“Chim báo bão” - Truyện ngắn của Hoàng Minh Đức

Ngày đăng: 07:30 19/08/2025 Lượt xem: 224
---------------------
 
CHIM BÁO BÃO 
Truyện ngắn của Hoàng Minh Đức

 
        Sắp đến ngày sáp nhập hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, chi hội cựu chiến binh chúng tôi tổ chức một chuyến đi thăm lại chiến trường xưa. Chỉ có những cựu chiến binh thời chống Mĩ là còn khỏe mạnh tham gia được. Đa số những cựu chiến binh thời chống Pháp đã về với tổ tiên hết cả rồi. Ông Chiến, một cựu chiến binh gần trăm tuổi trong chi hội chúng tôi có nguyện vọng muốn thăm lại những nơi mà ông đã từng chiến đấu. Ông khẩn khoản: “Cháu cho chú đi với. Chỗ nào khó khăn quá thì cháu dìu chú. Chú cũng gần đất xa trời rồi”. Trước lời thỉnh cầu tha thiết ấy, tôi nắm chặt tay ông: “Chú yên tâm. Lúc nào chú không đi nổi nữa thì cháu cõng”.
        Chúng tôi đến các địa danh Đường 9 - Khe Sanh, nhà tù Lao Bảo, tham quan các nghĩa trang Thành Cổ, Trường Sơn. Đoàn về sân bay Tà Cơn, nơi có nhiều xác máy bay, xe tăng của địch bị bắn cháy. Một chiếc AC.130 khổng lồ nằm trên bãi cỏ còn nguyên vẹn. Loại máy bay này đã có một thời từng làm mưa làm gió trên các tuyến đường Trường Sơn.
        Năm anh em lính Tăng thiết giáp chúng tôi trèo lên một chiếc PT76 ở tượng đài chiến thắng Làng Vây để chụp một tấm ảnh làm kỷ niệm. Chiếc xe tăng lội nước mang số hiệu 268 của Tiểu đoàn 198, thuộc Trung đoàn 203 chúng tôi đã từng tham chiến trong trận Tà Mây - Làng Vây đọ sức với thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Trận đánh mở đầu truyền thống “Đã ra quân là đánh thắng” của bộ đội Tăng thiết giáp. 
        Sau hai ngày ở Quảng Trị (cũ), chúng tôi về lại Quảng Bình thăm Cha Lo, phà Xuân Sơn, hang Tám Cô, ngầm Tà Lê rồi động Phong Nha. Chiều thứ ba, chúng tôi xuống nghỉ đêm tại khách sạn Mường Thanh bên dòng sông Nhật Lệ. Tôi đã từng nghe nói Bác Hồ vào thăm Quảng Bình, đi tắm biển ở nơi đây thế mà bây giờ mới biết ở đây.  
         Cơm nước xong, cả đoàn ngồi trên xe điện chạy dọc theo đường Trương Pháp, con đường mang tên người anh hùng đã hy sinh anh dũng ngày 30 tháng 6 năm 1964 khi đánh đuổi toán biệt kích Mĩ - ngụy đổ bộ vào Nhật Lệ. Một kì thú được lái xe điện chạy lòng vòng trong thành phố hoa hồng, được đi qua cầu Nhật Lệ giữa ánh điện huyền ảo lung linh soi bóng trên sông như thế này thật là tuyệt. Tôi dắt tay ông Chiến ra cửa biển ngắm ánh đèn câu mực ngoài khơi. Ông muốn nhìn cửa Nhật Lệ lần cuối cùng trước khi rời cõi tạm.
        Trời về đêm, tàu thuyền đậu san sát, ngoài khơi xa ánh điện soi sáng cả một vùng trời nước mênh mông như một thành phố nổi trên mặt biển. Sóng xõa vào bờ tung lên những hạt sóng lân tinh.
         Bỗng có tiếng đập cánh của một con chim. Tôi chạy đến tóm lấy thì nó vùng vẫy và phát ra tiếng kêu “moo” kéo dài rồi yếu dần, ngắt đoạn. Đó là một con chim hải âu bị thương. Ông Chiến nói đây là loài chim báo bão. Có lẽ nó bị sóng đánh dạt vào bờ. Loài chim này, con mái có thể sống đến sáu chục năm. Chim hải âu thường bay từng đàn từ bán cầu nam sang bán cầu bắc mỗi khi xuất hiện một cơn bão trên mặt biển. “Cháu biết không?
