dinh Độc Lập sau 8 năm giải phóng. Ông dừng lại giới thiệu từng chi tiết, kỷ niệm với các phóng viên.
Năm mươi năm nhìn lại cuộc tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã trở thành một mốc son chói lọi, những trang sử hào hùng của dân tộc. Bên cạnh các cuốn hồi ký nổi tiếng của các vị tướng, đặc biệt là hồi ức “Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì “Trọn một con đường” của Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên cho ta có một cái nhìn tổng thể của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại. Ta càng thấy được công lao to lớn của những người đã ngã xuống, cái giá của ngày hòa bình, nền độc lập, tự do của dân tộc. Ta càng mến yêu hơn cuộc sống hôm nay.
Hoàng Minh Đức
Xóm 2, thôn Bắc Minh Lệ, xã Nam Gianh tỉnh Quảng Trị.
Điện thoại: 0379872648.