Trước ngày Cách mạng tháng Tám các chú cũng đã từng gặp một đàn chim hải âu bay vào bờ. Có lẽ ngày đó nó báo hiệu sẽ có bão táp cách mạng để toàn dân đứng lên giành độc lập”. Rồi ông phấn khích kể tiếp với giọng hào sảng lạ thường.       
***
         Ông Hoàng Hữu Chiến là hội viên, hội cựu chiến binh cao tuổi nhất trong làng tôi còn sống đến tận bây giờ. Trước Cách mạng tháng Tám, ông từng học ở trường Tiểu học Thọ Linh, được đồng chí Nguyễn Hữu Vũ, còn gọi là Nguyễn Văn Đồng (sau này là Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên) giác ngộ cách mạng. Trường Tiểu học Thọ Linh có nhiều người sau này là tướng lĩnh quân đội nhân dân Việt Nam. 
        Làng tôi và làng Thọ Linh cùng nằm ven bờ sông Nan, cái nhánh sông ngắn nhất của con sông Gianh lịch sử. Ông Chiến kể ngày Nhật hất cẳng Pháp, cô giáo người Pháp bỏ trường không đến dạy nữa nhưng chương trình Pháp - Việt vẫn học bình thường. Những chuyến tàu hỏa dài trên chục toa chở đầy lính Nhật tràn về miền Trung. Chúng đổ xuống ga Minh Lệ hàng ngàn tên. Chúng chiếm lĩnh nhà ga, nhà trường, đình chùa miếu mạo để ở.
         Lính kỵ binh Nhật tràn về làng. Chúng buộc ngựa khắp các vườn cây. Chúng vào rừng lùng sục bắt binh lính lính Pháp chạy trốn. Các tên tù binh Pháp bị xâu một sợi dây thép qua lòng bàn tay. Mỗi sợi dây xâu được vài chục người. Chỉ cần vài ba tên lính Nhật mà áp giải được cả hàng trăm tên Pháp. 
        Hàng ngày học sinh đi học trên làng Thọ Linh về bị lính Nhật lục soát khám xét. Chúng bắt nhân dân ta phá lúa để trồng đay. Người đói nằm la liệt đầy đường. Hầu hết là dân ngoài Bắc tràn vào. Từng đoàn người kéo đến các chợ để xin ăn. Chiều tối họ về nằm ngủ dưới một bụi tre to bên chân cầu Minh Lệ.
        Một hôm bà mẹ của ông Chiến xuống chợ Mới thì thấy một bé gái khoảng 9 tuổi, rụng tóc, trọc đầu, nước da xanh mét như tàu lá, lại mỏng như tờ giấy, thấy được cả nước bên trong. Mặt em bị phù thủng, hai mí mắt sưng dày không thấy đường mà đi. Đói quá, em nhặt cá thối, cá ươn người ta vứt đi giữa chợ mà ăn. Em ăn cả lá gói bánh, ruồi nhặng bâu đầy. Thương em quá! Bà mẹ của ông mua cho em hai cái bánh rán. Em bỏ vào mồm nhồm nhoàm nhai không kịp nuốt. Chiều, nghe vợ kể lại, bố của ông Chiến liền xuống chợ đón về để chữa trị nhưng em đã đi đâu mất. Ông cũng là người biết võ vẽ về nghề thuốc. Hôm sau máy bay đồng minh ném bom đánh phá cầu Minh Lệ. Chiếc máy bay bay rất thấp, lại lề mề chậm chạp như bà già nhưng khi bom nổ xong rồi người lính Nhật mới bắn lên. Đó là khẩu pháo 14 li 5 đặt trong công sự ở đồi Ông Tri, phía nam cầu Minh Lệ. Người xạ thủ Nhật bị xích chân vào ụ pháo nhưng khi máy bay bổ nhào không bắn, lại đi bắn “vuốt đuôi”. Một quả bom nổ giữa bụi tre. Xác những người ăn xin bị tung lên trời, rơi lả tả xuống giữa dòng sông. Có lẽ em bé gái cũng bị chết trong số ấy.
        Những ký ức chiến tranh ông Chiến kể lại có khi không đầu không cuối. Khi thì ông theo anh Đồng sang Lào và Thái Lan xây dựng cơ sở Đảng. Có khi theo anh Đồng đi đến Troóc, Khe Gát thương lượng với quân Pháp để chống Nhật.
        Ngày 18 tháng 3 năm 1945, Chiến và Đáo theo anh Nguyễn Văn Đồng lên Troóc, một cơ sở của ta đầu nguồn sông Gianh để thương lượng với quân Pháp. Trên đường đi họ đã cứu được mấy người dân địa phương bị lính Pháp trói lại trong rừng Cu Bận. Mấy người đang đi đào củ mài thì gặp lính Pháp lên rừng trốn chạy quân Nhật. Họ bị chúng nhét giẻ vào mồm, hai cánh tay bị bẻ quặt ra phía sau lưng, trói vào các gốc cây. Đã ba ngày nhịn đói, nhịn khát nên người nào người nấy bị lã đi. Cái đầu của họ bị nghẽo sang một bên. Họ đang chờ cái chết đến từng giờ. Bọn Pháp rút lên miền tây huyện Bố Trạch tìm đường chạy trốn sang Lào. Chúng trốn trong năm, sáu cái hang nhỏ ở khu vực Khe Gát. Cả bọn có chừng 200 tên. Chỉ có ba chục tên lính Pháp còn lại là lính khố đỏ do tên quan ba người Pháp chỉ huy. Ông Chiến được anh Đồng cử đi cùng với lý trưởng làng Khe Gát cầm bức thư anh đến điều đình với tên quan ba. Sáng 14 tháng 4, đoàn Việt Minh đến tại hang viên quan ba đang ẩn náu. Viên sĩ quan Pháp cố tỏ ra niềm nở bình thường nhưng trong ánh mắt lộ vẻ lo âu, buồn bã. Đang hoang mang tột độ ông ta hẹn đến sáng ngày 18 tháng 4 sẽ phối hợp giữa hai lực lượng. Đúng hẹn, tên quan ba bối rối: “Xin lỗi, chúng tôi phải trốn thôi. Mong các ông thông cảm, quân Nhật sắp đánh lên đây rồi…”. Nhân dịp đó anh Nguyễn Văn Đồng đã vận động được hầu hết binh lính khố đỏ bỏ trốn về với cách mạng.           
        Bom nổ đánh sập một nhịp cầu Minh Lệ, quân Nhật đổ xuống làng ngày càng nhiều. Mỗi tên kỵ binh được trang bị một con ngựa, một thanh gươm dài, một khẩu súng trường hoặc tiểu liên với hai quả thủ pháo. Bọn lính bỏ gạo, thịt, rau, đậu vào trong một cái ăng gô nhôm để nấu ăn. Hàng ngày chúng bắt đàn ông đi vào rừng chặt gỗ, đào đá, đan giỏ sắt bỏ xuống sông rồi khiêng đá hộc ném vào giỏ, lấy gỗ chống lại nhịp cầu. Trong thời gian đang làm cầu, tàu hỏa chạy từ trong Huế ra phải tăng bo qua dòng sông Nan. Lúc này Mặt trận Việt Minh tỉnh Quảng Bình được thành lập. Theo sự giới thiệu của đồng chí Nguyễn Văn Huyên (bí danh là Tế, Bí thư phủ ủy Quảng Trạch) anh Đồng được cử làm chủ nhiệm Việt Minh của tỉnh. Ông Trần Sớ hồi trước về xây dựng chi bộ đầu tiên ở làng tôi được phân công phụ trách tài chính, tín phiếu xây dựng lực lượng vũ trang. Hồi đó ông về ở nhà ông Tuần Ngạn làm thợ mộc ở để che mắt địch. Ông Chiến và ông Đáo là hai người trong làng tôi đầu tiên được kết nạp vào Mặt trận Việt Minh.
       Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Lính Nhật tập trung tại nhà ga Minh Lệ để phân chia quân số theo các đường về nước. Một số lên tàu hỏa ra Hà Nội, một số khác xuống ca nô về cửa Gianh. Lính Nhật tập trung lại đây để chứng kiến nghi thức tên quan năm tự sát. Hắn ta thuộc dòng dõi võ sĩ đạo nhưng không tự sát bằng cách lấy kiếm mổ bụng mà tự chặt đầu bằng gươm. Hôm đó viên quan năm đứng trên bục gỗ, tay nắm chặt một thanh gươm dài. Hắn nói gì đó rất to, giọng hùng hồn và oai phong lắm. Dứt lời, hắn co tay phạt ngang cổ một nhát, cái đầu rụng xuống đã có hai người lính đỡ hai bên đặt lên bàn khiêng đi. Vòi máu vọt xa đến hai mét. “Thế chú có thấy không? – Tôi bất ngờ hỏi ông Chiến. “ Chú cũng nghe người ta kể lại thôi cháu ạ. Lúc đó có ông Trần Sươu người làng mình bán quán trên nhà ga Minh Lệ chứng kiến”.
       Đêm 22, rạng ngày 23 tháng 8 năm 1945 cả Quảng Trạch rộn ràng không khí chuẩn bị khởi nghĩa. Đêm đó trăng rằm sáng như ban ngày. Thanh niên trai tráng vùng Nam Quảng Trạch đi qua bến đò Phú Trịch đến đình Lũ Phong để tập trung sáng mai khởi nghĩa. Sáng hôm sau trúng phiên chợ Đồn nên bà con đi chợ nhập đoàn người biểu tình bao vây phủ đường cướp chính quyền. Tri phủ Đặng Hiếu An run lẩy bẩy bàn giao giấy tờ, sổ sách, triện đồng cho cách mạng. “Ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945 chú và chú Đáo cùng nhân dân ngoài Quảng Trạch mình vào Đồng Hới để nghe Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập. Các chú đi bộ suốt đêm. Vào đến Ngã Ba Dốc thì nằm nghỉ lại bên đường Quốc lộ 1 chờ trời sáng. Vào thành Đồng Hới đã thấy mọi người đến tập trung rất sớm trên một bãi cỏ rộng để nghe tiếng nói của Bác Hồ trên sóng phát thanh. Tiếc quá, kỹ thuật thời đó trục trặc không tiếp sóng được. Anh Đồng phải thay mặt Ủy ban khởi nghĩa và Mặt trận Việt Minh đọc toàn văn bản tuyên ngôn độc lập do lãnh tụ Hồ Chí Minh gửi vào từ trước. Cả rừng người lặng im phăng phắc như uống lấy từng lời. Khi anh Đồng vừa dứt câu cuối cùng thì hơn ba vạn đồng bào nhất loạt hô vang ba lần: Hồ Chí Minh muôn năm”. Ông Chiến xúc động bồi hồi nhớ lại những ngày đầu cách mạng tháng Tám sục sôi tám mươi năm về trước. Ông nhớ những ngày giặc Pháp quay trở lại đánh chiếm Quảng Bình. Đó là những ngày đầu tiên chi đội Lê Trực chống quân Pháp đổ bộ lên cửa biển Nhật Lệ tháng 3 năm 1947(1). Tiếng đạn pháo rít lên từng hồi, tiếng bom nổ ầm ầm. Những chiếc đầm già vè vè bay sát ngọn tre lồng lộn gầm rú trên bầu trời càng tăng thêm không khí rùng rợn của chiến tranh. Cả Đông Hải mịt mù chìm trong lửa khói. Lính Pháp hung hăng tràn vào làng, thằng nào thằng nấy mặt đỏ gay như gà chọi. Toán lính đầu tiên vào một túp lều tranh bên bờ kênh sục sạo không thấy gì liền chạy ra sân ngó quanh. Một thằng quay trở lại châm lửa vào mái hiên rồi ngửa mặt nhìn lên trời cười sằng sặc. Lửa bén vào mái tranh bốc cháy rần rật, tiếng đòn tay, rui mè nổ lốp đốp. Một thằng khác lại cầm bó đuốc đi tới đống rơm. Người đàn bà đang ôm đứa con trốn trong đống rơm thấy thế liền chạy vòng ra phía đằng sau mé bờ kênh nấp bên bụi chuối.
        Bỗng đứa bé khóc thét lên. Chị nhét vội núm vú vào miệng nó, cố bịt kín lại không cho nó khóc thành tiếng. Một thằng tây râu ria xồm xoàm phát hiện được, xông tới. Hắn giằng lấy đứa con trong tay chị. Đứa bé khóc ngằn ngặt. Thằng Tây đè ngửa chị ra giữa vườn chuối. Chị vùng vẫy, hai chân giãy đạp liên hồi, tiếng kêu cứu thất thanh, thảm thiết. Một thằng tây nữa chạy đến tiếp sức. Hai bàn tay lông lá của hắn nắm lấy giữ chặt hai ống chân của chị, chúng xé hết áo quần. Cả toán lính thay nhau hãm hiếp người đàn bà cho đến khi chị bị ngất lịm đi. Thằng chỉ huy sau khi “no xôi chán chè” liền chĩa khẩu súng vào thân thể lõa lồ của người đàn bà đang nằm sóng sượt trên vườn chuối bóp cò. Ông Chiến lạnh người, mồ hôi ướt đầm đìa cả chiếu. Giấc mơ thật hãi hùng.
       Trước thế mạnh của bọn lính lê dương, bộ đội Lê Trực đã rút hết sang bên kia bờ kênh. Chiến và Đáo được đơn vị bố trí ở lại theo dõi quân địch sau hai ngày chúng đổ bộ vào thị xã Đồng Hới. Hai anh nấp sau bụi tre già ở bên bờ kênh Đông Hải nên trông rõ mồn một. Chi đội Lê Trực chỉ được trang bị mã tấu, súng trường, bom ba càng và một thứ vũ khí thô sơ gọi là bích kích pháo. Loại bích kích pháo này quả đạn chỉ bay xa hơn một trăm mét.
        Hai người nghiến chặt răng, tay nắm đại đao. Máu nóng bốc phừng phừng lên mặt, Chiến tung một quả lựu đạn vào giữa đám lính nhưng không nổ. Hai người không ai bảo ai, cùng hô xung phong và nhảy vọt lên. Chiến lao tới ôm đứa bé chạy đi. Bọn địch sau phút hoàn hồn đã vây lấy Đáo …
         Những hình ảnh chập chờn không đầu không cuối thường xuyên hiện về trong giấc ngủ của ông Chiến những năm cuối đời. Những cơn mớ ngủ ngày càng dày đặc hơn, có lúc rõ ràng, rành mạch, có lúc lơ mơ, lộn xộn. Thế mà cũng 78 năm rồi, ông vẫn chưa tìm được xác bạn.
         Sau ngày giặc Pháp đổ bộ lên cửa Gianh và cửa biển Nhật Lệ, đã có một vài lần ông Chiến vào thị xã Đồng Hới để xác định lại vị trí trận đánh năm xưa. Hòa bình lập lại được mười năm, giặc Mĩ ra ném bom miền Bắc. Cả nước lại bị cuốn vào cơn lốc chiến tranh. Quảng Bình, Vĩnh Linh trở thành tuyến lửa. Thị xã Đồng Hới chìm ngập trong đống tro tàn đổ nát. Máy bay Mĩ đổ xuống đây không biết cơ man nào là bom đạn để hủy diệt thị xã. Ông Chiến tái ngũ, lao vào cuộc trường chinh của dân tộc cho đến ngày toàn thắng. Ngày thống nhất đất nước, ba tỉnh Bình, Trị, Thiên hợp nhất. Người dân Đồng Hới sơ tán trên làng Hà, xóm Cộn, xóm Trạng lục tục kéo nhau về phố cũ. Việc xác định lại vị trí cuộc chiến năm xưa càng khó khăn hơn. Nhưng hình ảnh của ông Đáo vẫn đêm đêm hiện về, thôi thúc ông đi tìm, lúc chỉ chỗ này, lúc bày chỗ khác.

***                                                 
         Năm 2000, Ủy ban nhân dân xã quyết định nâng cấp nghĩa trang liệt sĩ trên cánh đồng làng gần bờ sông Nan. Bà vợ của ông Đáo bị bệnh đã qua đời. Lại một lần nữa ông Chiến cùng cô Khiên, con gái của ông Đáo vào Đồng Hới tìm hài cốt của cha. Cô Khiên là giáo viên cấp 1 dạy học trong làng tôi. Đồng Hới cách làng tôi hơn năm chục cây số. Ông Chiến cùng cô Khiên đi tàu chợ vào ga Đồng Hới rồi đi tìm cái bờ kênh ngày xưa. Ông cố mường tượng lại nơi xảy ra trận đánh của bộ đội Lê Trực chống quân Pháp đổ bộ lên cửa biển Nhật Lệ 53 năm về trước. Cuối cùng họ lấy một gói đất về đặt vào quan tài ông Đáo trong ngôi mộ gió. Ông nghĩ thế là làm tròn trách nhiệm với đời, nhưng đến năm 2019 khi Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, người chỉ huy cuối cùng của ông cũng qua đời. Những giấc mơ chập chờn nhớ nhớ, quên quên. Ông nhớ cái mới lẫn lộn cùng cái cũ. Ông nhớ những năm tháng đánh Mĩ trên chiến trường Trường Sơn hòa trộn với những năm dài đánh Pháp.

***                                                    
         Sáng hôm sau, băng bó, bôi thuốc sát trùng cho con chim hải âu một lần nữa, chúng tôi ôm con chim ra bờ biển thả nó trở về với đại dương, về với bầu trời. Lúc này có rất nhiều du khách đi ra tắm biển. Họ thuê phao bơi, áo tắm, lái ca nô lướt sóng trên mặt biển và cất tiếng reo hò. Hai chú cháu chúng tôi đứng xem một lúc rồi trở về khách sạn. Đêm qua loay hoay cho con chim bị thương uống thuốc nên không sao ngủ được. Phía trước nhà nghỉ BAMBOO HOUSE có mấy người đang đứng chụp ảnh nơi tấm biển ghi ngày tháng Bác Hồ về thăm Quảng Bình. Tấm biển cao gần ba mét được xây bằng bê tông dựng dọc đường Trương Pháp. Ở hai mặt tấm biển có ghi: “Nơi đây lúc 17 h30 ngày 16/6/1957 Bác Hồ đã tắm biển trong dịp Người vào thăm Quảng Bình”. Bỗng ông Chiến lau mục kỉnh tiến sát đến nhìn vào mặt một cậu thanh niên chằm chằm. Cậu thanh niên to cao, tóc bồng bềnh như sóng đứng bên một phụ nữ tóc hoa râm. Ông ồ lên một tiếng. Bất giác ông giang rộng hai cánh tay ôm chầm lấy cậu thanh niên. Còn tôi cũng hết sức ngạc nhiên. Người phụ nữ sao mà giống cô Khiên con ông Đáo ở làng tôi đến thế. Hình như hai mẹ con họ về thăm quê.

***                                                            
       Khi tôi đang viết những dòng này thì cháu và con của ông Đáo với người vợ thứ hai trong miền Nam đã về tìm lại được quê hương. Hai vợ chồng ông Đáo là hai chiến sĩ tình báo đã hy sinh trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Ông Chiến thì cứ xuýt xoa: “Thằng cháu ngoại của ông Đáo sao mà giống ông ấy như đúc”. Còn tôi lại có ý nghĩ họ như những con chim hải âu bị thương đã được trở về với biển.
--------------------------------------------
(1) Ngày 27/3/1947, giặc Pháp đổ bộ lên cửa biển Nhật Lệ và cửa Gianh mở đầu cho việc đánh chiếm Quảng Bình.
                                                                                                    
Hoàng Minh Đức
Xóm 2, thôn Bắc  Minh Lệ, xã Nam Gianh, tỉnh Quảng Trị.
Điện thoại: 0379872648
.
tin tức liên quan